Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật khớp gối

Nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng

dẫn siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối. 30 bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối được giảm

đau sau mổ bằng phương pháp gây tê ống cơ khép (OCK) liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại bệnh

viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 3 – 8 năm 2018. Thời gian thực hiện kĩ thuật, vùng phong bế cảm giác, điểm

đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ được ghi lại

trong 48 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 15,46 ± 4,51(phút). 100% có phong bế vùng

cảm giác thần kinh hiển, 66,7% TK mác nông, 53,3% TK chày và 20% TK mác sâu. Điểm VAS trung bình khi

nghỉ và khi gấp gối 45 độ ở tất cả các thời điểm đều ≤ 4. Có 1 bệnh nhân phải giải cứu bằng morphin với tổng

liều 23 mg và 96,7% bệnh nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng. Gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng

dẫn của siêu âm là một phương pháp giảm đau hiệu quả sau mổ cho các bệnh nhân phẫu thuật khớp gối

pdf 7 trang phuongnguyen 320
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật khớp gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật khớp gối

Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật khớp gối
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202056
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ 
ỐNG CƠ KHÉP LIÊN TỤC DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM Ở 
BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT KHỚP GỐI 
Vũ Hoàng Phương¹ , Trịnh Duy Hưng²
 ¹Khoa Gây mê hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
2Khoa Gây mê hồi sức – Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng 
dẫn siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối. 30 bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối được giảm 
đau sau mổ bằng phương pháp gây tê ống cơ khép (OCK) liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 3 – 8 năm 2018. Thời gian thực hiện kĩ thuật, vùng phong bế cảm giác, điểm 
đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ được ghi lại 
trong 48 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 15,46 ± 4,51(phút). 100% có phong bế vùng 
cảm giác thần kinh hiển, 66,7% TK mác nông, 53,3% TK chày và 20% TK mác sâu. Điểm VAS trung bình khi 
nghỉ và khi gấp gối 45 độ ở tất cả các thời điểm đều ≤ 4. Có 1 bệnh nhân phải giải cứu bằng morphin với tổng 
liều 23 mg và 96,7% bệnh nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng. Gây tê ống cơ khép liên tục dưới hướng 
dẫn của siêu âm là một phương pháp giảm đau hiệu quả sau mổ cho các bệnh nhân phẫu thuật khớp gối. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Gây tê ống cơ khép liên tục, giảm đau sau mổ, hướng dẫn của siêu âm, phẫu thuật khớp gối
Phẫu thuật khớp gối (PTKG) có mức độ đau 
sau mổ từ trung bình đến nặng, có thể dẫn đến 
các biến chứng như huyết khối tĩnh mạch sâu, 
chậm phục hồi chức năng khớp gối, kéo dài thời 
gian nằm viện và ảnh hưởng đến kết quả phẫu 
thuật của bệnh nhân sau mổ.1 Một phương 
pháp giảm đau lý tưởng cho các PTKG phải có 
chất lượng giảm đau hiệu quả, tạo thuận lợi cho 
phép bệnh nhân tập phục hồi chức năng sớm, 
vừa hạn chế được nhiều nhất các tác dụng 
không mong muốn của các phương pháp giảm 
đau khác như morphin tĩnh mạch, gây tê ngoài 
màng cứng (NMC).²
Gần đây các phương pháp gây tê thân thần 
kinh dưới hướng dẫn siêu âm đặc biệt là gây tê 
ống cơ khép (OCK) cho phép gây tê chọn lọc 
được nhánh cảm giác lớn nhất của thần kinh 
đùi (TK hiển) không những có tác dụng giảm 
đau tốt như phong bế thần kinh đùi, mà còn 
giúp bệnh nhân có thể tập vận động sớm, giúp 
hạn chế được các biến chứng và nhờ đó hiệu 
quả điều trị cao hơn.3-5 Ở Việt Nam, phương 
pháp này vẫn còn là một vấn đề mới, chưa có 
nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Vì thế, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu 
quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê 
ống cơ khép liên tục dưới hướng dẫn siêu âm ở 
bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tác giả liên hệ: Vũ Hoàng Phương, 
Khoa Gây mê hồi sức và Chống đau – Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 11/11/2019
Ngày được chấp nhận: 21/12/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 57
1. Đối tượng
Các bệnh nhân nghiên cứu có độ tuổi > 16, 
không có chống chỉ định gây tê vùng và có chỉ 
định phẫu thuật khớp gối theo chương trình tại 
khoa Gây mê hồi sức và chống đau - Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội từ tháng 2 - 8 năm 2018. Bệnh 
nhân bị loại trừ ra khỏi nghiên cứu bao gồm: 
nhiễm trùng tại vị trí chọc kim, tiền sử rối loạn 
tâm thần, khó khăn trong giao tiếp, bệnh nhân 
không hợp tác, bệnh nhân hoặc người giám hộ 
không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng 
cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu: Tất cả bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu 
chuẩn lựa chọn được thu thập trong khoảng 
thời gian nghiên cứu. 30 bệnh nhân được thực 
hiện với phương pháp gây tê trong ống cơ khép 
liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm 
Các bước tiến hành nghiên cứu: 
Chuẩn bị BN và phương tiện gây tê: BN 
được thăm khám trước mổ, giải thích về kỹ 
thuật gây tê, các biến chứng có thể xảy ra và ký 
giấy đồng ý tham gia nghiên cứu; được hướng 
dẫn cách đánh giá mức độ đau theo thang điểm 
VAS; máy siêu âmvới đầu dò phẳng có tần 5 
- 12 MHz của hãng GE Healthcare, kim gây tê 
thần kinh có luồn catheter, thuốc tê bupivacaine 
0,5% (Astra Zeneca) và các thuốc cấp cứu. 
Kĩ thuật gây tê OCK dưới hướng dẫn của 
siêu âm:
+ Xác định bên phẫu thuật, đánh dấu
+ Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa với khớp gối 
hơi co, chân hơi gập góc (tư thế chân ếch)
+ Đặt đầu dò vào mặt trước đùi bệnh nhân 
tại vị trí giữa nếp lằn bẹn và lồi cầu trong xương 
đùi. Tìm xương đùi (thường ở độ sâu 3~5cm), 
di chuyển đầu dò vào phía trong cho đến khi 
nhìn thấy bóng của cơ may.
Hình 1. Tư thế bệnh nhân và vị trí ống cơ khép
Hình 2. Hình ảnh đầu kim trong ống cơ khép trên siêu âm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202058
+ Vị trí đầu dò thích hợp là vị trí động mạch 
đùi bắt đầu đi ra phía sau vào lớp sâu hơn để 
tạo thành động mạch khoeo. Tại đó, cơ thẳng 
đùi nằm ở phía trước ngoài, cơ khép rộng nằm 
ở phía sau trong và cơ may nằm ở phía trong. 
+ Sử dụng kỹ thuật chọc kim dưới hướng 
dẫn của siêu âm (mặt phẳng in plane) đảm bảo 
chắc chắn nhìn thấy kim tại mọi thời điểm. Có 
thể chọc qua cơ may hoặc cơ rộng trong. Quan 
sát thấy sự lan tỏa của thuốc tê bao quanh ĐM 
đùi để đảm bảo đầu kim đã nằm bên trong ống 
cơ khép. Tiêm thuốc tê liều test bằng 20ml dung 
dịch lidocain 1%. Khâu cố định chân catheter, 
dán opsite. Đánh giá vùng phong bế cảm giác. 
+ Sau khi hết tác dụng của gây tê tuỷ sống 
và điểm VAS > 4, tiêm liều bolus bằng dung 
dịch bupivacain 0,1% - 20ml. Duy trì giảm đau 
bằng dung dịch bupivacain 0,1% 4- 8 ml/h, điều 
chỉnh theo điểm VAS. 
Tiêu chí đánh giá hiệu quả giảm đau sau 
mổ: 
- Thời gian thực hiện kĩ thuật
- Vùng phong bế cảm giác 
- Điểm đau VAS khi nghỉ ngơi và khi vận 
động tại các thời điểm.
- Mức độ hài hòng của bệnh nhân và lượng 
morphin tiêu thụ trong 48h.
- Các tác dụng không mong muốn: chọc vào 
mạch máu, tổn thương TK.
3. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0 Với 
các biến định lượng dùng thuật toán t - student. 
Với các biến định tính: χ² hoặc Fisher (nếu > 
10% số ô bảng 2 x 2 có tần suất lý thuyết < 5). 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua hội đồng 
nghiên cứu khoa học của Bộ môn Gây mê hồi 
sức – Trường Đại học Y Hà Nội, ban lãnh đạo 
khoa Gây mê hồi sức và chống đau – Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội. Hồ sơ và các thông 
tin liên quan chỉ được sử dụng cho mục đích 
nghiên cứu, không tiết lộ cho bất kì đối tượng 
không liên quan nào khác.
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm chung
Bảng 1. Phân bố đặc điểm chung 
Đặc điểm chung X ± SD
Tuổi (năm) 36,8 ± 15,4
Chiều cao (cm) 163,9 ± 8,8
Cân nặng (kg) 61,1 ± 9,6
BMI (kg/m2) 22,6 ± 2,4
Thời gian thực hiện (phút) 15,46 ± 4,51
Số lần chọc kim (lần) 1,06 ± 0,25
Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là khoảng 15 (phút) và hầu hết BN chỉ thực hiện 01 lần là 
thành công. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 59
Bảng 2. Phân loại phẫu thuật khớp gối
Loại phẫu thuật Số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%)
Tái tạo dây chằng chéo trước 17 56,7
Tái tạo dây chằng chéo sau 1 3,3
Tái tạo dây chằng chéo trước và sửa sụn chêm 6 20
Thay khớp gối 6 20
Tổng 30 100
Bệnh lý tổn thương DCCT (dây chằng chéo trước) chiếm đa số trong nghiên cứu (56,7 %) và 
đứng thứ 2 là phẫu thuật thay khớp gối chiếm tỉ lệ 20%.
2. Vùng phong bế cảm giác sau liều bolus đầu tiên
Biểu đồ 1. Phân bố vùng phong bế cảm giác nhóm OCK
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% BN đều phong bế được thần kinh hiển; 66,7% thần kinh 
mác nông; 20% thần kinh mác sâu và 53,3% thần kinh chày.
3. Điểm đau VAS khi nghỉ và gấp gối 45 độ
Biểu đồ 2. Điểm VAS khi nghỉ và khi gấp gối 45 độ
Tất cả BN trong nghiên cứu sau phẫu thuật (tại thời điểm H0) đều có mức độ đau trung bình trở 
lên (VAS > 4). Khi nghỉ, tại các thời điểm nghiên cứu trong 48 giờ sau mổ, điểm VAS trung bình chỉ 
ở mức độ đau ít (VAS < 3). Ở các thời điểm khi bệnh nhân tập gấp gối 45 độ, điểm VAS trung bình 
tại các thời điểm nghiên cứu đều giảm rõ rệt (VAS < 4) cho thấy hiệu quả giảm đau ở mức độ tốt.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202060
4. Mức độ hài lòng
Biểu đồ 3. Mức độ hài lòng của bệnh nhân
Hầu hết số BN trong nghiên cứu đều rất hài lòng hoặc hài lòng với phương pháp giảm đau phong 
bế OCK , chiếm tỉ lệ 96,7% và chỉ có 3,3 % (1 BN) không hài lòng.
5. Số lần bolus thuốc tê và lượng thuốc morphin tiêu thụ 
Bảng 3. Số lần bolus thuốc tê và lượng morphin tiêu thụ
Loại phẫu thuật Số bệnh nhân (n) X ± SD
Tái tạo DCCT (lần) 17 0,36 ± 0,82
Tái tạo DCCS (lần) 1 2
Tái tạo DCCT và sửa sụn chêm (lần) 6 1,5 ± 0,55
Thay khớp gối (lần) 6 4,17 ± 1,94
Lượng morphin tiêu thụ (mg) 1 22 
Nhóm thay khớp gối nhận trung bình nhiều lần bolus thuốc tê nhất 4,17 ± 1,94, sau đó đến nhóm 
DCCS và nhóm DCCT kết hợp với sửa sụn chêm. Chỉ có duy nhất 1 BN cần phải giải cứu bằng PCA 
morphin với lượng morphin tiêu thụ là 22mg trong 48 giờ sau mổ.
IV. BÀN LUẬN
Vùng phong bế cảm giác: Theo các nghiên 
cứu gần đây, gây tê OCK với lượng thể tích 
thuốc tê đủ, ngoài tác dụng làm đầy kênh, thuốc 
tê có thể đi qua vùng khoeo chân qua lỗ OCK 
để phong bế thần kinh hông to, hoặc các nhánh 
của thần kinh hông to như thần kinh chày và/ 
hoặc thần kinh mác. Tác giả Gofin và cộng sự 
đánh giá sự phân bố của thuốc tê sau khi tiêm 
20 ml dung dich ropivacain 0,1% và chất chỉ thị 
màu vào OCK trên 8 tử thi cho thấy có xuất hiện 
của chất chỉ thị màu liên hệ với thần kinh hông 
to, trong đó có 5/8 trường hợp thuốc nhuộm lan 
lên đoạn thần kinh hông to chưa phân nhánh, 
từ đó có thể phong bế được toàn bộ thần kinh 
hông to.6 Tương tự, Gautier và cộng sự cho 
thấy có 41% số BN đạt được phong bế thần 
kinh mác và 61% phong bế được thần kinh 
chày.7 Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% 
BN đều phong bế được vùng chi phối cảm giác 
của thần kinh hiển, 67,7% phong bế được thần 
kinh mác và 53,3% phong bế được thần kinh 
chày.
Điểm đau VAS khi nghỉ và khi gấp gối 45 độ: 
tại các thời điểm theo dõi trong 2 ngày sau mổ 
nội soi khớp gối, nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy trước khi tiêm thuốc tê ở cả 2 nhóm đều 
xuất hiện cảm giác đau ở mức độ trung bình 
đến đau nhiều khi nằm nghỉ: VAS tĩnh tại H0 
(5,27 ± 0,45). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
tương tự với Vũ Nguyễn Hà Ngân (5,13 ± 0,9).⁸ 
Ngay tại thời điểm 30 phút sau khi tiêm thuốc 
tê (H0,3), điểm VAS tĩnh giảm xuống còn 2,07 
± 0,94 và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 61
thời điểm H0 với (p < 0,05). Ở thời điểm H3, 
H6 cho đến H48 sau khi tiêm thuốc tê, điểm 
VAS tĩnh đều ở mức < 3 tương ứng với mức 
độ đau nhẹ hoặc gần như không đau. Khi đánh 
giá điểm đau ở trạng thái gấp gối 45 độ, điểm 
đau VAS có cao hơn so với VAS tĩnh ở cùng 
một thời điểm, điểm VAS động tại H0 là 5,97 
± 0,41. Sau 30 phút tiêm thuốc tê, điểm VAS 
động giảm xuống mức < 4 tương ứng mức độ 
đau nhẹ ( trung bình là 2,87 ± 0,86) và trong các 
thời điểm nghiên cứu khác trong 48h sau mổ 
điểm VAS động của nhóm nghiên cứu luôn < 4, 
giúp BN thuận lợi trong tập phục hồi chức năng 
sớm. Tác giả Davies và Kayupov cũng cho thấy 
kết quả tương tự so với nghiên cứu của chúng 
tôi.9, 10
Số lần bolus thuốc tê: Trong nghiên cứu 
của chúng tôi cho thấy, nhóm bệnh nhân thay 
khớp gối phải bolus thuốc tê nhiều lần nhất: 
4,17 ± 1,94 (lần); có 1 BN phẫu thuật tái tạo 
DCCS nhận 2 lần bolus, trong khi đó nhóm tái 
tạo DCCT hầu như không phải bolus thêm. Các 
phẫu thuật nội soi tái tạo dây chằng tác động 
đến gân cơ thon, cơ bán gân, gân hamstring, 
tạo đường hầm tại xương đùi, xương chày gây 
đau nhức nhiều cho BN sau mổ, nhất là khi 
vận động và trong phẫu thuật thay khớp gối, 
vùng tác động trên toàn bộ khớp nên mức độ 
đau là cao nhất. Với cách truyền liên tục thuốc 
tê qua catheter hầu như chỉ tác dụng gây tê 
đơn thuần thần kinh hiển mà không lan được 
qua hố khoeo xuống phong bế thần kinh hông 
to nên chỉ phù hợp cho các phẫu thuật tái tạo 
DCCT đơn thuần trong khi đó các phẫu thuật 
lớn như thay khớp gối toàn bộ cần bolus 1 thể 
tích đủ lớn để đạt được cả phong bế cho thần 
kinh hông to.⁷ Tuy nhiên trong nghiên cứu của 
chúng tôi, với cỡ mẫu rất nhỏ khi chia ra từng 
nhóm phẫu thuật, nên vẫn cần phải có những 
nghiên cứu riêng rẽ cho từng loại phẫu thuật để 
việc đánh giá được chính xác hơn.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
phương pháp gây tê OCK liên tục dưới hướng 
dẫn của siêu âm có hiệu quả tốt để giảm đau 
sau mổ cho các phẫu thuật khớp gối. Điều này 
thuận lợi cho bệnh nhân trong việc tập phục 
hồi chức năng sau mổ, giảm biến chứng và rút 
ngắn thời gian nằm viện cho bệnh nhân. 
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh 
nhân và gia đình bệnh nhân, các bác sĩ và điều 
dưỡng khoa Gây mê hồi sức và chống đau, 
khoa Ngoại Chấn thương chỉnh hình - Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội đã giúp tôi hoàn thành 
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fowler SJ, Symons J, Sabato S, 
Myles PS. Epidural analgesia compared 
with peripheral nerve blockade after major 
knee surgery: a systematic review and meta-
analysis of randomized trials. Br J Anaesth. 
2008;100(2):154-164.
2. Evans H, Steele SM, Nielsen KC, Tucker 
MS, Klein SM. Peripheral nerve blocks and 
continuous catheter techniques. Anesthesiol 
Clin North Am. 2005;23(1):141-162.
3. Hanson NA, Allen CJ, Hostetter LS, et 
al. Continuous ultrasound-guided adductor 
canal block for total knee arthroplasty: a 
randomized, double-blind trial. Anesth Analg. 
2014;118(6):1370-1377.
4. Sondekoppam RV, Ganapathy S. 
Analgesic efficacy of ultrasound-guided 
adductor canal blockade after arthroscopic 
anterior cruciate ligament reconstruction. Eur 
J Anaesthesiol. 2014;31(3):177-178.
5. Hanson NA, Derby RE, Auyong DB, et 
al. Ultrasound-guided adductor canal block 
for arthroscopic medial meniscectomy: a 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202062
randomized, double-blind trial. Can J Anaesth. 
2013;60(9):874-880.
6. Goffin P, Lecoq JP, Ninane V, et al. 
Interfascial Spread of Injectate After Adductor 
Canal Injection in Fresh Human Cadavers. 
Anesth Analg. 2016;123(2):501-503.
7. Gautier PE, Hadzic A, Lecoq JP, Brichant 
JF, Kuroda MM, Vandepitte C. Distribution 
of Injectate and Sensory-Motor Blockade 
After Adductor Canal Block. Anesth Analg. 
2016;122(1):279-282.
8. Ngân VNH. Đánh giá hiệu quả giảm đau 
sau phẫu thuật nội soi khớp gối của phương 
pháp gây tê thần kinh đùi và thần kinh hông 
to dưới hướng dẫn siêu âm. Luận văn tốt 
nghiệp thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà 
Nội. 2017.
9. Kayupov E, Okroj K, Young AC, et al. 
Continuous Adductor Canal Blocks Provide 
Superior Ambulation and Pain Control 
Compared to Epidural Analgesia for Primary 
Knee Arthroplasty: A Randomized, Controlled 
Trial. J Arthroplasty. 2018;33(4):1040-1044 
e1041.
10. A. F. Davies EPS, J. Murdoch et 
al. Epidural infusion or combined femoral 
and sciatic nerve blocks as perioperative 
analgesia for knee arthroplasty. Br J Anaesth. 
2004;93:368-374
Summary
POSTOPERATIVE ANALGESIC EFFICACY OF ULTRASOUND 
GUIDED CONTINUOUS ADDUCTOR CANAL BLOCKADE AT 
PATIENTS WITH KNEE SURGERY
To evaluate the effectiveness of postoperative analgesia continuous adductor canal block 
(ACB) under ultrasound guidance in patients with knee surgery. 30 patients with knee surgery 
were relieved of postoperative pain by using continuous adductor canal block (ACB) under 
ultrasound guidance at Hanoi Medical University Hospital from March - August 2018. Sensory 
blockade, VAS points at rest and during exercise, patient satisfaction and amount of morphine 
consumed were recorded in 48 hours postoperatively. The average time of procedure is 15.46 
± 4.51 (min). 100% had the blockade of saphenous nerve, 66.7% superficial fibular nerve, 
53.3% tibial nerve and 20% deep fibular nerve. Mean VAS scores at rest and knee flexion at 45 
degrees were below 4 points during 48 hours postoperative. There was one patient who had 
to be rescued with PCA morphin and 96.7% of patients have very satisfied and satisfied levels. 
Continuous adductor canal block is an effective postoperative analgesia for knee surgery patients.
Key words: Continuous adductor canal block, ultrasound guided, postoperative analgesia, 
knee surgery.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_giam_dau_sau_mo_cua_phuong_phap_gay_te_ong_co_khep.pdf