Hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương vùng hầu họng của mask thanh quản i-gel so với mask thanh quản cổ điển

Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích so sánh hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương

vùng hầu họng của mask thanh quản (MTQ) i-gel so với MTQ cổ điển. 60 người bệnh được gây mê toàn thân

với MTQ và chia thành hai nhóm (nhóm MTQ i-gel và nhóm MTQ cổ điển) tại khoa GMHS - Bệnh viện Đại học

Y Hà Nội từ 03/2020 – 6/2020. Nhóm MTQ i-gel có tỷ lệ đặt thành công ở lần đặt đầu tiên là cao hơn (83,3%

vs 60%) và thời gian đặt trung bình ngắn hơn (33,4s vs 48,9s) so với nhóm MTQ cổ điển nhưng khác biệt

không có ý nghĩa thống kê. Số lần thay mask và chỉnh sửa vị trí của nhóm MTQ i-gel thấp hơn so với nhóm

MTQ cổ điển (10,0% vs 36,7%; p < 0,05).="" các="" tác="" dụng="" không="" mong="" muốn="" như="" đau="" họng,="" nuốt="" vướng="">

ít hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm MTQ i-gel. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bước đầu MTQ

i-gel có ưu điểm hơn trong kiểm soát đường thở và hạn chế tổn thương vùng hầu họng so với MTQ cổ điển.

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương vùng hầu họng của mask thanh quản i-gel so với mask thanh quản cổ điển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương vùng hầu họng của mask thanh quản i-gel so với mask thanh quản cổ điển

Hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương vùng hầu họng của mask thanh quản i-gel so với mask thanh quản cổ điển
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202022
HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT ĐƯỜNG THỞ VÀ MỨC ĐỘ 
TỔN THƯƠNG VÙNG HẦU HỌNG CỦA MASK THANH QUẢN 
I-GEL SO VỚI MASK THANH QUẢN CỔ ĐIỂN
Vũ Hoàng Phương1,2, , Đào Thị Huyền Trang¹, Lê Thị Đan Thanh¹, Trần Hồng Đức¹
1Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích so sánh hiệu quả kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương 
vùng hầu họng của mask thanh quản (MTQ) i-gel so với MTQ cổ điển. 60 người bệnh được gây mê toàn thân 
với MTQ và chia thành hai nhóm (nhóm MTQ i-gel và nhóm MTQ cổ điển) tại khoa GMHS - Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội từ 03/2020 – 6/2020. Nhóm MTQ i-gel có tỷ lệ đặt thành công ở lần đặt đầu tiên là cao hơn (83,3% 
vs 60%) và thời gian đặt trung bình ngắn hơn (33,4s vs 48,9s) so với nhóm MTQ cổ điển nhưng khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. Số lần thay mask và chỉnh sửa vị trí của nhóm MTQ i-gel thấp hơn so với nhóm 
MTQ cổ điển (10,0% vs 36,7%; p < 0,05). Các tác dụng không mong muốn như đau họng, nuốt vướng gặp 
ít hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm MTQ i-gel. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bước đầu MTQ 
i-gel có ưu điểm hơn trong kiểm soát đường thở và hạn chế tổn thương vùng hầu họng so với MTQ cổ điển. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Kiểm soát đường thở, tổn thương hầu họng, mask thanh quản i-gel, mask thanh quản cổ 
điển.
Kiểm soát đường thở bằng phương pháp đặt 
nội khí quản trong quá trình gây mê gây ra nhiều 
phiền nạn cho bệnh nhân như tổn thương tại 
chỗ vùng răng miệng, thanh môn.. và các phản 
ứng phụ khác.1,2 Những năm gần đây, với sự 
tiến bộ của công nghệ, mask thanh quản (MTQ) 
như một thiết bị hỗ trợ thông khí đã được các 
bác sĩ lâm sàng công nhận và dần dần trở nên 
phổ biến rộng rãi vì kĩ thuật đơn giản hơn và 
hiệu quả thông khí tốt. Tuy nhiên, những phiền 
nạn trong kiểm soát đường thở bằng MTQ mặc 
dù ít hơn so với đặt nội khí quản nhưng vẫn có 
thể gặp như là đau họng, chảy máu vùng hầu 
họng3,4 Hiện nay, MTQ phổ biến nhất trong 
thực hành lâm sàng bao gồm MTQ cổ điển, 
MTQ i-gel, và các loại MTQ khác. MTQ i-gel 
là loại dùng một lần, được cải tiến để phù hợp 
với giải phẫu của vùng hầu họng và thực quản. 
Các nghiên cứu cho thấy nó hiệu quả hơn khi 
sử dụng để kiểm soát đường thở trong nhiều 
tình huống khác nhau.5,6 Hiện tại, ở Việt Nam 
chưa có nghiên cứu nào đánh giá về hiệu quả 
kiểm soát đường thở và mức độ tổn thương 
của vùng hầu họng việc áp dụng loại MTQ này 
để kiểm soát đường thở cho bệnh nhân trong 
quá trình gây mê. Vì vậy, chúng tôi tiến hành 
đề tài này với mục tiêu “So sánh hiệu quả kiểm 
soát đường thở và mức độ tổn thương vùng 
hầu họng của MTQ i-gel so với MTQ cổ điển”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Gây mê 
hồi sức và chống đau, Bệnh viện Đại học Y Hà 
Tác giả liên hệ: Vũ Hoàng Phương, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 23
Nội từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2020. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân phẫu thuật 
có chỉ định gây mê MTQ, phẫu thuật không liên 
quan tới vùng miệng - họng miệng - hạ họng - 
thanh quản và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: người bệnh dưới 18 
tuổi, có những dị tật bẩm sinh, triệu chứng cơ 
năng và tổn thương thực thể liên quan đến 
vùng hầu họng thanh môn bẩm sinh hoặc mắc 
phải, mắc các bệnh mạn tính về hô hấp như 
hen phế quản, khí phế thũng.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp, 
ngẫu nhiên và có đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12 năm 
2019
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại khoa Gây mê Hồi sức và Chống đau, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Phương 
pháp lấy mẫu thuận tiện được tiến hành trên 60 
bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn lựa chọn, 
được chia ngẫu nhiên bằng hình thức bốc thăm 
phiếu đưa vào 2 nhóm: 30 bệnh nhân ở nhóm 
được đặt MTQ i-gel (còn gọi là nhóm MTQ 
i-gel) và 30 bệnh nhân ở nhóm được đặt MTQ 
cổ điển (nhóm MTQ cổ điển).
Các tiêu chí đánh giá:
- Về hiệu quả kiểm soát đường thở: tỉ lệ đặt 
thành công, số lần đặt, thời gian đặt, số lần phải 
điều chỉnh thay đổi vị trí mask hoặc thể tích cuff.
- Về mức độ tổn thương hầu họng: gãy hoặc 
mất vững răng, đổi màu niêm mạc, dính máu 
bề mặt mask (không có/ít/nhiều), tổn thương 
môi miệng và các dấu hiệu cơ năng như khô 
miệng, nuốt vướng, nuốt đau, khàn tiếng, nói 
mệt, ho, khó thở khi đặt MTQ, khi rút MTQ và 
sau khi rút 24h.
Qui trình nghiên cứu:
- Chuẩn bị trước mổ: bệnh nhân được khám 
gây mê trước phẫu thuật, chuẩn bị trước mổ 
theo quy trình tại bệnh viện.
- Khởi mê: Tất cả 2 nhóm bệnh nhân trong 
nghiên cứu đều được khởi mê theo 1 phác đồ 
thống nhất với: liều fentanyl 2 mcg/kg, propofol 
TCI với liều Ce ban đầu là 2,5 – 3 mcg/ml. Sau 
khi bệnh nhân ngủ, mất đáp ứng với lời nói 
và đảm bảo thông khí được và đặt 1 trong 2 
loại MTQ (tuỳ theo nhóm bốc thăm) ngay sau 
đó bởi kĩ thuật viên gây mê có kinh nghiệm và 
đã được đào tạo kĩ thuật đặt MTQ cổ điển và 
i-gel. Kích cỡ MTQ i-gel và MTQ cổ điển được 
lựa chọn phù hợp với bệnh nhân dựa theo cân 
nặng (mask số 3 cho bệnh nhân có cân nặng từ 
30 – 50 kg và mask số 4 có bệnh nhân có cân 
nặng từ 50 – 70 kg) theo danh sách thứ tự bốc 
thăm theo nhóm bệnh nhân. 
- Tần số tim (NT), huyết áp tâm thu (HATT), 
huyết áp tâm trương (HATTr), huyết áp trung 
bình (HATB), SpO2 của bệnh nhân được ghi 
nhận ở các thời điểm: 
+ T0: trước khởi mê 1 phút
+ T1: ngay sau đặt MTQ 1 phút
+ T3, T5, T15, T20: ngay sau đặt MTQ 3, 5, 
15 và 20 phút. 
- Ghi nhận lại: số lần đặt MTQ, số lần thay 
MTQ (sau khi điều chỉnh MTQ > 3 lần), số lần 
phải điều chỉnh vị trí MTQ, số lần điều chỉnh áp 
lực cuff đối với nhóm MTQ cổ điển, thời gian 
đặt MTQ và biến chứng khi đặt MTQ (như chảy 
máu môi, miệng, gãy răng )
- Thoát mê tại phòng hồi tỉnh: bệnh nhân 
được rút MTQ khi theo dõi đánh giá có đủ điều 
kiện rút MTQ. Ghi lại các biến chứng trong quá 
trình rút MTQ như: tổn thương răng, chảy máu, 
tổn thương môi miệng, đau họng, khô miệng, 
nuốt đau, khàn tiếng, ho, nôn buồn nôn, khó 
thở thanh quản  tại thời điểm rút MTQ và sau 
khi rút MTQ 24 giờ.
3. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập được phân tích, xử 
lí bằng phần mềm SPSS 23.0. Kết quả được 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202024
trình bày dưới dạng trung bình, độ lệch chuẩn, 
tỷ lệ phần trăm. So sánh tỷ lệ một mẫu với một 
tỷ lệ lý thuyết hoặc các tỷ lệ giữa hai biến định 
tính bằng kiểm định Chi-square. So sánh giá trị 
trung bình của hai biến định lượng bằng kiểm 
định T-test. So sánh giá trị trung bình của 3 biến 
định lượng bằng kiểm định ANOVA. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua hội đồng nghiên 
cứu khoa học của Bộ môn Gây mê hồi sức – 
Trường Đại học Y Hà Nội, lãnh đạo khoa Gây 
mê Hồi sức và chống đau – Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội, sự đồng ý của bệnh nhân và người 
nhà bệnh nhân. Hồ sơ và các thông tin liên 
quan chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên 
cứu, không tiết lộ cho bất kì đối tượng không 
liên quan nào khác.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Nhóm MTQ i-gel 
(n = 30)
Nhóm MTQ cổ điển 
(n = 30)
P
Tuổi (năm) X ± SD 47,13 ± 12,04 44,57 ± 12,94 > 0,05
Giới tính Nam (n) (%) 10 (33,3%) 18 (60%) > 0,05
Nữ (n) (%) 20 (66,7%) 12 (40%)
Chỉ số khối cơ thể (BMI) 22,23 ± 2,56 23,21 ± 2,93 > 0,05
Không có sự khác biệt về tuổi, chỉ số khối cơ thể giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Về giới 
tính, tỷ lệ nam giới ở nhóm MTQ i-gel ít hơn đáng kể so với số nam giới ở nhóm MTQ cổ điển (lần 
lượt là 33,3% và 60%) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
2. Hiệu quả kiểm soát đường thở
Bảng 2. Hiệu quả kiểm soát đường thở của 2 nhóm
Nhóm MTQ i-gel
(n = 30)
Nhóm MTQ cổ điển 
(n = 30)
P
Tỷ lệ thành công 30/30 (100%) 30/30 (100%)
Số lần đặt (n) (%)
1 lần 25 (83,3%) 18 (60%)
> 0,05
2 lần 4 (13,3%) 10 (33,3 %)
3 lần 1 (3,3%) 1 (3,3%)
4 lần 0 1 (3,3%)
Thời gian đặt (s)
Mean = 33,4
Median = 30
(Min-max = 5 - 120)
Mean = 48,9
Median = 30
(Min-max = 10 - 300)
> 0,05
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 25
Nhóm MTQ i-gel
(n = 30)
Nhóm MTQ cổ điển 
(n = 30)
P
Số lần thay mask (n) (%)
0 28 (93,3%) 20 (66,7%)
< 0,01*1 2 (6,7%) 7 (23,3%)
2 0 3 (10%)
Số lần chỉnh mask/ cuff trong mổ (n) (%)
0 27 (90,0%) 19 (63,3%)
< 0,01*
1 2 (6,7%) 2 (6,7%)
2 0 3 (10%)
3 1 (3,3%) 3 (10%)
4 0 3 (10%)
Ở nhóm MTQ i-gel: có tỷ lệ thành công ngay tại lần đặt đầu tiên cao hơn so với mask truyền thống 
(83,3% và 60%); thời gian trung bình đặt mask ngắn hơn so với nhóm mask cổ điển (33,4 s vs 48,9 
s những khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ phải thay mask (≥ 2 lần) và tỉ 
lệ chỉnh vị trí mask (≥ 2 lần) ở nhóm i-gel là thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm mask cổ điển 
với p < 0,01 (lần lượt là 6,7 % vs 33,3%; 3,3% vs 30%). 
3. Tổn thương sau rút MTQ 
Biểu đồ 1. Tổn thương trong quá trình đặt và rút MTQ
Các tác dụng không mong muốn sau khi rút mask xảy ra ở cả hai nhóm MTQ. Tuy nhiên, phần 
lớn các di chứng này tốt lên rõ rệt sau 24h. Đau họng, nuốt vướng, khô miệng và chảy máu miệng 
là các biến chứng phổ biến nhất và gặp ở nhóm igel là ít hơn so với nhóm mask cổ điển. Tuy nhiên, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202026
tỉ lệ đau họng, nuốt vướng sau khi rút ở nhóm 
i-gel thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
mask cổ điển (lần lượt là 23,3% vs 60%; 6,7% 
vs 63,3% với p < 0,05). 
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hiệu quả 
kiểm soát đường thở của MTQ được đánh giá 
thông qua tỉ lệ thành công đặt mask, số lần đặt, 
số lần thay mask, thời gian đặt, số lần thực hiện 
việc chỉnh sửa vị trí của mask, bơm cuff trong 
quá trình khởi mê và duy trì mê trong cuộc mổ. 
Chúng tôi quan sát thấy rằng cả hai loại MTQ 
đều dễ dàng đặt < 02 lần thử, nhưng tỷ lệ thành 
công trong lần thử đầu tiên là 83,3% ở nhóm 
i-gel và 60,3% ở nhóm mask cổ điển nhưng sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả 
này của chúng tôi là thấp hơn so với nghiên cứu 
của Pratheeba và cộng sự (100% với i-gel và 
84% với MTQ cổ điển).⁷ Tỷ lệ thất bại của việc 
đặt MTQ i-gel ở lần thử đầu tiên trong nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn có thể do sự trùng 
lặp trong việc lựa chọn kích cỡ theo trọng lượng 
cơ thể đối với người nước ngoài (theo khuyến 
cáo của nhà sản xuất). Hơn nữa, trong nghiên 
cứu của chúng tôi có thể là do việc thực hiện kĩ 
thuật đặt MTQ bởi các điều dưỡng viên gây mê 
dưới sự giám sát của các bác sĩ gây mê trong 
việc xử lý các thiết bị đường thở trên thanh môn. 
Khoảng thời gian đặt MTQ thấp hơn đáng kể 
ở nhóm MTQ i-gel so với nhóm MTQ cổ điển. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết quả tương 
tự các tác giả nước ngoài.6,8 Vì MTQ i-gel không 
cần phải bơm cuff để điều chỉnh độ kín của mask 
nên thời gian cần thiết để đạt được hiệu quả 
kiểm soát đường thở ngắn hơn và không cần 
người trợ giúp, thiết bị có thể được đẩy vào vị 
trí một cách đơn giản. Tùy theo định nghĩa của 
các tác gỉa khác nhau, hầu hết các tác giả đều 
đồng ý định nghĩa đặt MTQ thất bại là khi thông 
khí không hiệu quả và không thể tiếp tục đặt lại 
MTQ mà phải chuyển sang các phương pháp vô 
cảm khác. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ 
thất bại của đặt MTQ là 0%, thấp hơn đáng kể so 
với tỷ lệ 0,2 - 4,7% trong nghiên cứu của tác giả 
Billefals năm 2019.⁹ Có thể lý giải kết quả này 
vì quần thể nghiên cứu của chúng tôi không có 
nhiều yếu tố nguy cơ đặt MTQ khó như béo phì, 
khoảng cách cằm giáp chủ yếu lớn hơn 6 cm, di 
động cột sống cổ bình thường. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, không 
có bệnh nhân nào gặp các biến chứng nguy 
hiểm ngay trong quá trình đặt MTQ hoặc sau rút 
MTQ như trào ngược, co thắt đường thở, chấn 
thương nặng đường thở. Các tổn thương vùng 
hầu họng (chảy máu, đau họng, khô miệng, nuốt 
vướng) khi đặt MTQ i-gel là thấp hơn so với 
mask cổ điển. Tỷ lệ này cũng gần tương đương 
với mức độ tổn thương sau đặt MTQ của tác giả 
Pratheeba là 15%.⁷ 
Nhóm sử dụng MTQ i-gel tuy ghi nhận triệu 
chứng đau họng khô miệng ngay sau khi rút 
mask không cao nhưng hầu hết đều kéo dài tình 
trạng ngày đến 24h sau rút MTQ (giảm từ 23,3% 
xuống 16,7%). Trong khi đó, với MTQ cổ điển, 
các triệu chứng đau giảm đi rõ rệt sau 24h đầu 
(giảm từ 60% xuống 6,7%). Có thể giải thích sự 
kéo dài cảm giác đau này là do kết cấu của MTQ 
i-gel là khối silicon chắc, đặc dẫn đến áp lực tác 
động của mask vào vùng đường thở trong suốt 
quá trình mổ dẫn đến các mô bị đè ép cần thời 
gian lâu hơn để hồi phục so với mask bóng khí 
mỏng, nhẹ của mask truyền thống. Giải thích 
cho tỷ lệ chảy máu vùng hầu họng sau khi đặt 
mask truyền thống cao hơn MTQ i-gel. Nghiên 
cứu năm 2007, đã chỉ ra một số nguyên nhân 
như sau: gập góc ở đầu của MTQ cổ điển, sai 
kĩ thuật đặt mask, do MTQ cổ điển quá mềm 
nên người đặt dùng lực quá mạnh đẫn đến tổn 
thương mô mềm.⁸
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
MTQ i-gel thế hệ mới bước đâù có hiệu quả tốt 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 27
hơn trong kiểm soát đường thở cũng như làm 
giảm các tổn thương vùng hầu họng so với MTQ 
cổ điển. Kết quả này cũng gợi ý việc lựa chọn 
loại MTQ nào tối ưu trong kiểm soát đường thở 
cho bệnh nhân gây mê toàn thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Santos PM AA, Weymuller EA Jr Risk 
factors associated with prolonged intubation and 
laryngeal injury. Otolaryngol Head Neck Surg. 
1994; 111 (4): 453 - 459.
2. Warner ME BS, Warner MA, Et al 
Perianesthetic dental injuries: frequency, 
outcomes, and risk factors. Anesthesiology. 
1999; 90 (5): 1302 - 1305.
3. Higgins PP CF, Mezei G Postoperative sore 
throat after ambulatory surgery. Br J Anaesth. 
2002; 88 (4): 582 - 584.
4. Pacheco-Lopez PC, Hillel AT, Et al. 
Complications of airway management. Respir 
Care. 2014; 59 (6): 1019 - 1021.
5. Wang F ZR. Application of the LMA-
Supreme" and i-gel" laryngeal masks during 
pelvic operations in adults. Asian Journal of 
Surgery. 2016; 39:1 - 5.
6. Reyhan Polat GBA, Jülide Ergil 
Comparison of the i-gel and the Laryngeal Mask 
Airway Classic in terms of clinical performance. 
Rev Bras Anestesiol. 2015; 65 (5): 343 - 348.
7. N.Pratheeba GSR, R. Remadevi 
Comparison of the i-gel and the Laryngeal Mask 
Airway Classic in terms of ease of insertion 
and hemodynamic response : a randomsized 
observational study. Anesth Essays Res. 2016; 
10 (3): 521 - 525.
8. Sung K, Yarmush Laryngeal Mask 
Airway: use and clinical Applications. Journal of 
Bronchology. 2007; 14 (3): 181 - 188.
9. Eninar Sten Billefals-Vallejo MI-S, Lisa 
Melina Lopez Related factors for proseals 
laryngeal mask airway failure. Colombian Journal 
of Anesthesiology. 2019; 47 (3): 154 - 161.
Summary
AIRWAY CONTROL EFFECT AND THE DEGREE OF 
OROPHARYNGEAL LESIONS OF THE I-GEL LARYNGEAL 
MASK COMPARED WITH THE CLASSIC LARYNGEAL MASK 
Our study was to compare the airway control effect and the degree of oropharyngeal lesions 
of the i-gel laryngeal mask (LM) with the classic laryngeal mask. 60 patients were under general 
anesthesia with LM and divided into two groups (i-gel LM group and classic LM group) at the 
Anesthesia, Intensive Care & Pain Management department - Hanoi Medical University Hospital 
from March 2020 – June 2020. The i-gel LM group had a higher first time placement success rate 
(83.3% vs 60%) and shorter mean insertion time (33.4s vs 48.9s) than that of classic LM group but 
the difference was not statistically significant. The number of LM changes and position correction 
of the i-gel LM group were statistically significantly lower than that of the classical LM group 
(10.0% vs 36.7%; p < 0.05). The undesirable effects such as sore throat, swallowing problems 
were statistically less significant in the i-gel MTQ group. Our study results show that initially i-gel 
LM has more advantages in airway control and limiting oropharyngeal lesions to the classical LM. 
Key words: Airway control, oropharyngeal lesions, i-gel laryngeal mask, classic laryngeal 
mask.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_kiem_soat_duong_tho_va_muc_do_ton_thuong_vung_hau_h.pdf