Hiệu quả nuôi dưỡng đường tiêu hóa ở trẻ cực non và rất non tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương

Sinh non là một thách thức lớn trong chăm sóc sức khỏe chu sinh. Các biến chứng do sinh non là nguyên

nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi. Nghiên cứu được thực hiện trên 190 trẻ sơ sinh cực non và

rất non tháng nhằm đánh giá hiệu quả của việc nuôi ăn đường tiêu hóa ở trẻ đẻ non. 8,4% trẻ đẻ non có cân

nặng lúc sinh thấp hơn tuổi thai trong đó 8,7% là trẻ rất non tháng và 5,6% là trẻ cực non tháng. Thời gian

về lại cân nặng lúc sinh ở nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh < 1000g,="" 1000-1499g="" và="" ≥="" 1500g="" lần="" lượt="" là="" 15="">

4,9; 13,8 ± 4,6 và 11,3 ± 4,9 ngày. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng khi tuổi đạt 34 và 36 tuần tuổi hiệu chỉnh chiếm

khoảng 60% số trẻ. Chiều dài trung bình tăng 1,0 – 1,3 cm/tuần, vòng đầu tăng trung bình từ 0,8 – 1,0 cm/tuần.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả nuôi dưỡng đường tiêu hóa ở trẻ cực non và rất non tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả nuôi dưỡng đường tiêu hóa ở trẻ cực non và rất non tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương

Hiệu quả nuôi dưỡng đường tiêu hóa ở trẻ cực non và rất non tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
106 TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Việt Hà, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 09/03/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
HIỆU QUẢ NUÔI DƯỠNG ĐƯỜNG TIÊU HÓA Ở TRẺ CỰC NON 
VÀ RẤT NON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Lê Phương Linh1, Nguyễn Thị Vân², Lê Minh Trác¹ và Nguyễn Thị Việt Hà2, 
1Bệnh viện Phụ sản Trung ương,
2Trường Đại học Y Hà Nội
Sinh non là một thách thức lớn trong chăm sóc sức khỏe chu sinh. Các biến chứng do sinh non là nguyên 
nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi. Nghiên cứu được thực hiện trên 190 trẻ sơ sinh cực non và 
rất non tháng nhằm đánh giá hiệu quả của việc nuôi ăn đường tiêu hóa ở trẻ đẻ non. 8,4% trẻ đẻ non có cân 
nặng lúc sinh thấp hơn tuổi thai trong đó 8,7% là trẻ rất non tháng và 5,6% là trẻ cực non tháng. Thời gian 
về lại cân nặng lúc sinh ở nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh < 1000g, 1000-1499g và ≥ 1500g lần lượt là 15 ± 
4,9; 13,8 ± 4,6 và 11,3 ± 4,9 ngày. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng khi tuổi đạt 34 và 36 tuần tuổi hiệu chỉnh chiếm 
khoảng 60% số trẻ. Chiều dài trung bình tăng 1,0 – 1,3 cm/tuần, vòng đầu tăng trung bình từ 0,8 – 1,0 cm/tuần.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh non là một thách thức lớn trong chăm 
sóc sức khỏe chu sinh. Theo Tổ chức Y tế thế 
giới (WHO), hàng năm trên thế giới có khoảng 
15 triệu trẻ đẻ non chào đời.¹ Các biến chứng 
do sinh non là nguyên nhân hàng đầu gây tử 
vong ở trẻ em dưới 5 tuổi với con số tử vong 
khoảng 1 triệu trẻ năm 2015. Tại Việt Nam, tỷ 
lệ trẻ đẻ non (dưới 37 tuần) chiếm khoảng 10% 
trong đó tỷ lệ trẻ đẻ non năm 2015 và 2016 
tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương lần lượt là 
19,81% và 16,94%. Chăm sóc và điều trị cho 
trẻ sơ sinh non tháng đặc biệt là trẻ cực non và 
rất non tháng rất quan trọng trong những tuần 
đầu sau đẻ, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều biện 
pháp khác nhau như hồi sức tại phòng sinh, 
đảm bảo thân nhiệt, hô hấp, nuôi dưỡng và 
chống nhiễm khuẩn và theo dõi về sự phát triển 
thể chất – thần kinh - tâm thần cho trẻ. Nuôi 
dưỡng trẻ non tháng trong những tuần đầu 
đời rất khó vì nhu cầu năng lượng của trẻ cần 
cao hơn trong khi hệ thống tiêu hóa chưa phát 
triển đầy đủ. Trong những năm trở lại đây, có 
nhiều nghiên cứu cho thấy ưu điểm của nuôi ăn 
đường miệng sớm và đúng đối với sự trưởng 
thành của hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch của trẻ 
đẻ non.2,3 Tại Việt Nam, nghiên cứu về thực 
trạng dinh dưỡng và hiệu quả nuôi ăn đường 
tiêu hóa cho trẻ sinh non còn chưa nhiều. Do 
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu 
“Đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng đường tiêu hóa 
ở trẻ cực non và rất non tháng tại Bệnh viện 
Phụ sản Trung ương”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
 Tất cả trẻ sinh ra còn sống tại Bệnh viện 
Phụ sản Trung ương được điều trị tại Trung 
tâm Chăm sóc và Điều trị sơ sinh có tuổi thai 
từ 25 tuần đến 31 tuần 6 ngày. Trẻ được nuôi 
dưỡng theo phác đồ áp dụng tại Trung tâm. 
Phác đồ này được xây dựng dựa trên “Khuyến 
cáo điều trị dinh dưỡng cho trẻ sinh non, nhẹ 
cân” của Hội Nhi khoa Việt Nam (2013) kết hợp 
Từ khóa: sơ sinh, sinh non, nhẹ cân, dinh dưỡng, tiêu hóa
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
107TCNCYH 131 (7) - 2020
với phác đồ “Guideline for feeding very low birth 
weight infants” của nhóm nghiên cứu Đại học 
McMaster, Canada (2015). Trẻ sống cho đến 
khi được nuôi ăn đường tiêu hóa ≥ 130mL/kg/
ngày. Thời điểm này trẻ có thể không cần nuôi 
dưỡng đường tĩnh mạch nữa.
2. Phương pháp
Nghiên cứu lâm sàng mở đánh giá trước 
sau trên 190 trẻ sơ sinh cực non và rất non 
tháng, đánh giá tại các thời điểm nghiên cứu:
+ T0: thời điểm bắt đầu nghiên cứu khi trẻ 
vừa sinh ra
+ T1: ngày trẻ được nuôi dưỡng đường tiêu 
hóa hoàn toàn, tức là lượng sữa ăn trong ngày 
≥ 130mL/kg/ngày
+ T2: ngày trẻ đạt được cân nặng lúc sinh
+ T3: thời điểm 3 tuần sau khi trẻ sinh ra
+ T4: thời điểm khi trẻ ra viện (34 – 36 tuần)
Các biến số nghiên cứu:
- Cân nặng: 
+ Dùng cân điện tử cân trẻ, đơn vị tính bằng 
gam, sai số 5g. 
+ Cân trẻ hàng ngày, trước bữa ăn, ngay 
sau khi tắm và vệ sinh cho trẻ. Do các điều 
dưỡng đã được tập huấn theo hướng dẫn của 
nghiên cứu viên thực hiện.
+ Để trẻ trên cân nằm trên mặt phẳng ngang, 
điều chỉnh cân nặng về giá trị 0 rồi đặt trẻ nằm 
trên bàn cân, đọc và ghi lại số cân nặng thu 
được.
- Chiều dài: 
+ Dùng thước đo trên cân điện tử, hoặc 
thước dây, đơn vị tính bằng cm, sai số 0,5 cm. 
+ Thực hiện hàng tuần. Do nghiên cứu viên 
thực hiện.
+ Đặt trẻ nằm trên mặt phẳng ngang của 
cân, đặt đầu trẻ sát vào đầu trên của cân, giữ 
thẳng 2 đầu gối của trẻ và đo đến điểm cuối của 
gót chân.
- Vòng đầu: 
+ Dùng thước dây, đơn vị tính bằng cm, sai 
số 0,5 cm. 
+ Thực hiện hàng tuần. Do nghiên cứu viên 
thực hiện.
+ Khi đo, đặt trẻ ở tư thế nằm ngửa, trong 
lồng ấp, người đo đứng ở bên phải trẻ, ngón tay 
đặt cố định ở vạch số 0 trên thước dây và bên 
trên lông mày ở trán trước, từ góc phải đầu, 
vòng chỗ nhô ra cao nhất phía sau đầu rồi vòng 
sang trái, quay về điểm xuất phát, đọc số, ta 
được số đo vòng đầu. Khi đó yêu cầu thước 
dây phải ép chặt vào da đầu, mặt số phải quay 
ra bên ngoài, bên trái, bên phải phải đối xứng 
nhau.
- Vòng ngực:
+ Dùng thước dây, đơn vị tính bằng cm, sai 
số 0,5 cm. 
+ Thực hiện hàng tuần. Do nghiên cứu viên 
thực hiện.
+ Khi đo, cởi hết quần áo trẻ, đặt trẻ nằm 
ngửa, trong lồng ấp, người đo đứng ở bên phải 
của bé, lấy ngón tay cái của tay trái đặt cố định 
ở vị trí số 0 trên thước dây và mép dưới vú 2 
bên phải và trái, tay phải kéo thước dây vòng 
ra sau lưng ở mép dưới 2 xương bả vai, quay 
về điểm xuất phát. Chú ý: phía trước, phía sau, 
bên phải, bên trái, phải cân bằng đối xứng với 
nhau, khi thở thước dây nhẹ nhàng ép sát da 
bé.
- Vòng bụng:
+ Dùng thước dây, đơn vị tính bằng cm, sai 
số 0,5 cm. 
+ Thực hiện hàng tuần, hoặc khi trẻ có dấu 
hiệu không dung nạp sữa, bụng chướng lên. 
Do nghiên cứu viên kết hợp với các điều dưỡng 
đã được tập huấn thực hiện.
+ Đặt trẻ nằm ngửa, trong lồng ấp, không 
mặc quần áo, người đo đứng bên phải trẻ, đo 
trước khi trẻ được ăn. Lấy ngón tay cái của tay 
trái đặt cố định ở vị trí số 0 trên thước dây và 
ngay mức rốn, tay phải kéo thước dây vòng 
ra sau lưng, vuông góc với cột sống, quay về 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
108 TCNCYH 131 (7) - 2020
điểm xuất phát. Chú ý: phía trước, phía sau, 
bên phải, bên trái, phải cân bằng đối xứng với 
nhau, khi thở thước dây nhẹ nhàng ép sát da 
bé.
- Cách kiểm tra dịch dư dạ dày:
+ Dùng xilanh 5ml và sonde ăn số 6F, đặt 
sonde dạ dày bằng cách đo từ mũi - dái tai - mũi 
ức hoặc chóp mũi - rốn, sau đó cố định bằng 
băng dính rồi đặt sonde đến vị trí cố định. Kiểm 
tra xem ống sonde đã vào dạ dày chưa bằng 
cách hút nhẹ dịch dạ dày bằng xilanh 5 ml thấy 
có ít dịch chảy ra, trẻ không bị đột ngột khó thở 
khi đặt sonde dạ dày.
+ Thực hiện trước mỗi bữa ăn trong tuần 
đầu tiên kể từ khi trẻ ăn được ≥ 130ml/kg/ngày, 
nếu dịch dư dạ dày < 50% lượng sữa của bữa 
ăn trước, sau 1 tuần có thể dừng lại, nếu dịch 
dạ dày ≥ 50% lượng sữa của bữa ăn trước thì 
tiếp tục kiểm tra, hoặc kiểm tra khi có dầu hiệu 
không dung nạp sữa. Do điều dưỡng đã được 
tập huấn thực hiện.
+ Đánh giá về màu sắc: vàng, xanh, nâu 
Đánh giá về tính chất: cặn dư sữa, trong, vẩn 
đục Đánh giá về số lượng: < hay ≥ 50% 
lượng sữa của bữa ăn trước và báo cáo lại cho 
nghiên cứu viên.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập và xử lý trên phần mềm 
SPSS 22, phân tích số liệu tại các thời điểm T0, 
T1, T2, T3, T4, sử dụng các thuật toán thống 
kê: tính giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, so 
sánh từng cặp, so sánh 2 trung bình, T – test.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chỉ được tiến hành sau khi 
được thông qua hội đồng khoa học của trường 
Đại học Y Hà Nội và được sự chấp thuận của 
lãnh đạo Trung tâm chăm sóc và điều trị sơ 
sinh, Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Nghiên 
cứu này chỉ nhằm phục vụ cho việc nâng cao 
hiệu quả khám chữa bệnh cho bệnh nhân, 
ngoài ra không có mục đích khác. Số liệu trong 
nghiên cứu trung thực, chính xác. 
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 190 trẻ sơ sinh cực non và rất non tháng 
thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa chọn.
1. Khả năng dung nạp sữa ở trẻ cực non và rất non tháng
Thời gian trẻ phải nuôi dưỡng tĩnh mạch trung bình ở các nhóm cân nặng < 1000g; 1000 – 1499g 
và ≥ 1500g lần lượt là 11,1 ± 4,2 ngày; 13,6 ± 5,8 ngày và 10,2 ± 4,6 ngày. Khác biệt về thời gian nuôi 
dưỡng tĩnh mạch ở các nhóm cân nặng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 1. So sánh khả năng dung nạp sữa ở trẻ cực non và rất non tháng
Cân nặng
500 - 749g
(n = 9)
750 - 1000g
(n = 51)
 > 1000g
(n = 130) p
n % n % n %
Dịch dư dạ dày tăng > 50% 
bữa ăn trước
T1 – T3 3 33,3 3 5,9 6 4,6
0,032
T3 – T4 1 11,1 1 2,0 2 1,5
Có nôn trớ
T1 – T3 3 33,3 5 9,8 10 7,7
0,047
T3 – T4 1 11,1 2 3,9 3 2,3
Vòng bụng tăng > 2cm so 
với bình thường
T1 – T3 4 44,4 12 23,5 15 11,5
0,041
T3 – T4 1 11,1 5 9,8 5 3,8
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
109TCNCYH 131 (7) - 2020
 T1-T3: từ khi trẻ ăn được 130mL/kg/ngày đến khi trẻ được 3 tuần tuổi
T3 – T4: từ khi trẻ được 3 tuần tuổi đến khi ra viện
- Tỷ lệ trẻ có biểu hiện dư dịch dạ dày tăng, có nôn trớ và có vòng bụng tăng ở nhóm trẻ có cân 
nặng từ 500g - 749g cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm trẻ có trọng lượng 750g – 1000g và 
> 1000g, p < 0,05.
- Tỷ lệ trẻ có biểu hiện dư dịch dạ dày tăng, có nôn trớ và có vòng bụng tăng giảm rõ rệt ở thời 
điểm T3 – T4 so với thời điểm T1 – T3. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
2. Phát triển thể chất của trẻ sơ sinh cực non và rất non tháng
Trong 190 trẻ sơ sinh non tháng thuộc nhóm nghiên cứu, có 18 trẻ cực non tháng ( < 28 tuần 
thai) và 172 trẻ rất non tháng. Tỷ lệ trẻ đẻ ra có cân nặng thấp hơn so với tuổi thai ở nhóm trẻ cực 
non tháng và rất non tháng lần lượt là 5,6% và 8,7%. Cân nặng trung bình khi sinh của nhóm nghiên 
cứu là 1138,4g.
Biểu đồ 1. Thời gian về lại cân nặng lúc sinh
- Thời gian về lại cân nặng lúc sinh ở nhóm trẻ có cân nặng khi sinh < 1000g, 1000-1499g và ≥ 
1500g lần lượt là 15 ± 4,9; 13,8 ± 4,6 và 11,3 ± 4,9 ngày.
- Có sự khác biệt về thời điểm lấy lại cân nặng lúc sinh giữa 3 nhóm cân nặng, sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
- Sau khi về lại cân nặng lúc sinh, cân nặng tăng trung bình theo ngày ở cả 3 nhóm < 1000g, 
1000-1499g, ≥ 1500g trẻ lần lượt là 14,8 ± 3,7; 14,2 ± 3,6; 14,9 ± 3,9 g/kg/ngày, không có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 3 nhóm, p =0,37.
Bảng 2. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng (SDD) khi trẻ đạt 34 tuần và 36 tuần (tuổi hiệu chỉnh)
Tuần thai
Tuần tuổi
 < 28 tuần 28 – 30 tuần 30 – 32 tuần
Có SDD Không SDD Có SDD Không SDD Có SDD Không SDD
34 tuần 66,7% 33,3% 61,2% 38,8% 55,6% 44,4%
36 tuần 66,7% 33,3% 65,8% 34,2% 66,7% 33,3%
10,3 14,3
43,5
48,7
56,3
30,4
28,2
24,6 26,1
12,8
4,8
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
< 1000gam (n = 39) 1000 - 1499gam (n = 126) ≥ 1500gam (n = 23)
Về lại cân nặng lúc sinh < 10 ngày Về lại cân nặng lúc sinh 10 - 14 ngày
Về lại cân nặng lúc sinh 15 - 21 ngày Về lại cân nặng lúc sinh sau 21 ngày
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
110 TCNCYH 131 (7) - 2020
- Tại thời điểm trẻ đạt 34 tuần (tuổi hiệu chỉnh) tỷ lệ trẻ có cân nặng thấp hơn so với tuổi thai ở 
3 nhóm tuổi thai là trên 50% trong đó tỷ lệ cao nhất là ở nhóm trẻ có tuổi thai dưới 28 tuần (66,7%). 
Tại thời điểm trẻ đạt 36 tuần (tuổi hiệu chỉnh) tỷ lệ trẻ có cân nặng thấp hơn so với tuổi thai ở 3 nhóm 
tuổi thai tương tự nhau, chiếm khoảng 2/3 số trẻ trong các nhóm. 
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ trẻ có cân nặng thấp hơn so với tuổi thai ở 
cả 3 nhóm, p > 0,05.
Bảng 3. Tăng trưởng của chiều dài, vòng đầu, vòng ngực, của trẻ sơ sinh non tháng
Tuần thai < 28 tuần 28 – 30 tuần 30 – 32 tuần
Chiều dài 1,0 ± 0,3 cm 1,3 ± 0,6 cm 1,2 ± 0,4 cm
Vòng đầu 0,8 ± 0,3 cm 0,9 ± 0,4 cm 1,0 ± 0,7 cm
Vòng ngực 0,9 ± 0,4 cm 0,7 ± 0,3 cm 0,8 ± 0,3 cm
- Tăng trưởng của chiều dài, vòng đầu, vòng ngực xấp xỉ 1cm/tuần ở các nhóm tuổi thai < 28 
tuần, 28 – 30 tuần và 30 – 32 tuần. 
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự tăng chiều dài; vòng đầu, vòng ngực trung bình 
theo tuần ở cả 3 nhóm, p > 0,05.
IV. BÀN LUẬN
Dinh dưỡng đầy đủ là cần thiết cho sự tăng 
trưởng và sức khỏe của trẻ sinh non cân nặng 
thấp. Dinh dưỡng qua đường tiêu hóa được ưu 
tiên do có nhiều lợi ích hơn và giảm các biến 
chứng liên quan đến nuôi dưỡng tĩnh mạch. 
Thời gian nuôi dưỡng đường tĩnh mạch ở trẻ đẻ 
non ở các nhóm cân nặng lúc sinh trung bình 
khoảng 10 – 15 ngày. Không có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về thời gian nuôi dưỡng 
đường tĩnh mạch ở các nhóm trẻ này. Một 
nghiên cứu ở Hồng Kông cho thấy thời gian 
nuôi dưỡng tĩnh mạch ở trẻ sinh non là 17,9 ± 
11,9 ngày, cao hơn so với kết quả trong nghiên 
cứu của chúng tôi.⁴ Thời gian nuôi dưỡng tĩnh 
mạch càng ngắn thì càng giảm tỷ lệ biến chứng 
liên quan đến nuôi dưỡng tĩnh mạch kéo dài. 
Khi nuôi ăn qua đường tiêu hóa, trẻ có thể 
biểu hiện các triệu chứng không dung nạp sữa. 
Kết quả từ bảng 1 cho thấy tỷ lệ trẻ có biểu 
hiện dư dịch dạ dày tăng, có nôn trớ và có vòng 
bụng tăng ở nhóm trẻ có cân nặng từ 500g - 
749g cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
trẻ có trọng lượng 750g – 1000g và > 1000g. 
Các biểu hiện này giảm đi đáng kể khi số ngày 
tuổi của trẻ tăng lên. Nghiên cứu của Shulman 
và cộng sự cũng cho thấy tỷ lệ dịch dư dạ dày 
tăng, nôn trớ và vòng bụng tăng giảm đi theo 
tuổi của trẻ. Tuy nhiên, biểu hiện dịch dư dạ dày 
tăng và vòng bụng tăng ít có giá trị dự đoán thời 
gian trẻ đạt nuôi dưỡng tiêu hóa hoàn toàn và 
giá trị của chúng trong hướng dẫn nuôi ăn cho 
trẻ sơ sinh non tháng còn chưa rõ ràng.⁵
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
có 8,4% trẻ có cân nặng thấp hơn so với tuổi 
thai trong đó 8,7% là trẻ rất non tháng và 5,6% 
là trẻ cực non tháng. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu 
của Lee và cộng sự khi thấy rằng có 11% trẻ rất 
non và cực non tháng có cân nặng lúc sinh thấp 
hơn so với tuổi thai.⁶ Sự khác biệt này có thể 
do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn 
so với nghiên cứu của Lee. Ngoài ra, có thể do 
những trẻ có cân nặng thấp hơn tuổi thai đã tử 
vong trước khi ăn đạt được 130mL/kg/ngày nên 
không được chọn vào nghiên cứu.
Kết quả từ biểu đồ 1 cho thấy, với nhóm trẻ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
111TCNCYH 131 (7) - 2020
cực nhẹ cân, trung bình cần 15 ± 4,9 ngày để 
về lại cân nặng lúc sinh. Trong khi đó, thời gian 
này ở nhóm trẻ rất nhẹ cân và cực nhẹ cân 
lân lượt là 13,8 ± 4,6 ngày và 11,3 ± 4,9 ngày. 
Theo như các nghiên cứu trong hướng dẫn 
nuôi dưỡng cho trẻ nhẹ cân của Dutta và cộng 
sự⁷ và khuyến cáo điều trị dinh dưỡng cho trẻ 
sinh non của hội Nhi khoa Việt Nam⁸ thì nhóm 
trẻ cực nhẹ cân cần 3 tuần, nhóm trẻ rất nhẹ 
cân cần 2 tuần và nhóm trẻ nhẹ cân vừa cần 10 
ngày để về lại cân nặng lúc sinh.
Tăng trưởng về cân nặng là chỉ số quan 
trọng để đánh giá phát triển thể chất của trẻ đẻ 
non. Ở nhóm trẻ cực nhẹ cân, cân nặng tăng 
trung bình 14,8 ± 3,7g/kg/ngày. Con số này ở 
nhóm rất nhẹ cân và nhẹ cân vừa lần lượt là 
14,2 ± 3,6g/kg/ngày và 14,9 ± 3,9g/kg/ngày. Kết 
quả của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên 
cứu của Fenton và cộng sự.⁹ Tuy nhiên, sự tăng 
cân này vẫn chưa đạt được theo như khuyến 
cáo điều trị dinh dưỡng cho trẻ sinh non, nhẹ 
cân của hội Nhi khoa Việt Nam. Có thể do giai 
đoạn trong bệnh viện, các trẻ không được bổ 
sung sữa dành cho trẻ sinh non và sữa mẹ tăng 
cường theo như khuyến cáo. 
Kết quả từ bảng 2 cho thấy tỷ lệ trẻ có cân 
nặng thấp hơn so với tuổi thai tại thời điểm trẻ 
đạt 34 tuần và 36 tuần tuổi hiệu chỉnh còn cao 
với tỷ lệ hơn 60% ở các nhóm trẻ có tuổi thai 
lúc sinh khác nhau. Tỷ lệ này tăng cao hơn rất 
nhiều so với tỷ lệ trẻ có cân nặng thấp hơn so 
với tuổi thai lúc sinh. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi tương tự như kết quả nghiên cứu của 
Fenton và cộng sự9. Có thể giải thích kết quả 
này là do trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ 
mất 2 - 3 tuần để đạt được cân nặng lúc sinh và 
sau khi đạt được cân nặng lúc sinh thì tăng cân 
của trẻ cũng không đạt được theo như khuyến 
cáo. Từ kết quả này chúng tôi cũng thấy được 
rằng việc bổ sung sữa dành cho trẻ đẻ non và 
sữa mẹ tăng cường là rất cần thiết để trẻ đẻ 
non có thể bắt kịp đà tăng trưởng và tăng cân 
phù hợp.
Các chỉ số về chiều dài, vòng đầu và vòng 
ngực cũng được sử dụng để đánh giá phát 
triển thể chất của trẻ đẻ non. Kết quả từ bảng 4 
cho thấy chiều dài trung bình tăng 1,0 – 1,3cm/
tuần, vòng đầu tăng trung bình từ 0,8 – 1,0cm/
tuần. Mức tăng trưởng này trong nghiên cứu 
của chúng tôi đã đạt được với mức tăng trưởng 
theo khuyến cáo của hội Nhi khoa Việt Nam. 
Kết quả này cũng cho thấy được rằng mặc dù 
cân nặng của trẻ tăng trưởng không đạt nhưng 
tăng trưởng về chiều dài và vòng đầu không bị 
ảnh hưởng.
V. KẾT LUẬN
Thực hiện nuôi ăn đường tiêu hóa theo 
khuyến cáo của Hội Nhi khoa Việt Nam và 
hướng dẫn nuôi dưỡng cho trẻ sinh non nhẹ 
cân của nhóm nghiên cứu Đại học McMaster, 
Canada giúp rút ngắn thời gian trẻ phải nuôi 
dưỡng tĩnh mạch. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ bị suy 
dinh dưỡng trong nghiên cứu còn cao. Do đó, 
để đạt được tăng trưởng về thể chất phù hợp, 
cần thực hiện nghiêm ngặt theo đúng khuyến 
cáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHO, Preterm birth. 2016.
2. Morgan J, Lauren Y, McGuire W. Delayed 
introduction of progressive enteral feeds to 
prevent necrotising enterocolitis in very low 
birth weight infants. Cochrane Database of 
Systematic Reviews. 2014; Issue 12.
3. Morgan J, Lauren Y, McGuire W. Slow 
advancement of enteral feed volumes to prevent 
necrotising enterocolitis in very low birth weight 
infants. Cochrane Database of Systematic 
Reviews. 2015; (10).
4. Wan Lok KY, Chau PH, Lok Fan HS et al. 
Increase in Weight in Low Birth Weight and Very 
Low Birth Weight Infants Fed Fortified Breast 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
112 TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
EFFECT OF ENTERAL FEEDING IN EXTREMELY PRETERM 
AND SEVERE PRETERM INFANTS AT THE NATIONAL 
HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY
Preterm birth is still challenging in perinatal care. Preterm birth with complications is the most 
common origin of infant death under 5 years old. The study was conducted in the Neonatal center of the 
National hospital of Obstetrics and Gynecology in extremely preterm and severe preterm infants. 8.4% 
preterm infants have low birth weight for gestational age. Among them, 8.7% was extremely preterm 
and 5,6% was severe preterm. Regain birth weight time in infants with birth weight < 1000g, 1000 – 
1499g and ≥ 1500g was 15 ± 4.9; 13.8 ± 4.6 và 11.3 ± 4.9 days on average, respectively. Approximately 
60% of neonates have failure to thrive at 34 weeks of age and 36 weeks (corrected age). There was 
an increase of 1.0 – 1.3cm per week in length and 0.8 – 1.0cm per week in head circumference.
Keywords: neonates, preterm, low birth weight, nutrition, enteral feeding
Milk versus Formula Milk: A Retrospective 
Cohort Study. Nutrients. 2017; 9(5).
5. Shulman RJ, Ou CN, Smith EOB. 
Evaluation of potential factors predicting 
attainment of full gavage feedings in preterm 
infants. Neonatology. 2010; 99(1): p. 38 - 44.
6. Lee ACC, Kazt J, Blencowe H et al. 
National and regional estimates of term and 
preterm babies born small for gestational age in 
138 low-income and middle-income countries 
in 2010. Lancet Glob Health. 2013; 1(1): p. 
e26–e36.
7. Dutta S, Singh B, Chessell L et al. 
Guidelines for Feeding Very Low Birth Weight 
Infants. Nutrients. 2015; 7(1): p. 423 - 442.
8. Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội Chu sinh 
và sơ sinh TPHCM. Khuyến cáo điều trị dinh 
dưỡng cho trẻ sinh non, nhẹ cân. Tạp chí Nhi 
khoa. 2013; 6(2): p. 1 - 12.
9. Fenton TR, Nasser R, Eliasziw M et al. 
Validating the weight gain of preterm infants 
between the reference growth curve of the fetus 
and the term infant. BMC Pediatrics. 2013; 
13(92).

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_nuoi_duong_duong_tieu_hoa_o_tre_cuc_non_va_rat_non.pdf