Hiệu quả vô cảm cse bằng Marcaine+Fentanyl trong và sau mổ thay khớp chi dưới tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm kết hợp gây tê tủy và gây tê ngoài màng cứng (CSE) bằng
Marcaine+Fentanyl liều thấp trong và sau mổ thay khớp háng hay khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu: 113 bệnh nhân (BN) có ASA I đến III. Thực hiện kỹ thuật CSE cho các BN mổ
chương trình có chỉ định thay khớp háng hay khớp gối nhân tạo từ tháng 1/2011 đến tháng 8/2012 tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương.
Kết quả: Vị trí gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng (CSE) tại vùng thắt lưng 3‐4, luồn catheter
ngoài màng cứng 5cm. Độ sâu khoang trung bình 5,61cm. Lưu catheter 74,20 giờ. Thời gian thực hiện kỹ thuật
CSE 7,5 phút. Thời gian tiềm phục 5,12 ± 0,4 phút. VAS từ 0‐2 điểm. Phạm vi vô cảm vùng mổ tốt 100%. Mổ
không đau sau 17,25 phút. Thời gian mổ trung bình 95,04 phút (40‐250 phút). Thời gian phục hồi vận động
130,29 phút. Tác dụng giảm đau hoàn toàn sau gây tê 220,96 phút. Vết mổ dài trung bình 15,67cm (10‐20cm).
Tỉ lệ thành công trong mổ không đau 100% và sau mổ có 96,46%. Đau nhẹ sau mổ 3,54% cần thêm 1 liều bolus.
Thời gian lưu bệnh ở hồi sức 263,81 phút. Ăn uống lại bình thường sau 6 giờ. Thay đổi mạch, huyết áp, hô hấp,
SpO2, ECG trong và sau mổ không đáng kể (p>0,05). Tỉ lệ biến chứng: mạch chậm <55 lần/phút="" 6="" bn="">55>
Hạ huyết áp <90 0mmhg="" 7="" bn="" (6,19%)="" xuất="" hiện="" sau="" gây="" tê="" khỏang="" 30="" phút,="" lúc="" nghiêng="" tư="" thế="" và="" lúc="" xả="">90>
đùi. Rét run 7 BN (6,19%). Bí tiểu sau mổ >10 giờ 5 BN (4,42%). Ngoài ra chưa gặp tai biến quan trọng khác.
Kết luận: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng (CSE) an toàn, hiệu quả giảm đau vượt trội, ít
tai biến‐biến chứng. Chi phí thấp đáng kể.
Từ khóa: gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng, gây tê
ngoài màng cứng liên tục, phẫu thuật thay khớp
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả vô cảm cse bằng Marcaine+Fentanyl trong và sau mổ thay khớp chi dưới tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 12 HIỆU QUẢ VÔ CẢM CSE BẰNG MARCAINE + FENTANYL TRONG VÀ SAU MỔ THAY KHỚP CHI DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG Nguyễn Thu Chung* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm kết hợp gây tê tủy và gây tê ngoài màng cứng (CSE) bằng Marcaine+Fentanyl liều thấp trong và sau mổ thay khớp háng hay khớp gối. Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu: 113 bệnh nhân (BN) có ASA I đến III. Thực hiện kỹ thuật CSE cho các BN mổ chương trình có chỉ định thay khớp háng hay khớp gối nhân tạo từ tháng 1/2011 đến tháng 8/2012 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Kết quả: Vị trí gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng (CSE) tại vùng thắt lưng 3‐4, luồn catheter ngoài màng cứng 5cm. Độ sâu khoang trung bình 5,61cm. Lưu catheter 74,20 giờ. Thời gian thực hiện kỹ thuật CSE 7,5 phút. Thời gian tiềm phục 5,12 ± 0,4 phút. VAS từ 0‐2 điểm. Phạm vi vô cảm vùng mổ tốt 100%. Mổ không đau sau 17,25 phút. Thời gian mổ trung bình 95,04 phút (40‐250 phút). Thời gian phục hồi vận động 130,29 phút. Tác dụng giảm đau hoàn toàn sau gây tê 220,96 phút. Vết mổ dài trung bình 15,67cm (10‐20cm). Tỉ lệ thành công trong mổ không đau 100% và sau mổ có 96,46%. Đau nhẹ sau mổ 3,54% cần thêm 1 liều bolus. Thời gian lưu bệnh ở hồi sức 263,81 phút. Ăn uống lại bình thường sau 6 giờ. Thay đổi mạch, huyết áp, hô hấp, SpO2, ECG trong và sau mổ không đáng kể (p>0,05). Tỉ lệ biến chứng: mạch chậm <55 lần/phút 6 BN (5,3%). Hạ huyết áp <90/50mmHg 7 BN (6,19%) xuất hiện sau gây tê khỏang 30 phút, lúc nghiêng tư thế và lúc xả garô đùi. Rét run 7 BN (6,19%). Bí tiểu sau mổ >10 giờ 5 BN (4,42%). Ngoài ra chưa gặp tai biến quan trọng khác. Kết luận: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng (CSE) an toàn, hiệu quả giảm đau vượt trội, ít tai biến‐biến chứng. Chi phí thấp đáng kể. Từ khóa: gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng, gây tê ngoài màng cứng liên tục, phẫu thuật thay khớp. ABSTRACT EFFECTS OF COMBINED SPINAL‐EPIDURAL ANESTHESIA WITH MARCAINE AND FENTANYL DURING AND AFTER KNEE AND HIP ARTHROPLASTY AT NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL Nguyen Thu Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 11 ‐ 21 Aim: To evaluate the effects of CSE Anesthesia for knee and hip Arthroplasty. Method: Prospective study, transitive description based on clinical aspects. Objects: 113 patients, ASA I‐III. Applying methods of CSE anesthesia on selected patients for knee and hip Arthroplasty from January 2011 to August 2012 at Nguyễn Tri Phương Hospital. Results: anesthetic site was spinal and epidural at L3‐4, catheter was inserted 5cm into epidural with average depth about 5.61cm, and held in this position about 74.20 hours. The anesthetic time is 7.5 min. worn off time is 5.12±0.4 min. VAS from 2 to 0 point, with 100% good blockage extent. Painless operation is performed *Bệnh viện Nguyễn Tri Phương Tác giả liên lạc: BS.CKII Nguyễn Thu Chung ĐT: 0908138846, Email: nguyenthuchung@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 13 after 17.25 min. the average duration for operation is 95.04 min (40‐250 min). The duration for motor recovery is 130.29 min. After blockage, complete pain reduction is 220.96 min. The incision is 15.67 cm (10‐20cm). Success rate during and after surgery are 100% and 96.46%. Moderate pain is 3.54% with a bolus. Time for post‐ operation is 263.81min. Eating normal after 6 hours. There are some mild changes in pulse blood pressure, respiration, SpO2, ECG during and after operation (p>0,05). Frequency of complications: slow pulse 55 beats/min in six patients (5.3%); hypotension <90/50mmHg in 7 patients (6.19%) 30 min after blockage in the lateral recumbent position and at the time of withdrawing tourniquet thigh, shivering in 7 patients (6.19%); urinary retention >10 hours in 5 patients (4.42%). In addition, no change in important complications is noticed. Conclusions: CSE was the safe, efficacious, and excellent painless procedure for knee and hip Arthroplasty. No important complication. Impressive cost reduction of. Keyword: Spinal Analgesia, Epidural Analgesia, Combined Spinal and Epidural Anesthesia (CSE), Continuous epidural blocks, Arthroplasty. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật thay khớp háng hay khớp gối được thực hiện lần đầu tiên trên thế giới vào những năm 1930 và tại Việt Nam vào những năm 1987. đến nay đã có những bước tiến bộ không ngừng giúp cho quá trình điều trị những bệnh nhân bị thoái hóa khớp, hư khớp gối, hoại tử chỏm xương đùi hay gãy cổ xương đùi tránh được đau đớn, tàn phế, giúp họ có khả năng tự đi lại được tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt, giảm đi gánh nặng và sự chăm sóc của người thân, góp phần không nhỏ trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống. Đau đớn do bệnh tật luôn là nổi sợ hãi, lo lắng tột cùng đã ám ảnh người bệnh nhất là khi họ cần phải chấp nhận cuộc phẫu thuật lớn như vậy. “Đau là cảm giác không thoải mái, là những trải nghiệm cảm xúc liên quan tới sự tổn thương mô thực thụ hoặc tiềm ẩn hoặc những tổn thương tương tự”. Tuổi cao là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh tật. Tuổi cao không làm tăng đáng kể nguy cơ phẫu thuật nhưng những biến đổi sinh lý bệnh trong quá trình tích tuổi và bệnh lý kèm theo về nội khoa như tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tiểu đường, tâm phế mạn, suy thận mạn, thiếu máu, suy dinh dưỡng cơ thể thường làm cho nguy cơ Gây mê‐Phẫu thuật gia tăng đáng kể. Mối quan tâm hàng đầu của phẫu thuật viên và Bác sĩ gây mê hồi sức (GMHS) là chọn phương pháp vô cảm nào thích hợp nhất, an toàn cao nhất nhằm mục đích giảm đau tuyệt đối trong và sau mổ cho người bệnh mà không làm gia tăng nguy cơ bệnh tật kèm theo. Xu hướng gây mê hiện đại ngày nay là áp dụng mô hình giảm đau đa phương thức, ưu tiên chọn lựa là các kỹ thuật gây tê vùng, gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng hay CSE (Combined Spinal and Epidural Anaesthesia) bằng thuốc tê phối hợp liều nhỏ thuốc giảm đau opioides kết hợp các thuốc giảm đau acetaminophène hay non‐steroides cho phẫu thuật chi dưới đặc biệt là trong chấn thương chỉnh hình vì những kỹ thuật này đã góp phần giảm thiểu tỉ lệ biến chứng tắc mạch và tỉ lệ tử vong cho người bệnh đến 30% so với vô cảm toàn thân(9). Bởi vì khi gây mê toàn thể phải đối mặt rất nhiều với những tai biến‐biến chứng của việc đặt nội khí quản, nhiều thuốc dùng trong gây mê, liệt ruột kéo dài bất lợi cho các bệnh nhân lớn tuổi. Theo thống kê cho thấy tỉ lệ sốc phản vệ do thuốc trong gây mê khoảng 1/10.000‐1/20.000 trong đó do thuốc ngủ 7,4%; thuốc giãn cơ 62%; nhựa 16,5%; chất thay thế huyết tương 3,6%; Morphine 1,9%... đặc biệt hiếm thấy phản ứng phản vệ do thuốc tê gây ra(13,12). Kỹ thuật CSE phát triển từ thập niên 1950, bao gồm sự kết hợp giữa 2 kỹ thuật gây tê tủy sống vào vùng thắt lưng để bơm lượng thuốc tê nhỏ vào khoang dưới nhện làm tê tạm thời các Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 14 rễ thần kinh mà nó chi phối cảm giác và vận động chi dưới đồng thời gây tê ngoài màng cứng có luồn một catheter vào khoang ngoài màng cứng cho thuốc tê liên tục làm kéo dài thời gian giảm đau cho người bệnh trong 3 ngày đầu sau mổ. Sự kết hợp như trên sẽ giảm được liều thuốc tê của mỗi kỹ thuật nên tỉ lệ tai biến‐biến chứng rất thấp như nhiều tác giả trong ngoài nước đã nghiên cứu và công bố(8,14,5,6),. Tuy nhiên sử dụng liều thuốc tê tủy sống bằng Marcaine 0,5% 10mg+Fentanyl 20μg và duy trì bơm điện qua catheter ngoài màng cứng liều Marcaine 0,125% (7,5mg/giờ) + Fentany l1,25μg/ml (7,5μg/giờ) là liều rất thấp mà chưa tác giả nào công bố có thực sự mang lại hiệu quả giảm đau trong và sau mổ cho các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng hay khớp gối hay không? Chính vì lý do trên mà chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm các mục tiêu như sau: Đánh giá hiệu quả vô cảm CSE bằng Marcaine + Fentanyl liều thấp trong và sau mổ thay khớp háng hay khớp gối Các thay đổi trên hô hấp, tuần hoàn và các phiền nạn có thể gặp trong thời điểm nào để có cách đề phòng, phát hiện, xử lý tình huống Xác định tỉ lệ thành công, tỉ lệ tai biến‐biến chứng khi thực hiện vô cảm này ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực nghiệm lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân (BN) có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng hay khớp gối nhân tạo tại Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 01/2011 đến tháng 08/2012. Kỹ thuật chọn mẫu Tiêu chuẩn chọn bệnh Không có chống chỉ định với gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng. Có chỉ định thay khớp gối hay khớp háng nhân tạo. Bệnh nhân có yêu cầu làm giảm đau ngoài màng cứng liên tục trong và sau mổ. Tiêu chuẩn loại trừ BN đang nhiễm trùng toàn thân, tình trạng sốc hay giảm khối lượng tuần hoàn. Dị dạng cột sống, gù vẹo, viêm nhiễm tại vùng định gây tê, có bệnh lý thần kinh trung ương, tăng áp lực nội sọ, dị ứng thuốc tê hay các thuốc họ Morphine, rối loạn đông máu. BN kiên quyết từ chối. Thu thập thiếu số liệu. Phương tiện và trang thiết bị Tại phòng mổ: Máy gây mê, nguồn dưỡng khí, Monitoring theo dõi mạch, huyết áp, SpO2, ECG, Mâm gây tê vô trùng, bộ dụng cụ gây tê ngoài màng cứng Perifix của hãng B/Braun, kim gây tê tủy sống 25G, dung dịch sát trùng da, găng tay vô trùng, máy bơm tiêm điện, bơm tiêm 60ml, dây nối bơm tiêm điện, điện cực đo ECG. Thuốc gây mê và hồi sức: dịch truyền, dây truyền dịch, dây 3 chạc, kim luồn 18G, thuốc tê Marcaine for spinal 0,5% 4ml, Marcaine 0,5% lọ 20ml, Fentanyl 100 μg/2ml, Atropine sulfat, Ephedrine 30mg, Midazolam 5mg, hộp thuốc chống sốc.và các thuốc gây mê hồi sức khác. Cách thức tiến hành Sau khi có chỉ định phẫu thuật Tiếp cận bệnh nhân Khám tiền mê trước mổ đánh giá tình trạng sức khỏe BN, các bệnh kèm theo cần điều trị ổn định, các xét nghiệm tiền phẫu cho phép mổ được, không có chống chỉ định với gây tê tuỷ sống hay ngoài màng cứng, xếp loại ASA, Malampati, giải thích cách thức tiến hành kỹ thuật CSE cho người bệnh biết để yên tâm hợp tác, ký tên vào bảng cam kết mổ và có yêu cầu làm giảm đau. Khi BN vào phòng mổ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 15 Tiếp đón ân cần, trấn an người bệnh và yêu cầu BN hợp tác. Tiến hành lấy ven truyền dịch Lactate Ringer’s hay NaCl 9 ‰ với kim luồn 20 G, cố định kim chắc chắn. Gắn Monitoring và dán điện cực đo ECG, SpO2, Mạch, huyết áp, nhịp thở, cài đặt tự động theo dõi mỗi 5phút/lần trong suốt cuộc mổ. Cho BN thở oxy qua mũi 2lít/phút hay qua mask 5lít/phút. Tiến hành kỹ thuật BN nằm nghiêng về bên có chi phẫu thuật, tư thế “cong lưng tôm”, người làm kỹ thuật rửa tay mang găng vô trùng và sát trùng da với bétadine sau đó làm sạch da bằng cồn, xác định vị trí gây tê vùng thắt lưng 3‐4, đường giữa, tê trong da với 1ml Marcaine 0,5%, gây tê tủy sống với kim 25G khi có dịch não tủy trong chảy ra thì tiêm 10mg/2ml Marcaine for Spinal 0,5% + Fentanyl 20 μg, tiêm chậm, sau đó rút kim ra và tiến hành gây tê ngoài màng cứng cũng tại vị trí này, với kỹ thuật xác định “mất sức cản” là dung dịch NaCl 9‰. Khi thấy nhẹ tay thì luồn catheter vào và đặt trong khoang ngoài màng cứng khoảng 5cm, cố định ngoài da bằng miếng dán Askinase 10 x12 cm, cho BN nằm ngữa lại, kiểm tra sinh hiệu ổn định thì cho Phẫu thuật viên kê tư thế, tiến hành sát trùng, trải săng và bắt đầu mổ. Sau gây tê tủy sống 1 giờ, bơm liều bolus Marcaine 0,125% 10mg+Fentanyl 20 μg qua catheter ngoài màng cứng để duy trì giảm đau trong mổ. Sau khi mổ xong, cho thuốc vào bơm tiêm điện duy trì liên tục liều giảm dần với Marcaine 0,125%+Fentanyl 1,25 μg/ml tốc độ 6ml/giờ ngày 1, ngày 2: 5ml/giờ và ngày 3: 4ml/giờ. Rút catheter ngoài màng cứng khi hết thuốc tê. Tổng lượng thuốc tê cho 3 ngày trung bình 4‐5 lọ Marcaine 20ml và 4‐5 ống Fentanyl 100 μg. Phối hợp thuốc giảm đau non‐steroides loại Mobic hay Felden mỗi 12 giờ hoặc loại Acetaminophène như Perfalgan 1g/mỗi 8giờ. Hình 1,2,3,4: Minh họa gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng (CSE) có luồn catheter Ghi nhận các chỉ số theo dõi Hô hấp, SpO2, Mạch, huyết áp, mức tê, độ liệt vận động, mức độ đau theo VAS vào phiếu nghiên cứu qua các thời điểm: Trườc gây tê (T1), sau gây tê (T2), Kê tư thế (T3), rạch da (T4), bỏ chỏm hư (T5), đặt dụng cụ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 16 nhân tạo (T6), đổ xi măng (T7), khâu vết mổ xong hay có xả garo đùi (T8), Hồi sức giờ đầu (T9), khi chuyển lại khoa (T10). Thang điểm Bromage về phong bế vận động có 4 độ Độ 0: không phong bế, cử động hoàn toàn ở bàn chân và gối; Độ 1: phong bế 1 phần. Một ít cử động ở gối, không nâng chân lên được; Độ 2: phong bế hầu như hoàn toàn. Chỉ có cử động được bàn chân; Độ 3: phong bế hoàn toàn. Không cử động được bàn chân hoặc gối. Đánh giá mức tê Mốc phân bố cảm giác: T12: ngang nếp bẹn; T10: ngang rốn; T8: ngang hai hạ sườn; T6: vùng hõm ức. Ghi nhận các bất thường như hạ huyết áp, nhịp tim chậm, bí tiểu, yếu cơ, độc tính thuốc tê xuất hiện tại thời điểm nào, cách xử lý và kết quả. Khi BN được chuyển lại khoa: mỗi ngày thăm lại bệnh để điều chỉnh liều thuốc tê giảm đau phù hợp, ghi nhận các phiền nạn khác như bí tiểu, đau đầu, đau lưng. Tham khảo Bác sĩ phẫu thuật nhận xét kết quả vô cảm trong và sau mổ: Loại tốt: tê hoàn hoàn, giãn cơ tốt, suốt cuộc mổ không đau Loại khá: Tê không hoàn toàn, BN khó chịu, kêu đau nhẹ, phải thêm thuốc tiền mê. Loại kém: không tê hay mức tê thấp, mổ khớp háng gây đau phải đổi vô cảm sang gây mê. Thu thập và xử lý số liệu Nam, nữ, tuổi đời, chiều cao, cân nặng, bệnh kèm, tình trạng sinh hiệu, huyết động trong và sau mổ, đánh giá vận động, thang điểm đa ... huật lấy u tuyến yên. Về mặt thực tế khảo sát giải phẫu, chúng tôi ghi nhận dạng khí hóa sau yên bướm với những nhóm phân dạng chi tiết là một thực thể lâm sàng không thể bỏ qua hay gộp chung với dạng yên bướm. Bởi lẽ, phân loại dạng này sẽ giúp các nhà phẫu thuật sàn sọ có những đánh giá trước mổ hay chủ động chỉ định dùng phương pháp nội soi qua XB để vào sàn sọ hố sau. Khí hóa XB lan rộng sang bên Theo quan điểm phân loại của Wang J.(34), Trong nghiên cứu này chúng tôi đã ghi nhận khoảng ½ các trường hợp khảo sát XB có khí hóa lan rộng sang bên. Số liệu tỉ lệ này tương đồng với nghiên cứu của Wang J.(34) (Bảng 4) Bảng 4: So sánh tỉ lệ các dạng khí hóa XB lan rộng sang bên giữa các tác giả. Cánh lớn XB Chân bướm Hỗn hợp ∑ Wang 11 (5,5%) 10 (5%) 71 (35,5%) 92/200 (46%) Chúng tôi 16 (6,6%) 12 (5%) 94 (39,1%) 122/240 (50,8%) Sự lan rộng khí hóa sang bên của XB, tạo thành những ngách bên hướng về cánh lớn xương bướm, hướng xuống chân bướm hay cả hai. Những ngách này bên dưới sàn sọ giữa tiếp TK thị Ngách cảnh thị Động mạch cảnh A TK thị B Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 28 cận mặt trước trong hay trước ngoài của hố sọ giữa tạo tiện lợi tiếp cận vùng trước trong xoang hang, hố sọ giữa mà ngày nay phẫu thuật sàn sọ đặc biệt chuyên ngành phẫu thuật thần kinh đang phát triển. Khí hóa sang bên với Rò dịch não tủy: Tác giả Morley T.P. 1964(22) qua 2 trường hợp báo cáo rò dịch não tủy qua mũi sau chấn thương đã nhân định vị trí rò xuất phát từ hõm bên của xoang bướm do khí hóa phát triển sang bên quá mức. Qua khảo sát 92 sọ người, Morley cũng đã ghi nhận có 28 trường hợp xoang bướm khí hóa phát triển sang một bên và 16 trường hợp khí hóa phát triển sang bên cả 2 bên. Ông đã khuyến cáo việc đánh giá trước mổ sự khí hóa sang bên trong các trường hợp rò dịch não tủy qua mũi sau chấn thương bằng khảo sát X‐Q là điều nên làm vào thời điểm báo cáo trên (chưa có CT scan). Tác giả Lopatin A.S.(18) phân tích các yếu tố căn nguyên trong báo cáo 21 trường hợp rò dịch não tủy qua mũi tự phát được điều trị bằng phẫu thuật nội soi qua mũi, đã ghi nhận có 9/21 trường hợp vị trí rò dịch não tủy ở thành bên xoang bướm trong đó có 6 trường hợp thành bên xoang bướm khí hóa quá mức sang bên. Ông nhấn mạnh yếu tố khí hóa quá mức sang bên của xoang bướm và cho rằng sự khí hóa quá mức sang bên của xoang bướm đã làm mỏng xương sàn sọ đôi lúc sẽ dẫn tới sa và làm rách màng cứng. Rò DNT qua mũi tự phát là một thử thách điều trị lâm sàng. Với CT scan khảo sát các xoang quanh vùng mũi, sàn sọ, chụp bể DNT và thủy động DNT bằng hình ảnh MRI, qua các nghiên cứu những trường hợp rò DNT tự phát, các báo cáo cho thấy rằng căn nguyên do nhóm dị dạng bẩm sinh xương sàn sọ gây nên chiếm tỉ lệ khá cao. Những trường hợp dị dạng sàn sọ bẩm sinh này, thường xảy ra ở lá sàng (cribiform plate) và thành bên xoang bướm trong những trường hợp khí hóa lan rộng sang bên quá mức. Tất cả những trường hợp này, với phương pháp nội soi qua mũi vùng xoang bướm đã là chọn lựa điều trị hữu hiệu nhất hiện nay(18‐22). Khí hóa sang bên với cắt dây thần kinh Vidian: Những nghiên cứu trong y văn đã cho thấy rằng cắt dây thần kinh Vidian sẽ ức chế hoạt động thái hóa của hệ phó giao cảm qua việc phá vỡ phân bổ cholinergic đến niêm mạc mũi(28). Năm 1961, tác giả Golding –Wood(8) đã đề xuất cho việc cắt dây thần kinh vidian trong điều trị viêm mũi vận mạch khó trị. Tuy nhiên sau đó, việc cắt thần kinh vidian đã không thật sự khuyến cáo và bị lãng quên bởi kỹ thuật mổ khó tiếp cận thần kinh vidian và hiệu quả không cao. Trong một nghiên cứu khảo sát vị trí ống thần kinh Vidian ở thành bên xoang bướm, Yazar(35) đã nhân thấy có 36% các trường hợp ống thần kinh nằm chìm trong xương bướm; 54% các trường hợp ống thần kinh lồi vào trong xoang bướm một phần; và lồi hẳn vào lòng xoang bướm chỉ dính vào xoang bởi cuống xương chiếm 10% các trường hợp. Kiến thức về độ lan rộng của khí hóa xoang bướm sang bên và những biến đổi cấu trúc giải phẫu của xoang bướm sẽ giúp phẫu thuật viên xác định chính xác vị trí thần kinh Vidian trong lúc mổ. Và với phương tiện nội soi qua mũi trong xoang bướm bằng ống soi góc 70 o, ta có thể nhìn thấy rõ độ lồi của ống thần kinh trong lòng xoang(16,28). Các vấn đề liên quan khác: Trong một báo cáo về những sang thương bệnh lý lành tính lan rộng trong xoang bướm, tác giả Lewin(17) ghi nhận bệnh lý thường gặp nhất trong xoang bướm thường kèm theo với khí hóa lan rộng, đặc biệt lan rộng sang bên là u nang nhầy niêm dịch xoang (mucocele). Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng bệnh đa polyp, u tân sinh lành tính hoặc ác tính, bệnh lý giãn rộng xoang chứa khí (pneumosinus dilatant) cũng thường làm mất đối xứng xoang bướm do sự bành trướng lan rộng của sang thương dễ nhầm tưởng với những trường hợp khí hóa lan rộng sang bên bình thường hoặc cùng tồn tại sự khí hóa lan rộng sang bên trước đó. Tuy nhiên, nét lưu ý để có thể phân biệt khí hóa lan rộng bình thường Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 29 với tổn thương bệnh lý lan rộng kèm theo là sự bào mòn thành xoang, đặc biệt tại lỗ tròn và ống vidian. Hình 5: Hình CT scan của một trường hợp mucocele xoang bướm bên phải trên một bệnh nhân có xoang bướm lan rộng sang bên hai bên. Nguồn Lewin JS (1999)(17). Thêm nữa, ở những trường hợp viêm nhiễm tụ dịch trong xoang bướm, bằng phương khảo sát CT scan cần thiết đánh giá trước điều trị có hay không những hõm ngách bên do sự khí hóa lan rộng sang bên tạo nên. Bỏ qua sự khảo sát này, sự điều trị sẽ khó triệt để do tồn đọng dịch viêm không được tháo lưu đầy đủ. Khí hóa ra trước của XB Xoang bướm khí hóa ra trước Trong sự khảo sát khí hóa ra trước của XB, dây thần kinh thị và mấu giường trước là những cấu trúc giải phẫu nằm phía trên trước của thành ngoài XB chịu ảnh hưởng của sự khí hóa này. Tỉ lệ khí hóa mấu giường trước (anterior clinoid process) đã được ghi nhận nhiều trong y văn. Trong một nghiên cứu xoang cạnh mũi bằng CT scan, De Lano(3) ghi nhận có 4% (13 của 300 bên xoang) có mấu giường trước bị khí hóa. Cũng bằng khảo sát CT scan trong một nghiên cứu XB, Sirikci và cộng sự tìm thấy mấu giường trước có tỉ lệ khí hóa 29,3% trong 92 bên xoang(30). Nghiên cứu này của chúng tôi cho thấy tỉ lệ mấu giường trước khí hóa là 18,3% (44 của 240 bên xoang) (bảng 3). Sự không đồng nhất về tỉ lệ ghi nhận sự khí hoá của mấu giường trước có thể lý giải bởi khác nhau về mẫu nghiên cứu, và đặc biệt là sự khác nhau về phương tiện khảo sát bằng CT scan, đó là độ dầy lát cắt CT scan qua các thế hệ cải tiến được sử dụng trong các nghiên cứu. Sự khí hóa mấu giường trước sẽ tạo nên một ngách nhỏ trên thành ngoài XB, còn được gọi là ngách cảnh thị (opticocarotid recess). Đây là một khoảng nhỏ lõm trên thành XB, phía mép trên là cống thần kinh thị và phía dưới là ụ lồi động mạch cảnh. Sự khí hóa MGT hoàn toàn có thể gây ra việc dây thần kinh thị lồi hẳn hoặc chạy trong XB. Cùng nhận xét tương tự Sirikci và Brisen(30), chúng tôi nhận thấy có mối liên hệ có ý nghĩa giữa sự xuất hiện khí hóa mấu giường trước và sự lồi của thần kinh thị. Hay nói khác đi, trên khảo sát CT scan trước mổ, một khi ghi nhận có khí hóa mấu giường trước đó sẽ là dấu hiệu để tiên đoán có sự lồi của thần kinh thị trên thành XB. Xoang bướm kém khí hóa ra trước Như đã trình bày phần trên, sự khí hóa của mấu giường trước có sự liên quan đến sự lồi của thần kinh thị. Tuy nhiên, trong những trường hợp XB kém khí hóa ra trước, tế bào khí sàng sau cũng có thể khí hóa lan rộng ra sau trên tạo thành phần thành trong của cống thần kinh của dây thần kinh thị. Trong những trường hợp đặc biệt này, tùy thuộc vào mức khí hóa lan rộng của tế bào sàng sau, thần kinh thị có thể tiếp xúc hay chạy ngang qua trong xoang sàng. Đặc điểm này được xem như là một yếu tố giải phẫu cần lưu ý như một nguy cơ đe dọa chấn thương thần kinh thị trong phẫu thuật xoang nói chung. Nói cách khác, thần kinh thị liên quan với XB và xoang sàng. Tế bào Onodi là một tế bào sàng sau, khi có sự khí hóa lan xa ra bên và lên trên tế bào xoang lấn vào xoang bướm. Khi đó vị trí thông thường của dây thần kinh thị thường nằm trong xoang sàng(20). Nhiều tác giả đã ghi nhận tỉ lệ ghi nhận có tế bào Onodi khoảng 8~14%(3,4,12‐ 14). Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận tế bào sàng sau khí hóa lan rộng ra sau trên tạo nên hiện tượng cống thần kinh thị nằm trong mucocele Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 30 xoang sàng chiếm tỉ lệ 17,1% các cạnh, trong đó bên phải ghi nhận 22 trường hợp, bên trái có 19 trường hợp. Sự khác biệt này có thể lý giải qua tính địa lý của mẫu dân số, qui ước giải phẫu cũng như thống nhất định nghĩa của tế bào Onodi trong tế bào sàng sau trong mỗi nghiên cứu. Trong khi tiến hành phẫu thuật nôi soi xoang chức năng, cần chú ý đặc biệt đến mối quan hệ giữa tế bào xoang sàng sau với XB. Vì tế bào sàng sau khí hóa lan rộng ra sau và lên trên góc ngoài thành trước XB, điểm sau nhất của tế bào sàng sau đôi lúc có thể nằm sau thành trước XB đến 1,5cm(14,27). Nhận định đánh giá trước mổ về hiện tượng liên quan giữa khí hóa lan rộng ra sau của tế bào sàng sau với thần kinh thị giúp tránh được biến chứng tổn thương thần kinh thị lực gây ra trong lúc mổ. CT scan tỏ ra giúp ích trong bước chuẩn bị này(24,4). KẾT LUẬN Bằng phân tích hình ảnh CT scan, chúng tôi đã khảo sát và cung cấp những thông tin về hình thái giải phẫu của sự khí hóa XB. Nắm vững kiến thức giải phẫu đặc thù này của XB sẽ giúp phẫu thuật viên có một đánh giá toàn diện trước mổ cũng như tránh những biến chứng của một phẫu thuật nội soi trong mũi qua XB. Ngoài ra, sự đánh giá toàn diện về KHXB giúp nhận định nguyên nhân, phương hướng điều trị trong các trường hợp rò DNT qua mũi, điều trị triệt để các dạng viêm nhiễm cũng như khả năng mở rộng chỉ định ứng dụng đường mổ nội soi trong mũi qua xoang bướm trong điều trị phẫu thuật sàn sọ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Banna M, Olutola PS (1983). “Patterns of pneumatization and septation of the sphenoid sinus”. Journal de L’association canadienne des radiologistes. 34, pp:291‐294. 2. Chen YL, Lee LA, Lim KE (2006). “Surgical consideration to optic nerve protrution according to sinus computerd tomography”. Otolaryngology Head Neck Surgery. 134, pp:499‐505. 3. Delano MC, Fun FY, Zinreich SJ (1996). “Relationship of the optic nerve to the posterior paranasal sinuses: A CT anatomic study”. Am J Neuroradiol 17, pp:669‐675. 4. Driben JS, Bolger WE, et al. (1998). “The reliability of computerized tomographic detection of the Onodi (sphenoethmoid) cell”. Am J Rhinology. 12, (2), pp:105‐111. 5. Earwaker J (1993) Anatomic variants in sinonasal CT. Radiographics 13:381‐415. 6. Elwany S, Yacout YM, et al. (1983). « Surgical anatomy of the sphenoid sinus”. J laryngo Otol 97, (3), pp:227‐241. 7. Fujii K, Chambers SM, Rhoton AJ Jr. (1979). “Neurovascular relationships of the sphenoid sinus: A microsurgical study”. J Neurosurg 50, pp:31‐39. 8. Golding‐Wood PH (1961) Observation of petrosal and vidian neurectomy in chronic vasomotor rhinitis. J Laryngol Otol 75: 232‐247. 9. Hamberger CA, Hammer G, Norlen G, Sjogren B (1961) Transantrosphenoidal hypophysectomy. Arch Otolaryngol 74:2‐8. 10. Hamid O, Filky LE, et al. (2008). “Anatomic variations of the sphenoid sinus and their impact on transsphenoid pituitary”. Skull base 19, (1), pp:9‐15. 11. Hammer G, Radberg C (1961). “Sphenoidal sinus: anatomical and roentgenologic study with reference to transsphenoid hypophysectomy”. Acta radiol., 56, pp:401‐422. 12. Idowu OE, Balogun BO, Okoli CA (2009). “Dimensions, septation, and pattern of pneumatization of the sphenoidal sinus”. Folia Morphol. 68, (4), pp:228‐232. 13. Kantarci M, Karasen MR, Alper F, et al. (2004). “Remarkable anatomic variations in paranasal sinus region and their clinical importance”. European Journal of Radiology 50, pp:296‐302. 14. Kazkayasi M, Karadeniz Y, Arikan OK (2005). “Anatomic variations of the sphenoid sinus on computed tomography”. Rhinology. 43, pp:109‐114. 15. Lê Quang Tuyền, Phạm Quang Diệu, Trần Đăng Khoa, Hồ Nguyễn Anh Tuấn (2010). “Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng xoang bướm và các cấu trúc quanh xoang bướm trên sọ xác người Việt nam”. Y Học TP Hồ Chí Minh, Phụ bản số 2, tr: 174‐180. 16. Lee JC, Hsu CH et al. 2009. Endoscopic intrasphenoidal vidian neurectomy: how we do it. Clinical Otolaryngology. 34: 565‐576. 17. Lewin JS, Curtin HD, et al. 1999. Benign expansile lesions of the sphenoid sinus: differentiation from normal asymmetry of the lateral recesses. Am J Neuroradiol 20:431‐466. 18. Lopatin AS, Kapitanow DN, Potapov AA. 2003. Endonasal endoscopic repair of spontaneous cerebrospinal fluid leaks. Arc Otolaryngol Head Neck Surg 129:859‐863. 19. Miklos T, Oxana S, et al. 2010. Spontaneous cerebrospinal fluid rhinorrhea: a clinical and anatomical study. Laryngoscope 120:1724‐1729. 20. Minovi A, Schick B, Draf W (2009). “Complications of endonasal endoscopic sinus surgery” in Rhinology and facial plastic surgery. Springer, Verlag Berlin. pp: 588‐592. 21. Moeller CW, Welch KC (2010). “Prevention management of complications in sphenoidotomy”. Otolaryngol Clin N Am. 43, pp:839‐854. 22. Morley TP, Wortzman G (1965). “The importance of the lateral extension of the sphenoidal sinus in post‐traumatic cerebrospinal rhinorrhoea and meningitis”. J Neurosurg. 22, pp:326‐332. 23. Mosher HP (1903) The anatomy of the sphenoidal sinus and the method of approaching it from antrum. Laryngoscope. 13:177‐202. 24. Nguyễn Bích Hạnh. (2011) Hình thái giải phẫu xoang bướm trên CT scan ‐ Ứng dụng trong phẫu thuật xoang bướm qua nội soi. Luận văn CK.II. Đại học Y Dược TP.HCM.
File đính kèm:
- hieu_qua_vo_cam_cse_bang_marcainefentanyl_trong_va_sau_mo_th.pdf