Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm

Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng (Quadratus

Lumborum Block - QLB) dưới hướng dẫn của siêu âm. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối

chứng. Tiến hành nghiên cứu trên 60 bệnh nhân được mổ lấy thai dưới gây tê tủy sống chia làm 2 nhóm. Nhóm

1 (nhóm QLB, n = 30) sử dụng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm ở cả hai

bên. Nhóm 2 (nhóm ngoài màng cứng - NMC, n = 30) sử dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng khi kết

thúc phẫu thuật. Đánh giá hiệu quả giảm đau khi nghỉ ngơi và vận động, mức tiêu thụ morphin liên tục trong

48 giờ đầu sau mổ và sự hài lòng của bệnh nhân về 2 phương pháp giảm đau này. Điểm VAS khi nghỉ ngơi

và khi vận động sau khi mổ lấy thai trong nhóm QLB và nhóm NMC đều nhỏ hơn 4 và không có sự khác biệt

giữa 2 nhóm. Tổng mức tiêu thụ morphin ở nhóm QLB là 1,0 ± 0,53 mg, ở nhóm NMC là 0,7 ± 0,27mg, không

có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Sự hài lòng của bệnh nhân liên quan tới giảm đau nhiều ở nhóm QLB hơn là

nhóm NMC (93,3% so với 60%). Không gặp biến chứng nguy hiểm nào của cả hai phương pháp trên. Gây tê

QLB dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ lấy thai tương đương với gây mê ngoài

màng cứng nhưng có mức độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn so với phương pháp gây tê ngoài màng cứng.

pdf 8 trang phuongnguyen 520
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm

Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
54 TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Lê Tuấn Anh, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 12/09/2019
Ngày được chấp nhận: 18/09/2019
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ LẤY THAI 
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ CƠ VUÔNG THẮT LƯNG
DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM
Lê Anh Tuấn1, Nguyễn Đức Lam2, Nguyễn Duy Ánh2
1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh Viện Phụ Sản Hà Nội
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng (Quadratus 
Lumborum Block - QLB) dưới hướng dẫn của siêu âm. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối 
chứng. Tiến hành nghiên cứu trên 60 bệnh nhân được mổ lấy thai dưới gây tê tủy sống chia làm 2 nhóm. Nhóm 
1 (nhóm QLB, n = 30) sử dụng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm ở cả hai 
bên. Nhóm 2 (nhóm ngoài màng cứng - NMC, n = 30) sử dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng khi kết 
thúc phẫu thuật. Đánh giá hiệu quả giảm đau khi nghỉ ngơi và vận động, mức tiêu thụ morphin liên tục trong 
48 giờ đầu sau mổ và sự hài lòng của bệnh nhân về 2 phương pháp giảm đau này. Điểm VAS khi nghỉ ngơi 
và khi vận động sau khi mổ lấy thai trong nhóm QLB và nhóm NMC đều nhỏ hơn 4 và không có sự khác biệt 
giữa 2 nhóm. Tổng mức tiêu thụ morphin ở nhóm QLB là 1,0 ± 0,53 mg, ở nhóm NMC là 0,7 ± 0,27mg, không 
có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Sự hài lòng của bệnh nhân liên quan tới giảm đau nhiều ở nhóm QLB hơn là 
nhóm NMC (93,3% so với 60%). Không gặp biến chứng nguy hiểm nào của cả hai phương pháp trên. Gây tê 
QLB dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ lấy thai tương đương với gây mê ngoài 
màng cứng nhưng có mức độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn so với phương pháp gây tê ngoài màng cứng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay tại Việt Nam mổ lấy thai luôn chiếm 
tỉ lệ cao khoảng 36% [1]. Đau sau mổ lấy thai 
được xếp vào mức độ đau mạnh dưới 48 giờ 
ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lý cũng như sự 
phục hồi của sản phụ, sự gắn kết của sản phụ 
với con và thời gian cho con bú [2 - 6].
Gây tê cơ vuông thắt lưng (Quadratus 
Lumborum Block) lần đầu tiên được Blanco mô 
tả vào năm 2007 để giảm đau cho các phẫu 
thuật vùng bụng. Một số nghiên cứu sau đó chỉ 
ra rằng thuốc tê có thể lan từ T5 tới L1 do đó có 
thể dùng phương pháp này để giảm đau trong 
các phẫu thuật vùng bụng dưới và mổ lấy thai 
[6; 7]. Với sự hướng dẫn của siêu âm làm tăng 
hiệu quả và giảm các tai biến của phương pháp 
này nên ngày nay phương pháp này được áp 
dụng rộng rãi. Tuy nhiên cho đến hiện nay cả 
Việt Nam và trên thế giới đều có rất ít nghiên 
cứu về phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng 
để giảm đau sau mổ lấy thai. Vì vậy chúng tôi 
tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh 
giá hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng 
phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới 
hướng dẫn của siêu âm” nhằm mục tiêu so 
sánh tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai bằng 
phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng dưới 
hướng dẫn của siêu âm với phương pháp gây 
tê ngoài màng cứng và mức độ hài lòng của 
bệnh nhân về hai phương pháp trên.
Từ khóa: Gây tê QLB, mổ lấy thai, dưới hướng dẫn siêu âm, gây tê ngoài màng cứng, giảm đau.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
55TCNCYH 123 (7) - 2019
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Đối tượng nghiên cứu gồm 60 bệnh nhân 
có chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai với 
đường rạch da ngang dưới rốn tại Bệnh viện 
Phụ sản Hà Nội từ tháng 03/2019 đến tháng 
09/2019.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Bệnh nhân được gây tê tủy sống để mổ lấy 
thai, từ 18 – 50 tuổi, ASA I – II, không có chống 
chỉ định gây tê vùng, đã được khám gây mê và 
giải thích trước mổ về kỹ thuật gây tê cơ vuông 
thắt lưng, gây tê ngoài màng cứng thang điểm 
VAS.
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Nhiễm trùng tại vùng chọc kim gây tê, bệnh 
nhân có tiền sử dị ứng thuốc tê, tiền sử rối loạn 
tâm thần, khó khăn trong giao tiếp, bệnh nhân 
không hợp tác, bệnh lý thần kinh ngoại biên, rối 
loạn đông máu hay chống chỉ định tê tủy sống.
2. Phương pháp
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 03/2019 đến 
tháng 09/2019.
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Gây mê - Hồi 
sức Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội.
Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, thử nghiệm 
lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng.
Cỡ mẫu và chọn mẫu:
60 bệnh nhân chia làm 2 nhóm. Phân nhóm 
bằng bốc thăm ngẫu nhiên.
Nhóm 1 (Nhóm QLB): Bệnh nhân được tê 
tủy sống để mổ bằng bupivacain 0,5% tỷ trọng 
cao với liều lượng 8 mg + fentanyl 4 µg/kg, 
sau đó được giảm đau bằng bolus hỗn hợp 
Ropivacain 0,1% qua catheter đặt trong khoang 
cơ vuông thắt lưng với liều 15 ml/6 giờ mỗi bên.
Nhóm 2 (Nhóm NMC): Bệnh nhân được tê 
tủy sống để mổ bằng bupivacain 0,5% tỷ trọng 
cao với liều lượng 8 mg + fentanyl 4 µg/kg, sau 
đó được giảm đau bằng truyền liên tục hỗn 
hợp Ropivacain 0,1% bằng bơm tiêm điện qua 
catheter đặt trong khoang NMC với liều 5ml/
giờ.
Các bước tiến hành
Bước 1: Tiến hành bốc thăm chia bệnh nhân 
thành hai nhóm:
- Nhóm QLB: Bệnh nhân được tê tủy sống 
để mổ bằng bupivacain 0,5% tỷ trọng cao với 
liều lượng 8 mg + fentanyl 4 µg/kg. Sau đó 
được đặt catheter vào khoang cơ vuông thắt 
lưng 2 bên.
- Nhóm NMC: Bệnh nhân được tê tủy sống 
để mổ bằng bupivacain 0,5% tỷ trọng cao với 
liều lượng 8 mg + fentanyl 4 µg/kg. Sau đó được 
đặt catheter vào khoang ngoài màng cứng.
Bước 2: Tiến hành đặt catheter vào khoang 
cơ vuông thắt lưng hoặc NMC.
Bước 3: Cố định catheter bằng opsite và 
băng dính. Ghi các thông số liên quan đến kĩ 
thuật đặt catheter vào phiếu theo dõi.
Bước 4: Pha thuốc giảm đau tại phòng hồi 
tỉnh.
Bước 5: Dùng thuốc giảm đau qua catheter.
Bước 6: Khi bệnh nhân ổn định, chuyển về 
phòng điều trị tiếp tục theo dõi các thông số 
theo tiêu chí đã đề ra và ghi vào phiếu theo dõi 
trong 48 giờ đầu.
Chỉ số nghiên cứu 
- Đặc điểm chung bệnh nhân và phẫu thuật: 
Tuổi, cân nặng (kg), chiều cao (cm), BMI, phân 
độ ASA, tiền sử mổ lấy thai.
- Các biến số đánh giá hiệu quả giảm đau 
trong 48 giờ sau mổ: Đánh giá thang điểm đau 
VAS từ 0 đến 10 theo thời gian: các thời điểm 
T0, T1, T2, T4, T6, T12, T24, T48 tương ứng 
với lúc tiêm thuốc (VAS ≥ 4), sau tiêm thuốc 1 
giờ, 2 giờ, 4 giờ, 6 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ: 
+ Điểm VAS: 0 – 1: không đau, 2 – 4: đau ít, 
5 – 6: đau vừa, 7 – 8: đau nhiều, 9 – 10: rất đau.
+ Nếu VAS < 4: được coi là đau nhẹ, chấp 
nhận được, không cần dùng thuốc giảm đau 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
56 TCNCYH 123 (7) - 2019
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: 
Bảng 1. Một số đặc điểm của 2 nhóm đối tượng nghiên cứu
 Nhóm
Phân bố
Nhóm QLB
(n1)
Nhóm NMC
(n2)
p
Tuổi (năm) X ± SD 30,43 ± 5,54 30,10 ± 4,58 > 0,05
Chiều cao (cm) X ± SD 159,60 ± 5,17 158,60 ± 3,57 > 0,05
Cân nặng (kg) X ± SD 65,83 ± 7,36 67,06 ± 7,01 > 0,05
BMI (kg/m2) X ± SD 25,87 ± 3,00 26,68 ± 2,92 > 0,05
Tuổi thai (tuần) X ± SD 37,99 ± 0,94 37,16 ± 0,86 > 0,05
Thời gian phẫu thuật (phút) X ± SD 38,70 ± 5,19 40,33 ± 5,00 > 0,05
Thời gian từ lúc TTS đến khi bơm 
thuốc tê để giảm đau (phút) X ± SD
176,30 ± 43,20 174,70 ± 33,70 > 0,05
Tiền sử mổ lấy thai
Lần đầu
%
46,67 43,33 > 0,05
Sẹo mổ 
cũ
53,33 56,67 > 0,05
Phân bố ASA
I
%
93,30 86,30 > 0,05
II 6,70 13,70 > 0,05
khác.
+ Nếu VAS ≥ 4: đau nhiều, được dùng thêm 
Perfalgan 1g, truyền tĩnh mạch mỗi 6 giờ, tùy 
theo nhu cầu bệnh nhân. Nếu bệnh nhân vẫn 
đau và có nhu cầu thêm thuốc thì sẽ tiêm dưới 
da morphin 5 mg cách mỗi 8 giờ.
- Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân 
theo Terheggen [8].
1: Không hài lòng: Còn đau nhiều và/hoặc 
có tác dụng không mong muốn gây lo lắng khó 
chịu nhiều.
2: Hài lòng: Còn đau nhẹ hoặc có tác dụng 
không mong muốn nhưng thoáng qua, ít gây 
khó chịu và chấp nhận được.
3: Rất hài lòng: Không hoặc đau nhẹ, thoải 
mái và dễ chịu trong suốt quá trình giảm đau, 
không có tác dụng không mong muốn.
3. Xử lý số liệu 
Số liệu nghiên cứu được xử lý bằng phần 
mềm SPSS 16.0. Nghiên cứu được tiến hành 
với sự đồng ý của lãnh đạo Khoa Gây mê – Hồi 
sức Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, bệnh nhân và 
người nhà bệnh nhân.
4. Đạo đức nghiên cứu
Các thuốc sử dụng trong nghiên cứu đã 
được sử dụng rộng rãi. Nghiên cứu chỉ nhằm 
mục tiêu tìm ra lợi ích của việc sử dụng phương 
pháp gây tê cơ vuông thắt lưng để giảm đau 
sau mổ lấy thai. Đối tượng nghiên cứu được 
cung cấp đầy đủ thông tin và ký chấp nhận tình 
nguyện tham gia nghiên cứu. Mọi thông tin liên 
quan đến đối tượng đều được mã hóa và đảm 
bảo bí mật.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
57TCNCYH 123 (7) - 2019
Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI, tuổi thai, thời gian phẫu 
thuật, thời gian từ lúc tê tủy sống đến lúc bơm thuốc tê, tiền sử mổ lấy thai và phân độ ASA. 
2. Đặc điểm kĩ thuật và hiệu quả giảm đau.
Bảng 2. Đặc điểm kĩ thuật và lượng morphin tiêu thụ
 Nhóm
Đặc điểm 
Nhóm QLB Nhóm NMC p
Thời gian thực hiện kĩ thuật (phút)
28,67 ± 8,19 8,07 ± 2,27 < 0,05
Tỷ lệ thành công 100 % 100 % > 0,05
Lượng morphin tiêu thụ trong 48 giờ 
sau mổ (mg)
1,0 ± 0,53 0,7 ± 0,27 > 0,05
Thời gian thực hiện thành công việc đặt Catheter vào cơ vuông thắt lưng 2 bên trung bình là 
28,67 ± 8,19 phút dài hơn so với vào khoang NMC trung bình là 8,07 ± 2,27 phút, tỉ lệ thành công là 
100% ở cả 2 nhóm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ số bệnh nhân phải cần đến hỗ trợ của morphin trong 48 
giờ sau mổ ở nhóm QLB có nhiều hơn nhóm NMC (17,8% so với 11,1%), tuy nhiên lượng morphin 
tiêu thụ ở cả 2 nhóm đối tượng đều không nhiều và không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p > 0,05), 
với lượng morphin trung bình lần lượt 1,0 ± 0,53 mg ở nhóm QLB và 0,7 ± 0,27mg ở nhóm NMC.
Bảng 3. Điểm đau VAS khi nghỉ ngơi
Điểm đau VAS
X ± SD 
Nhóm QLB Nhóm NMC p
Ho 4,50 ± 0,68 4,35 ± 0,85 > 0,05
H1 1,03 ± 0,99 1,10 ± 1,42 > 0,05
H2 1,43 ± 0,50 1,53 ± 0,57 > 0,05
H4 1,80 ± 0,55 1,93 ± 0,69 > 0,05
H6 1,47 ± 0,51 1,63 ± 0,72 > 0,05
H12 2,03 ± 0,72 1,80 ± 0,71 > 0,05
H18 1,73 ± 0,69 1,87 ± 0,94 > 0,05
H24 2,20 ± 0,55 1,97 ± 0,49 > 0,05
H36 1,97 ± 0,67 1,67 ± 0,61 > 0,05
H48 2,13 ± 0,63 1,83 ± 0,65 > 0,05
Từ sau khi bơm thuốc tê tất cả các thời điểm đều có thang điểm VAS dưới 4. Không có sự khác biệt 
giữa 2 nhóm về thang điểm VAS giữa 2 nhóm lúc nghỉ ngơi. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
58 TCNCYH 123 (7) - 2019
Bảng 4. Điểm VAS khi vận động
Điểm đau VAS
X ± SD 
Nhóm QLB Nhóm NMC p
Ho 4,75 ± 0,38 4,85 ± 0,65 > 0,05
H1 2,67 ± 1,09 2,20 ± 0,96 > 0,05
H2 2,30 ± 0,75 2,08 ± 0,78 > 0,05
H4 2,10 ± 0,66 1,80 ± 0,66 > 0,05
H6 1,87 ± 0,73 1,60 ± 0,62 > 0,05
H12 1,90 ± 0,76 1,87 ± 0,57 > 0,05
H18 2,20 ± 0,66 2,20 ± 0,85 > 0,05
H24 2,30 ± 0,79 2,10 ± 0,61 > 0,05
H36 2,60 ± 0,97 2,37 ± 0,67 > 0,05
H48 1,27 ± 0,74 1,53 ± 0,63 > 0,05
Từ sau khi bơm thuốc tê tất cả các thời điểm đều có thang điểm VAS dưới 4. Không có sự khác 
biệt giữa 2 nhóm về thang điểm VAS giữa 2 nhóm lúc vận động. 
Bảng 5. Mức độ hài lòng của bệnh nhân
 Nhóm 
Mức độ 
Nhóm QLB
Nhóm NMC p
Rất hài lòng 90% 71% < 0,05
Hài lòng 10% 29% < 0,05
Không hài lòng 0% 0% > 0,05
100% bệnh nhân ở cả 2 nhóm đều có mức độ hài lòng hoặc rất hài lòng. Ở nhóm QLB 90% bệnh 
nhân cảm thấy rất hài lòng, 10% bệnh nhân hài lòng. Ở nhóm NMC 71% bệnh nhân cảm thấy rất hài 
lòng, 29% bệnh nhân cảm thấy hài lòng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
IV. BÀN LUẬN
Đau sau mổ đẻ được xếp vào mức độ đau 
nặng. Phương pháp giảm đau NMC là phương 
pháp giảm đau phổ biến đã được áp dụng nhiều 
ở hầu hết các bệnh viện trong cả nước mang 
lại hiệu quả giảm đau tốt. Phương pháp giảm 
đau QLB là một phương pháp giảm đau mới, kĩ 
thuật cao tuy nhiên cũng đã được chứng minh 
hiệu quả giảm đau qua nhiều nghiên cứu. 
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng 
tôi đều ở độ tuổi sinh đẻ từ 22 đến 45 tuổi, các 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
59TCNCYH 123 (7) - 2019
chỉ số nhân trắc và sản khoa là tương đồng 
nhau. Các yếu tố liên quan đến gây mê và phẫu 
thuật cũng tương tự nhau, p > 0,05.
Thời gian thực hiện thành công việc đặt 
Catheter vào cơ vuông thắt lưng 2 bên trung 
bình là 28,67 ± 8,19 phút dài hơn vào khoang 
NMC trung bình là 8,07 ± 2,27 phút, sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), tỉ lệ thành 
công thủ thuật là 100% ở cả 2 nhóm. Sự khác 
biệt này là do phương pháp QLB phải thưc hiện 
ở cả 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm nên 
mất nhiều thời gian hơn cho việc chuẩn bị, tư 
thế, vô khuẩn. 
Nhìn chung tại các thời điểm sau mổ, điểm 
VAS nghỉ ở nhóm QLB cao hơn nhóm NMC, 
nhưng đều dưới 4, không có sự khác biệt giữa 
hai nhóm (p > 0,05). Như vậy, sau khi bơm 
thuốc tê 100% các bệnh nhân hầu như không 
cảm thấy đau đớn khi ở trạng thái tĩnh. Điểm 
VAS trung bình khi vận động ở nhóm QLB và 
nhóm NMC tại các thời điểm có cao hơn so với 
lúc nghỉ nhưng cũng vẫn đều nhỏ hơn 4. Sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Điều này 
cho thấy gây tê mặt phẳng cơ vuông thắt lưng 
dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm 
đau sau mổ tốt cả khi nghỉ và khi vận động, 
hiệu quả giảm đau này tương đương với hiệu 
quả giảm đau của gây tê NMC. Kết quả này phù 
hợp với kết quả nghiên cứu của một số tác giả 
khác trên thế giới. 
Năm 2016 Aditianingsih và cộng sự đã tiến 
hành thử nghiệm lâm sàng so sánh hiệu quả 
giảm đau sau mổ cắt thận nội soi giữa phương 
pháp QLB và phương pháp ngoài màng cứng 
cho thấy không có sự khác biệt về thang điểm 
đánh giá đau NRS 24 giờ đầu sau mổ [9]. 
Năm 2015 Blanco tiến hành nghiên cứu trên 
50 sản phụ: Các đối tượng tham gia nghiên cứu 
được chỉ định ngẫu nhiên để nhận được một 
QLB (n = 25) với liều 0,125% bupivacaine 0,2 
ml/kg hoặc QLB (n = 25) với 0,9% nước muối 
bình thường 0,2 ml/kg và đưa ra kết luận: Sử 
dụng QLB sau khi sinh mổ mang lại hiệu quả 
giảm đau tốt [10].
Tác giả Blanco năm 2016 tiếp tục tiến hành 
nghiên cứu 76 bệnh nhân sinh mổ dưới gây tê 
tủy sống để nhận được QLB hoặc TAP để giảm 
đau sau phẫu thuật. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 
bệnh nhân trong nhóm QLB sử dụng morphin 
ít hơn đáng kể so với nhóm TAP trong 48 giờ 
sau mổ. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả 
trong nghiên cứu của chúng tôi. Phương pháp 
QLB mang lại kết quả giảm đau tốt cho các 
bệnh nhân mổ lấy thai và làm giảm đáng kể 
lượng morphin tiêu thụ 48h sau mổ [11]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ 
bệnh nhân phải cần đến hỗ trợ của morphin ở 
nhóm QLB nhiều hơn nhóm NMC (17,8% so 
với 11,1%), tuy nhiên lượng morphin tiêu thụ 
này thấp hơn hẳn so với lượng morphin trong 
nghiên cứu của các tác giả Blanco R là 25 mg 
hay tác giả Mieszkowski MM là 41,77 mg [10; 
12]. Lượng morphin tiêu thụ trung bình ở 2 
nhóm là 1,0 ± 0,53 mg ở nhóm QLB và 0,7 ± 
0,27 mg ở nhóm NMC, không có sự khác biệt 
giữa hai nhóm (p > 0,05). Kết quả này cũng 
tương tự với kết quả của một số tác giả như 
Mieszkowski MM hay Blanco R đều chỉ ra rằng 
gây tê cơ vuông thắt lưng làm giảm lượng 
morphin tiêu thụ [10; 12].
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các 
bệnh nhân ở cả 2 nhóm QLB và NMC khi khảo 
sát đều phản ánh kết quả ở 2 mức độ hài lòng 
và rất hài lòng, không có trường hợp nào bệnh 
nhân không hài lòng.
Mức độ hài lòng phụ thuộc vào hiệu quả 
giảm đau cũng như các tác dụng không mong 
muốn. Ở nhóm QLB, tỷ lệ bệnh nhân có mức 
độ thỏa mãn từ hài lòng trở lên là 100% (rất hài 
lòng 90% và hài lòng 10%). Gây tê QLB mang 
lại sự rất hài lòng cao (90%) cho các bệnh nhân 
sau mổ lấy thai. Không có bệnh nhân nào yêu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
60 TCNCYH 123 (7) - 2019
cầu ngừng giảm đau sau mổ. Trong khi đó 
nhóm NMC có tỉ lệ rất hài lòng là 71% và hài 
lòng 29% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05.
V. KẾT LUẬN
Gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn 
của siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ 
lấy thai tương đương so với phương pháp giảm 
đau ngoài màng cứng. Điểm VAS khi nghỉ ngơi 
và khi vận động đều nhỏ hơn 4 ở cả 2 nhóm, 
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm trong 48h 
đầu sau mổ. Mức độ rất hài lòng của bệnh nhân 
ở nhóm QLB cao hơn nhóm NMC (90% so với 
71%).
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới 
các bệnh nhân cùng toàn thể nhân viên Khoa 
Gây mê - Hồi sức Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội 
đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện 
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Nhung (2014). Lợi ích và nguy cơ 
của mổ lấy thai. Thời sự Y học, 23 - 25.
2. Welchek C.M., Mastrangelo L., Sinatra 
R.S. et al (2009). Qualitative and Quantitative 
Assessment of Pain. Acute Pain Management, 
Cambridge University Press, Cambridge, 147-
171.
3. Nguyễn Quốc Kính (2016). Mức độ và 
thời gian đau theo phẫu thuật. Giảm đau sau 
mổ, 14.
4. Richez B., Ouchchane L., and Guttmann 
A. (2015). The Role of Psychological Factors 
in Persistent Pain After Cesarean Delivery. J 
Pain, 16(11), 1136 - 1146.
5. Hariharan U. (2017). Rectus sheath 
and Transversus abdominis plane block for 
postoperative pain relief following Cesarean 
delivery, <
ebooks/major-regional-obstetric-anesthesia/
index.php>.
6. Zhirajr M., Giovanni V. and Amedeo 
C. (2011). Obstetric and Gynecologic Surgery. 
Ultrasound Blocks for the Anterior Abdominal 
Wall, Flying Publisher, 75 - 77.
7. Carney J., Finnerty O., Rauf J. et 
al (2011). Studies on the spread of local 
anaesthetic solution in transversus abdominis 
plane blocks. Anaesthesia, 66 (11), 1023 - 
1030.
8. Terheggen M. A., Wille F., Rinkes I. H. B. 
et al (2002). Paravertebral blockade for minor 
breast surgery. Anesthesia & Analgesia, 94 
(2), 355 - 359.
9. Aditianingsih D., Naufal A., and 
Aida R.T. (2019). Comparison of quadratus 
lumborum versus continuous epidural block 
for laparoscopic donor nephrectomy: analysis 
of postoperative analgesia and motoric ability. 
Journal of Physics: Conference Series, 1(1246). 
IOP Publishing.
10. Blanco R., Ansari T. and Girgis 
E. (2015). Quadratus lumborum block for 
postoperative pain after caesarean section: a 
randomised controlled trial. European Journal 
of Anaesthesiology (EJA), 32 (11), 812 - 818.
11. Blanco R., Ansari T., Riad W. et al 
(2016). Quadratus lumborum block versus 
transversus abdominis plane block for 
postoperative pain after cesarean delivery: a 
randomized controlled trial. 
12. Mieszkowski M.M. (2018). Evaluation of 
the effectiveness of the Quadratus Lumborum 
Block type I using ropivacaine in postoperative 
analgesia after a cesarean section - a controlled 
clinical study. Ginekologia polska, 89(2), 89 - 
96.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
61TCNCYH 123 (7) - 2019
Summary
EVALUATE THE PAIN RELIEF EFFECTS AFTER CESAREAN 
DELIVERY BY ULTRASOUND - GUIDED QUADRATUS 
LUMBORUM BLOCK
The purpose of this study is to evaluate the pain relief effect after ceasarean delivery by Ultrasound 
- guided Quadratus Lumborum Block (QLB). Sixty patients who underwent caesarean delivery under 
spinal anaesthesia were allocated randomly to receive bilateral Quadratus Lumborum Block under 
ultrasound guidance (group QLB, n = 30) or epidural (n = 30). We recorded pain scores at rest and 
during activity, morphine consumption and overall patient satisfaction. There was no difference in VAS 
scores at rest and activity after cesarean section in QLB group and epidural group ( less than 4 ). There 
was no difference in total morphine comsumption between the 2 groups, the morphine consumption 
in Group QLB was 1.0 ± 0.53 mg, and in the epidural group was 0.7 ± 0.27 mg. Patient satisfaction 
with regard to pain relief was higher in QLB group (90% versus 71%). There were no dangerous 
complication of both methods. In conclusion, Ultrasound – guided QLB provided an equivalent level 
of pain relief and an increased level of satisfaction in patients when compared to epidural anesthesia.
Keywords: QLB, Caesarean delivery, spinal anaesthesia, morphine consumption, ultrasound

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_giam_dau_sau_mo_lay_thai_bang_phuong_phap_gay_te_co.pdf