Hiệu quả thoái vốn nhà nước, nhìn từ trường hợp Sabeco
Bài viết nhìn lại quá trình thực
hiện thương vụ bán vốn cổ
phần nhà nước tại Tổng công
ty cổ phần Bia- Rượu- Nước
giải khát Sài Gòn (Sabeco),
đồng thời đưa ra các đánh giá
về tình hình tài chính của Tổng
công ty sau thương vụ, tác
động của thương vụ bán vốn
đến lợi ích chủ chủ sở hữu ,
từ đó nêu ra một số vấn đề
đáng quan tâm.
Từ khoá: Sabeco, bán vốn,
thoái vốn
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả thoái vốn nhà nước, nhìn từ trường hợp Sabeco", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả thoái vốn nhà nước, nhìn từ trường hợp Sabeco

1. Giới thiệu chung về Sabeco Lịch sử hoạt động Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (tên viết tắt là Sabeco) được thành lập ngày 6/5/2003 theo Quyết định số 74/2003/QĐ- BCN của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương). Ngày 7/4/2008, Sabeco đã tổ chức thành công Đại hội đồng cổ đông lần đầu và ngày 17/4/2008 chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Ngày 20/10/2016, Đại hội đồng cổ đông Sabeco ban hành Nghị quyết thông qua việc niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM với mã SAB. Vị thế thương hiệu Sabeco hiện đang thống trị thị trường bia miền Nam, chiếm 46% thị phần bia Việt Nam (EBVN, 2016), là thương hiệu được người tiêu dùng phân khúc thấp và trung cấp ưa thích. Sabeco liên tục thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và thị trường tiêu thụ, với 8 dòng sản phẩm bia; các sản phẩm nước giải khát Chương Dương và rượu Bình Tây. Trong Top 10 sản phẩm bia phổ biến nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay, có 3 sản phẩm thuộc sở hữu của Sabeco là Saigon Export, 333 Export và Saigon Lager, chiếm 44,9% tổng thị phần. Sản phẩm xuất khẩu của Sabeco cũng đã có mặt tại 28 quốc gia trên thế giới, bao gồm các thị trường nổi tiếng với yêu cầu cao như Đức, Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan Sabeco hiện nay có một hệ thống sản xuất gồm 23 nhà máy sản xuất bia, 1 nhà máy sản xuất nước giải khát, 1 nhà máy sản xuất rượu cồn, với quy trình sản xuất khép kín, đội ngũ chuyên gia sản xuất bia tay nghề cao, thiết bị hiện đại. Năng lực sản xuất của Sabeco hiện gấp đôi các công ty xếp hạng hai và ba là Heineken (0,95 tỷ lít/năm) và Habeco (0,8 tỷ lít/năm), gấp bốn lần Carlsberg (0,425 tỷ lít/năm). Hệ thống phân phối bán hàng của Sabeco bao gồm 1 công ty thương mại (Công ty TNHH MTV Thương mại Bia Sài Gòn); 10 CTCP Thương mại Bia Sài Gòn khu vực, quản lý 44 chi nhánh trên toàn quốc; 8 tổng kho phục vụ điều phối sản phẩm; 800 nhà phân phối cấp I và trên 32.000 điểm bán trên 63/63 tỉnh, thành toàn quốc; hệ thống 23 nhà máy sản xuất bia trên toàn quốc, 1 nhà máy sản xuất rượu và 1 nhà máy sản xuất nước giải khát. - Tình hình tài chính của Sabeco trước khi bán cổ phần nhà nước (1) Quy mô doanh thu và lợi nhuận Trong giai đoạn 2014 - 2016, doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ của Sabeco gia tăng liên tục, với tốc độ tăng bình quân là 11,71%. Cùng với sự gia tăng của doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế của Công ty cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của lợi nhuận sau thuế đạt 28,75%, cao gấp đôi tốc độ tăng bình quân của doanh thu thuần (hình 1, trang 27). Ngoài những lý do khách quan từ sự phục hồi của kinh tế, tăng trưởng toàn thị trường bia đạt tốc độ 5,9%, còn có lý do chủ quan là Sabeco đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị sản phẩm, cạnh tranh hiệu quả với các thương hiệu bia quốc tế khác ngay tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tiết giảm chi phí, giá thành (do giá cả các loại nguyên vật liệu sản xuất chính như malt và vỏ lon nhôm giảm và quyết định thời điểm mua hàng phù hợp) đã góp phần gia tăng lợi nhuận đáng kể cho Sabeco. Hiệu quả thoái vốn nhà nước, nhìn từ trường hợp Sabeco PGS.TS Phạm Thị Thanh Hòa* - Ths. Hồ Quỳnh Anh* Bài viết nhìn lại quá trình thực hiện thương vụ bán vốn cổ phần nhà nước tại Tổng công ty cổ phần Bia- Rượu- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), đồng thời đưa ra các đánh giá về tình hình tài chính của Tổng công ty sau thương vụ, tác động của thương vụ bán vốn đến lợi ích chủ chủ sở hữu, từ đó nêu ra một số vấn đề đáng quan tâm. Từ khoá: Sabeco, bán vốn, thoái vốn * Học viện Tài chính Nhận: 25/9/2019 Biên tập: 05/10/2019 Duyệt đăng:15/10/2019 Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201926 Nghiên cứu trao đổi Bia và bao bì vật tư là hai nhóm đem lại doanh thu cho Sabeco, chiếm trên 98% tổng doanh thu thuần. Bia là lĩnh vực chính đem lại lợi nhuận chính cho Tổng Công ty khi chiếm khoảng 95 - 97 % lợi nhuận gộp trong giai đoạn 2014- 2016. Trong bốn năm gần đây, sản lượng bia tiêu thụ hàng năm của Sabeco tăng 6,8%/năm, chậm hơn mức tăng trưởng của ngành 7,8%/năm. Dù thị phần vẫn giữ ở mức cao (45,8% trong năm 2015) và vượt xa các đối thủ còn lại là Habeco (17,8%) và Heineken (17,3%), những bước đi chậm lại dường như là một chỉ báo không lạc quan đối với tình hình hoạt động của Tổng công ty. Đối với các doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn, tăng trưởng chậm hàm ý về sự suy giảm thị phần, đặc biệt là trong ngành cạnh tranh gay gắt như ngành bia hiện nay. (2) Đánh giá một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu Về hệ số khả năng thanh toán, từ năm 2010 đến cuối tháng 9/2017, hệ số khả năng thanh toán hiện thời tăng từ 1,07 lên 1,80, trung bình cả giai đoạn là 1,45; hệ số khả năng thanh toán nhanh cũng cải thiện từ 0,88 lên thành 1,5, trung bình cả giai đoạn là 1,18. So sánh với mức trung bình ngành (hệ số thanh toán tổng quát là 1,5; hệ số thanh toán nhanh là 1,18), có thể thấy, thanh khoản của Sabeco đang ở mức cao hơn, đảm bảo được an toàn thanh toán nợ ngắn hạn. Về cơ cấu tài sản, từ 2010 đến cuối tháng 9/2017, cơ cấu tài sản của Sabeco có sự dịch chuyển từ tài sản dài hạn sang ngắn hạn. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn tăng từ 35,35% (2010) lên thành 61,2% (cuối tháng 9/2017). Tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm trung bình 70% trong tổng tài sản ngắn hạn. Đây là nguồn tài chính dồi dào phục vụ cho quá trình đầu tư mở rộng của doanh nghiệp. Về cơ cấu nguồn vốn, nợ phải trả chỉ chiếm trên 36% tổng tài sản. Tại ngày 30/9/2017, vay và nợ ngân hàng chỉ chiếm khoảng 17% nợ phải trả, tương đương khoảng 6,2% tổng tài sản. Đồng thời, lãi tiền gửi của công ty rất lớn, gấp 5 lần lãi vay phải trả do lượng tiền mặt lớn, trên 10.000 tỷ đồng. Về tỷ suất sinh lời, nhìn chung, hoạt động của Sabeco tương đối hiệu quả. Trong năm 2015, tỷ suất lợi nhuận gộp đạt 27,84%, tỷ suất lợi nhuận ròng là 15,23% và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đạt 28,53%. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của Sabeco thường dao động ở mức 26%. Về cơ cấu cổ đông, tính đến ngày 7/7/2017, Bộ Công thương nắm giữ 574.519.134 cổ phần, tương Hình 1. Doanh thu và lợi nhuận Sabeco giai đoạn 2014 - 2017 Bảng 1: Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu 2015 - 2016 (Nguồn: Báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2016 của Sabeco) (Nguồn:Vietstock) Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 27 Nghiên cứu trao đổi ứng với tỷ lệ 89,59%. Số lượng cổ phần do cổ đông nước ngoài nắm giữ là 9,84% (trong đó có 80 tổ chức nước ngoài với tổng mức sở hữu là 9,79%). Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư cá nhân là 0,37%. Có thể thấy cơ cấu sở hữu của Sabeco có tính tập trung cao, mức độ sở hữu của nhà nước trong vốn điều lệ lên đến trên 75% (Bảng 1, trang 27). 2. Thương vụ bán vốn nhà nước tại Sabeco * Quy trình thực hiện thương vụ Giai đoạn 1- Lập kế hoạch thực hiện bán vốn + Lộ trình bán vốn Theo kế hoạch của Chính phủ, Bộ Công thương lập kế hoạch và thực hiện bán phần vốn nhà nước tại Sabeco. Việc bán vốn được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn 1 bán 53,59% vốn điều lệ (tương đương 24.500 tỷ đồng) trong năm 2016. Giai đoạn hai sẽ bán tiếp 36% vốn điều lệ (tương đương 16.000 tỷ đồng) trong năm 2017. + Phương thức thực hiện thương vụ SAB được Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM tổ chức thực hiện chào bán, tổng số cổ phần dự kiến thoái vốn là 343.662.587 cổ phần, là loại cổ phần phổ thông được phép tự do chuyển nhượng, mệnh giá: 10.000 đồng/ cổ phần. Giá khởi điểm chào bán, phương pháp tính giá: được quy định rõ tại Quy chế chào bán cạnh tranh cổ phần của Bộ Công thương tại Sabeco. Phương thức bán vốn: Cổ phần được đấu giá công khai và chào bán cạnh tranh giữa các nhà đầu tư đủ điều kiện tham gia mua cổ phần theo quy định của pháp luật và Quy chế chào bán cạnh tranh cổ phần của Bộ Công thương tại Sabeco; Phương thức thanh toán: Tiền mặt. Thời gian thực hiện thoái vốn: Quý IV/2017 Giới hạn về tỷ lệ nắm giữ đối với người nước ngoài: Tỷ lệ nắm giữ tối đa của nhà đầu tư nước ngoài là 49% tổng số vốn điều lệ của Sabeco theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn. Tỷ lệ cổ phần nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia buổi chào bán cổ phần tối đa là 38,59% vốn điều lệ. Không có hạn chế về chuyển nhượng cổ phần. - Giai đoạn 2- Thực hiện thương vụ Ngày 29/11/2017, Bộ Công thương công bố thông tin chào bán 343.642.587 cổ phần (tương đương 53,59% vốn điều lệ của Sabeco) với giá khởi điểm là 320.000 đồng/cổ phần. Ngày 11/12/2017, Vietnam Beverage gửi hồ sơ công khai đăng ký mua 327.053.405 cổ phần (tương đương 51% vốn điều lệ Sabeco). Ngày 17/12/2017: Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) thông báo có 2 nhà đầu tư đăng ký mua cổ phần Sabeco, gồm: Công ty TNHH Vietnam Beverage: đăng ký mua 343.642.587 cổ phần (toàn bộ số cổ phần được chào bán); 1 cá nhân khác đăng ký mua 20.000 cổ phần Ngày 18/12/2017, Sabeco tổ chức chào bán cạnh tranh trên HOSE. Kết quả, Vietnam Beverage mua 343.642.587 cổ phần (tương đương 53,59% vốn điều lệ của Sabeco); 1 cá nhân khác mua 20.000 cổ phần, với giá đặt mua thành công bình quân là 320.000 đồng/cổ phần. Kết thúc thương vụ, 53,59% cổ phần Sabeco được chào bán đem lại cho ngân sách 109.972 tỷ đồng, tương ứng gần 5 tỷ USD. Vietnam Beverage trở thành cổ đông lớn nắm giữ 53,59% cổ phần Sabeco, còn Bộ Công thương sẽ vẫn chi phối 36% cổ phần Sabeco, mức vừa đủ để duy trì quyền phủ quyết tại doanh nghiệp. * Đánh giá tình hình tài chính của Sabeco sau khi bán cổ phần nhà nước - Về quy mô tài sản và cơ cấu tài sản Quy mô tài sản của Sabeco năm 2017 có sự gia tăng so với năm 2016, với mức tăng là 2.815 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 14,67%. Trong đó, bộ phận tăng nhiều hơn là tài sản ngắn hạn với tốc độ tăng là 27,64%. Vốn đầu tư vào tài sản ngắn hạn ngày càng tăng, từ 10.722 tỷ đồng năm 2016 lên 13.868 tỷ đồng vào năm 2017. Với lợi thế kinh doanh của mình, Thai Bervage tiếp quản Sabeco và đã có những thay đổi về mặt đầu tư của doanh nghiệp. - Về quy mô và cơ cấu nguồn vốn Quy mô nguồn vốn của Sabeco tăng tương ứng với quy mô tài sản. Điều đáng chú ý nhất là sự sụt giảm hệ số nợ trong 7 năm liên tục, từ 0,46 năm 2010 xuống còn 0,34 năm 2017. Năng lực tự chủ tài chính được cải thiện đáng kể trước và sau khi thực hiện chào bán cổ phần. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát và hệ số khả năng thanh toán được cải thiện đáng kể, hệ số khả năng thanh toán nhanh được duy trì ở mức cao hơn 1 cho thấy tác động tích cực từ lợi thế của chủ sở hữu mới. Công ty giảm hệ số nợ đáng kể nên không chỉ có năng lực tài chính tăng, mà còn làm cho khả năng thanh toán lãi vay tăng mạnh, từ 58 lần năm 2016 lên đến 70,69 lần năm 2017. - Về hiệu quả hoạt động của tài sản và khả năng sinh lời Các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất hoạt động của tài sản cũng như khả năng sinh lời của Sabeco nhìn Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201928 Nghiên cứu trao đổi chung đều có sự gia tăng so với thời điểm trước khi chào bán phần vốn nhà nước. Năm 2017, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là 37,05%, với thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) là 7.717 đồng, cao hơn mức 6.355 đồng của VNM (Vinamilk). Hệ số giá trên thu nhập (P/E) của cổ phiếu SAB ở cuối năm 2017 là 31,86 lần, một con số rất cao trên thị trường chứng khoán. + Đánh giá tình hình tài chính của Sabeco năm 2017 (bảng 2, bảng 3, bảng 4, bảng 5, bảng 6). * Đánh giá tác động cuả thương vụ đến lợi ích của chủ sở hữu (bảng 7, trang 30). Thông qua kết quả tại bảng 2.25, tác giả lựa chọn khoảng thời gian 90 ngày trước khi diễn ra thương vụ bán cổ phần nhà nước tại Sabeco để đánh giá hành vi của thị trường trước khi Tổng công ty công bố chính thức bán cổ phần nhà nước. Tỷ suất lợi nhuận bất thường và tỷ suất lợi nhuận tích luỹ cho các khoảng thời gian nghiên cứu khác nhau được thể hiện chi tiết ở bảng 8, trang 30. Bảng 8 cho thấy, phản ứng của thị trường trước thông tin bán phần vốn nhà nước tại SABECO không nhất quán. Tại một số thời điểm trước khi diễn ra thương vụ, tỷ suất sinh lời bất thường dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (ngày thứ 4 trước thương vụ, tỷ suất sinh lời bất thường đạt 5,462%). Tuy nhiên, tại ngày diễn ra thương vụ, tỷ suất sinh lời bất thường âm, giảm từ 0,075% tại 1 ngày trước khi diễn ra thương vụ xuống còn -3,026%. Xu hướng tỷ suất sinh lời bất thường âm tiếp tục được duy trì sau đó (bảng 9, trang 30). Tuy nhiên, đến ngày thứ 5 sau khi thương vụ kết thúc, tỷ suất sinh lời bất thường tăng trở lại, song mức tỷ suất sinh lời bất thường bình quân vẫn nhỏ hơn 0. Tỷ suất sinh lời bất thường tích luỹ trong các khoảng thời gian trước và sau khi bán cổ phần nhà nước đều nhỏ hơn 0 cho thấy việc tham gia và hoàn tất thương vụ bán vốn tại SAB làm giảm lợi ích của chủ sở hữu. Bảng 2. Tài sản và cơ cấu tài sản của Sabeco giai đoạn 2010 - 2017 Bảng 3. Nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn của Sabecogiai đoạn 2010- 2017 Bảng 4. Khả năng thanh toán của SABECO giai đoạn 2010- 2017 Bảng 5. Hiệu suất hoạt động của SABECO giai đoạn 2011- 2017 ĐVT: vòng Bảng 6. Hiệu quả hoạt động của SABECO giai đoạn 2011 đến 2017 Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 29 Nghiên cứu trao đổi Kiểm định thống kê cho thấy mức ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Nói cách khác, giả thuyết việc hoàn tất thương vụ bán phần vốn cổ phần tại Sabeco tạo ra giá trị cho các chủ sở hữu bị bác bỏ ở mức ý nghĩa thống kê 5%. 3. Đánh giá thương vụ thoái vốn nhà nước tại Sabeco Việc chủ sở hữu nhà nước lựa chọn Thai Beverage làm cổ đông lớn cho thấy thương vụ này là một thương vụ mua bán, sáp nhập theo chiều ngang – xảy ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất - kinh doanh, có cùng dòng sản phẩm (bia – rượu – nước giải khát). Có thể coi Sabeco và ThaiBev là đối thủ cạnh tranh với nhau trong thị trường bia Đông Nam Á. Vì vậy, khi trở thành cổ đông lớn nhất của Sabeco, ThaiBev đã loại bỏ được một đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường chung này. Tuy nhiên, cả Sabeco và Thaibev đều đang ở trong thời kỳ cuối của giai đoạn tăng trưởng và thời kỳ đầu của giai đoạn bão hoà, thực hiện mua bán, sáp nhập theo chiều ngang sẽ giúp hai công ty đạt hiệu quả theo quy mô, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động. Vì vậy, đây có thể xem là một thương vụ thân thiện, đảm bảo lợi ích cho cả hai bên tham gia khi có thể khai thác lợi thế lẫn nhau, tăng thị phần, tận dụng quan hệ khách hàng. *Lợi ích thương vụ mang lại Đối với nền kinh tế, thương vụ ThaiBev - Sabeco là thành công khi Bộ Công thương thoái vốn thành công 53,59% và thu được 4,8 tỷ USD phục vụ cho đầu tư phát triển xã hội và tăng tỷ lệ dự trữ ngoại hối. Đây được cho là thương vụ bán vốn Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam cho tới nay. Đối với doanh nghiệp, thực hiện thành công thương vụ giúp Sabeco cải thiện tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động. Sau mua bán, sáp nhập, Sabeco có thể tăng nguồn vốn được sử dụng và tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn hơn. Với vị thế dẫn đầu ngành bia, mục tiêu tiếp theo của Sabeco có thể sẽ củng cố địa vị trong thị trường bia Việt và mở rộng chiến lược sang nước giải khát và rượu – lĩnh vực mà ThaiBev có vị thế và kinh nghiệm. Đồng thời, có thể nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ cơ chế quản lý mới, sàng lọc những vị trí làm việc không hiệu quả, tinh gọn bộ máy doanh nghiệp từ kinh nghiệm của ThaiBev, một công ty lớn mạnh ở mảng đồ uống và có những chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình. Đối với chủ sở hữu, qua xem xét tác động của việc thực hiện thương vụ đến lợi nhuận bất thường của chủ sở hữu cho thấy, việc thực hiện thương vụ bán cổ phần nhà nước tại Sabeco không đem lại lợi nhuận bất thường ổn định cho chủ sở hữu trong giai đoạn diễn ra thương vụ. Lý do đến từ việc cổ phiếu SAB được giao dịch chính thức trên HOSE chỉ 1 năm trước khi bán vốn. Do vậy, việc đánh giá hành vi thị trường với cổ phiếu SAB một cách chuẩn xác là rất khó khăn vì giới hạn lịch sử giao dịch. Với chủ sở hữu nhà nước, mặc dù số tiền thu về từ việc bán cổ phần tại Sabeco rất lớn, song tài sản sinh lời thực tế thu về Bảng 7. Kết quả hồi quy TSSL của SABECO theo Vn-Index Bảng 8. TSSL bất thường và TSSL tích luỹ của VNM khi bán vốn lần 2 Bảng 9 Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201930 Nghiên cứu trao đổi giảm sút rất lớn so với mức kỳ vọng của thị trường. Điều này cho thấy cổ phiếu SAB có thể được bán với mức giá cao hơn mức giá bán tại thời điểm thực hiện thương vụ. *Một số điểm cần xem xét khi thực hiện thoái vốn tại Sabeco Sau khi xem xét kết quả của hai thương vụ bán vốn cổ phần nhà nước tại SAB, theo tác giả, cần phải xem xét một số vấn đề sau khi thực hiện thoái vốn tại doanh nghiệp có vốn nhà nước. Một là, có nên bán cổ phần một thời gian ngắn sau khi thực hiện niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán? Thành công của một thương vụ bán phần vốn do nhiều yếu tố quyết, nhưng có ba yếu tố chính gồm (i) có người mua phù hợp không? (ii) mức giá đạt được có phản ánh đúng giá trị mặt hàng chào bán? (iii) có bán hết được tỷ lệ cổ phần chào bán không? Toàn bộ những câu hỏi này được trả lời thông qua cơ chế của thị trường. Đồng thời, ba yếu tố này cũng có tương tác qua lại lẫn nhau. Đối với trường hợp của Sabeco, do thời gian niêm yết trên HOSE quá ngắn, việc bán vốn sẽ gặp bất lợi do tính bất cân xứng về thông tin trên thị trường. Đối với một thị trường như Việt Nam, mức rủi ro cao, đồng thời tính hoàn hảo yếu, nhà đầu tư sẽ trở nên thận trọng hơn khi xem xét các mặt hàng dù cho đó là mặt hàng có chất lượng tốt. Do vậy, cần có lộ trình phù hợp nhằm đảm bảo dòng chảy thông tin trong thị trường trước khi thực hiện bán vốn cổ phần. Hai, mức giá bán cổ phần trong trường hợp bán với tỷ lệ lớn nên được thiết lập như thế nào? Thông thường, doanh nghiệp mua sẵn sàng trả mức giá cao cho doanh nghiệp mục tiêu để có quyền sở hữu một tỷ lệ cổ phần lớn. Do đó, với vị thế của một doanh nghiệp bán chủ động, doanh nghiệp bán cũng có quyền thiết lập mức giá chào bán phù hợp với tỷ lệ cổ phần chào bán. Nhưng một câu hỏi đặt ra là mức giá này bằng bao nhiêu là phù hợp? Cả doanh nghiệp mua và bán khi tham gia vào thương vụ trao đổi quyền kiểm soát đều mong muốn nhận được giá trị cộng hưởng. Vậy mức giá chào bán của bên bán phải đảm bảo được giá trị cộng hưởng song không cao hơn mức doanh nghiệp mua sẵn lòng trả để không làm mất đi người mua tiềm năng. Quá trình này cần được diễn ra trên cơ sở thương lượng thận trọng. Với trường hợp của Sabeco, Nhà nước bán phần vốn vào thời điểm thị trường chứng khoán đang bùng nổ, bán với tỷ lệ sở hữu lớn, song mức giá thu về chưa thực sự tương xứng với chất lượng mặt hàng chào bán. Ba, vấn đề gìn giữ thương hiệu, giải quyết xung đột văn hoá và thay thế đội ngũ quản trị sau khi chuyển quyền kiểm soát doanh nghiệp. Đây là vấn đề mà bất kỳ một thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nào cũng phải giải quyết, đặc biệt là trong các thương vụ có sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài. Với đặc thù của sở hữu nhà nước, việc bán phần vốn cổ phần không chỉ để thu hồi vốn, tái cơ cấu danh mục đầu tư vốn mà nhà nước mà còn xét đến lợi ích dài hạn sau bán. Đối với trường hợp của Sabeco, sau khi Bộ Công thương trở thành cổ đông lớn thứ hai và Thai Bever- age giành quyền kiểm soát, một câu hỏi đặt ra rằng liệu thương hiệu Sabeco có bị biến mất hoặc bị đồng hoá thành thương hiệu bia của ThaiBev không? Đây là vấn đề chiến lược trong dài hạn và cần được kiểm chứng sau 3 - 5 năm sau khi thực hiện bán cổ phần, bởi thay đổi thương hiệu, thay mới đội ngũ nhân sự, thay đổi cơ cấu quản trị là vấn đề có tính chất chiến lược, đòi hỏi quá trình thương lượng và giải quyết xung đột lợi ích dài hạn, giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ, bộ máy quản trị mới và bộ máy quản trị cũ, văn hoá quản trị của Thái và Việt Nam. Không thể kết luận đây là thương vụ thâu tóm hay thôn tính, bởi nhà nước với vai trò chủ sở hữu lớn tại Sabeco đã chủ động chào bán cổ phần, việc bán cổ phần được thực hiện theo nguyên tắc thị trường công khai và minh bạch nên tính chất thù địch của thương vụ là không có. Mặt khác, cần xét đến giá trị cộng hưởng thực mà ThaiBeverage có thể mang lại cho Sabeco bởi Sabeco không thể chỉ tranh giành mãi miếng bánh thị trường nội địa mà cần có chiến lược vươn tầm ra khu vực và thế giới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo 1. Công ty cổ phần Sabeco, Thaibev, Báo cáo tài chính các năm 2010 đến 2017. 2. Phương pháp GT ( ground theory), khởi xướng bởi Glasser & Strauss (1967). 3. Bruner ( 2004) tóm tắt bốn cách để ước lượng khả năng sinh lời của M&A gồm nghiên cứu sự kiện (event study), nghiên cứu số liệu kế toán ( ac- couting study), điều tra giám đốc điều hành, nghiên cứu phòng khám (clinical studies). Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 31 Nghiên cứu trao đổi
File đính kèm:
hieu_qua_thoai_von_nha_nuoc_nhin_tu_truong_hop_sabeco.pdf