Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật TAP’Block có kiểm soát trong mổ sau phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ

Đặt vấn đề: TAP’Block là một kỹ thuật giảm đau sau phẫu thuật có hiệu quả ở bệnh

nhân phẫu thuật vùng bụng dưới. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng

ngẫu nhiên có đối chứng, mù đơn đánh giá hiệu quả giảm đau trong 48 giờ sau mổ của

kỹ thuật này trên những bệnh nhân phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ.

Phương pháp nghiên cứu: 85 sản phụ có vết mổ cũ được chỉ định mổ lấy thai được

chọn vào nghiên cứu phân chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: nhóm đối chứng thực hiện

kỹ thuật TAP’Block: 44 bệnh nhân và nhóm đối chứng: 41 bệnh nhân. Cả hai nhóm

trong mổ được vô cảm bằng tê tủy sống, cuối cuộc mổ nhóm can thiệp được thực hiện

kỹ thuật TAP’Block với 20ml bupivacain 0,5 % cho mỗi bên thành bụng. Bệnh nhân hai

nhóm được dùng thêm thuốc giảm đau paracetamol và diclofenac khi có nhu cầu. Tất cả

bệnh nhân được theo dõi, đánh giá tại các thời điểm: 3,6,9,12,18,24,36,48 giờ sau mổ

pdf 10 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật TAP’Block có kiểm soát trong mổ sau phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật TAP’Block có kiểm soát trong mổ sau phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ

Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật TAP’Block có kiểm soát trong mổ sau phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
81
Tóm tắt:
Đặt vấn đề: TAP’Block là một kỹ thuật giảm đau sau phẫu thuật có hiệu quả ở bệnh 
nhân phẫu thuật vùng bụng dưới. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng 
ngẫu nhiên có đối chứng, mù đơn đánh giá hiệu quả giảm đau trong 48 giờ sau mổ của 
kỹ thuật này trên những bệnh nhân phẫu thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ.
Phương pháp nghiên cứu: 85 sản phụ có vết mổ cũ được chỉ định mổ lấy thai được 
chọn vào nghiên cứu phân chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: nhóm đối chứng thực hiện 
kỹ thuật TAP’Block: 44 bệnh nhân và nhóm đối chứng: 41 bệnh nhân. Cả hai nhóm 
trong mổ được vô cảm bằng tê tủy sống, cuối cuộc mổ nhóm can thiệp được thực hiện 
kỹ thuật TAP’Block với 20ml bupivacain 0,5 % cho mỗi bên thành bụng. Bệnh nhân hai 
nhóm được dùng thêm thuốc giảm đau paracetamol và diclofenac khi có nhu cầu. Tất cả 
bệnh nhân được theo dõi, đánh giá tại các thời điểm: 3,6,9,12,18,24,36,48 giờ sau mổ. 
Kết quả: So với nhóm đối chứng, nhóm thực hiện kỹ thuật TAP’Block có điểm đau 
VAS sau mổ thấp hơn cả lúc nằm nghỉ và vận động. Tỷ lệ cần dùng thuốc giảm đau cũng 
ít hơn, không ghi nhận tai biến, biến chứng liên quan tới kỹ thuật TAP’Block.
Kết luận: TAP’Block có hiệu quả giảm đau tốt hơn so với nhóm đối chứng trong 48 
giờ sau mổ ở sản phụ có vết mổ cũ.
Từ khóa: TAP’Block, mổ lấy thai.
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA KỸ THUẬT TAP’BLOCK
CÓ KIỂM SOÁT TRONG MỔ SAU PHẪU THUẬT LẤY THAI Ở SẢN 
PHỤ CÓ VẾT MỔ CŨ
Bùi Công Đoàn*, Nguyễn Thị Phương Thảo*
(*) Bệnh viện Quân y 4
Người phản hồi (Corresponding): Bùi Công Đoàn (Email: [email protected])
Ngày nhận bài: 11/3/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/4/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2016
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 6 - 6/2016
82
THE ANALGESIC EFFICACY OF TRANSVERSUS ABDOMINIS PLANE 
(TAP) BLOCK AFTER CESAREAN DELIVERY FOR PREGNANCY WITH 
OLD-INCISION
Background: The transversus abdominis plane block (TAP) is an effective method 
of providing postoperative analgesia in patients undergoing lower abdominal surgery. 
We evaluated its analgesic efficacy over the first 48 postoperative hours after cesarean 
delivery incision for pregnancy with old-incision, in a randomized controlled, single-
blind, clinical trial.
Methods: 85 pregnancy with old-incision elective cesarean delivery were 
randomized to undergo TAP’Block group (n=44) versus control group (n =41). All 
patients received a standard spinal anesthetic, and at the end of surgery, a bilateral TAP 
Block was performed using 20ml bupivacain 0.25% on each side for intervention group. 
In addition to standard postoperative analgesia comprising regular paracetamol and 
diclofenac for both group. Each patient was assessed postoperatively by a investigator: 
in the postanesthesia care unit and at 3, 6, 9, 12, 18, 24, 36, and 48 h postoperatively.
Results: The TAP Block group compared with control group reduced postoperative 
visual analog scale pain scores at rest and movement. The incidence of analgesic drug 
was reduced in patients undergoing TAP Block. There were no complications attributable 
to the TAP Block.
Conclusions: The TAP Block provided superior analgesia when compared with 
control group up to 48 postoperative hours after elective cesarean delivery for pregnancy 
with old-incision.
Key word: TAP Block, cesarean delivery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau sau mổ là vấn đề khó chịu lớn 
nhất của bệnh nhân sau mổ. Đây cũng 
là yếu tố gây rối loạn trên hô hấp, tuần 
hoàn, ức chế miễn dịch, tăng đáp ứng 
viêm đối với bệnh nhân. Đối với phẫu 
thuật mổ lấy thai trên bệnh nhân có vết 
mổ cũ, đau càng trở nên nặng nề hơn 
vì bệnh nhân có hiện tượng tăng cảm 
đau do từng trải nghiệm ở lần mổ trước. 
Đau làm hạn chế vận động ảnh hưởng 
tới việc bài tiết sản dịch, làm sản phụ 
tăng nguy cơ nhiễm trùng hậu phẫu. 
Cần sử dụng các biện pháp giảm đau 
tốt để bớt cảm giác khó chịu cho bệnh 
nhân và giảm biến chứng sau mổ. Dùng 
thuốc giảm đau cho sản phụ bên cạnh 
tác dụng phụ trên mẹ còn ảnh hưởng 
tới con do thuốc có thể bài tiết qua 
sữa. Để khắc phục những vấn đề nêu 
trên có nhiều kỹ thuật giảm đau được 
sử dụng như gây tê ngoài màng cứng 
truyền thuốc tê liên tục hoặc tê thấm 
tại vết mổ. TAP’Block (Transversus 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
83
abdominis plane – TAP block) là một 
kỹ thuật giảm đau cho phẫu thuật vùng 
bụng phát triển từ năm 2001 sau khi 
Rafi[4] nghiên cứu đặc điểm giải phẫu 
của sự phân bố thần kinh chi phối cảm 
giác ở thành bụng. Bản chất kỹ thuật là 
tiêm một lượng thuốc tê vào mặt phẳng 
trước cơ ngang bụng, nơi có các nhánh 
thần kinh đi qua để phong bế cảm giác 
tại thành bụng trước nơi có vết mổ gây 
đau. Trên thế giới có một số tác giả đã 
áp dụng kỹ thuật này, song ở Việt Nam 
chỉ có rất ít tác giả sử dụng và chưa 
công bố rộng rãi.
Giảm đau sau mổ bằng TAP’Block 
cho mổ vùng bụng thực hiện theo kỹ 
thuật chọc mù hoặc dưới hướng dẫn 
siêu âm. Chọc kim mù có thể xảy ra 
tai biến mà nghiêm trọng nhất là chọc 
xuyên thành bụng làm thủng các tạng 
trong ổ bụng gây chảy máu hoặc viêm 
phúc mạc. Siêu âm là công cụ hữu hiệu 
giúp hướng dẫn làm TAP’Block có hiệu 
quả song đòi hỏi đầu tư trang bị rất tốn 
kém, bác sỹ phải được đào tạo và có 
kiến thức về siêu âm. Chúng tôi tìm 
cách khắc phục những bất cập đã nêu 
bằng việc thực hiện kỹ thuật TAP’Block 
qua da với sự kiểm soát trong phúc mạc 
mổ tại thời điểm chuẩn bị kết thúc mổ 
mà không cần sử dụng siêu âm hướng 
dẫn. Từ giải pháp kỹ thuật này chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật 
TAP’Block có kiểm soát trong mổ sau phẫu 
thuật lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ.
Mục tiêu nghiên cứu:
- Xác định hiệu quả giảm đau sau 
mổ lấy thai ở sản phụ có vết mổ cũ có 
và không thực hiện TAP’Block thông 
qua:
+ Thang điểm đau hiển thị số do 
bệnh nhân tự đánh giá VAS (visual 
analogue scale) tại các thời điểm: 3 giờ, 
6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 18 giờ, 24 giờ, 36 
giờ, 48 giờ sau mổ lúc nằm nghỉ và vận 
động.
+ So sánh mức độ đau của bệnh 
nhân giữa lần mổ hiện tại với lần mổ 
trước.
+ So sánh số lượng thuốc giảm đau 
cần sử dụng.
- Xác định mức độ an toàn của kỹ 
thuật TAP’Block qua các thông số:
+ Mạch, huyết áp trung bình, nhịp 
thở, SpO2 mỗi 15 phút trong vòng 4 giờ 
kể từ lúc gây tê.
 + Tai biến, biến chứng khi tiến 
hành kỹ thuật: chọc vào mạch máu, ngộ 
độc thuốc tê.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Sản phụ có vết mổ cũ nhập khoa Dịch 
vụ y tế- Sản khoa Bệnh viện Quân y 4 để 
phẫu thuật lấy thai, phân độ gây mê ASA I- 
II, không bị rối loạn đông máu, không có 
bệnh lý gan thận, không có chống chỉ định 
gây tê, đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Dị ứng, mẫn cảm hoặc có chống chỉ 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 6 - 6/2016
84
định với các thuốc sử dụng trong nghiên 
cứu.
- Xảy ra tai biến, biến chứng không 
liên quan đến gây mê, gây tê trong 48 giờ 
sau mổ. 
2. Phương pháp nghiên cứu
 Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng 
ngẫu nhiên có nhóm đối chứng, mù đơn.
Bệnh nhân trong nghiên cứu phân 
chia thành hai nhóm theo phương pháp 
bốc thăm ngẫu nhiên từ phong bì kín:
- Nhóm 1 (can thiệp) thực hiện kỹ 
thuật TAP’Block.
- Nhóm 2 (đối chứng) không thực hiện 
kỹ thuật TAP’Block.
3. Các chỉ tiêu nghiên cứu:
- Đặc điểm bệnh nhân: tuổi, chiều cao, 
cân nặng, phân độ gây mê theo ASA, thời 
gian phẫu thuật.
- Điểm đau VAS tại các thời điểm sau 
mổ 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 18 giờ, 24 
giờ, 36 giờ, 48 giờ lúc nằm nghỉ và vận 
động ở hai nhóm bệnh nhân.
- Mức độ đau của bệnh nhân so với 
lần mổ trước theo mức: nhiều hơn, như 
nhau, ít hơn, hỏi khi bệnh nhân ra viện ở 
hai nhóm bệnh nhân.
- Số loại thuốc giảm đau sử dụng trong 
48 giờ sau mổ ở hai nhóm bệnh nhân.
- Mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO
2 
mỗi 
15 phút trong vòng 3 giờ từ lúc bắt đầu 
tiến hành kỹ thuật TAP’Block và thời gian 
tương ứng ở nhóm đối chứng.
- Tỷ lệ tai biến, biến chứng khi tiến 
hành kỹ thuật: chọc kim vào mạch máu, 
ngộ độc thuốc tê.
4. Chuẩn bị bệnh nhân, thuốc, 
phương tiện.
- Giải thích về kỹ thuật, các tai biến, 
biến chứng, tác dụng phụ có thể xảy ra của 
kỹ thuật TAP’Block.
- Bệnh nhân sau khi được giải thích, 
nếu đồng thuận sẽ ký các cam kết cần thiết.
- Phương tiện và các thuốc dùng trong 
gây mê hồi sức.
- Phương tiện theo dõi: điện tim 
(ECG), độ bão hòa oxy máu ngoại vi 
(SpO
2
), mạch, huyết áp động mạch không 
xâm lấn.
- Kim gây tê đầu tù 22G có nòng dài 
100mm, bơm tiêm 20 ml.
- Thuốc tê: bupivacaine 0,5% (Marcain 
0,5% 20 ml, Astra Zeneca), nước cất vô 
trùng.
- Tất cả bệnh nhân ở hai nhóm nghiên 
cứu được vô cảm bằng gây tê tủy sống với 
bupivacain tỷ trọng cao, liều thuốc vô cảm 
tính theo biểu đồ Harten.
5. Mô tả kỹ thuật TAP’Block có 
kiểm soát trong mổ:
Kỹ thuật thực hiện trên nhóm 1 với 
trình tự như sau:
- Sản phụ sau khi lau ổ bụng, trước 
khi đóng phúc mạc được bác sỹ gây mê 
hoặc phẫu thuật viên tiến hành kỹ thuật 
TAP’Block.
- Chọc kim gây tê 22 G qua da tương 
ứng với đường nách trước hướng kim từ 
trước về sau, nghiêng 150 so với bình diện 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
85
của thành bụng về đường nách giữa tới 
trung điểm của đoạn nối điểm cao nhất bờ 
trên cánh chậu và điểm thấp nhất của bờ 
sườn. Một tay bác sỹ gây mê hoặc phẫu 
thuật viên đi theo đầu kim tương ứng ở 
phía trong thành bụng để kiểm soát kim 
không xuyên qua phúc mạc vào ổ bụng. 
Đi kim chậm, sẽ thấy hai lần có cảm giác 
“sựt” khi kim đi qua cơ chéo bụng ngoài 
và cơ chéo bụng trong. Ngay sau khi có 
cảm giác “sựt” lần thứ hai, tức là đầu kim 
đã ở mặt trước cơ ngang bụng, dừng đi 
kim, lắp bơm tiêm chứa 20ml bupivacain 
0,25%. Hút thử nếu không có máu, tiến 
hành tiêm hết thuốc tê theo đúng quy trình, 
thấy nhẹ và dễ dàng là đúng vị trí. Làm 
thao tác tương tự với bên còn lại.
Các thuốc giảm đau sau mổ ở hai nhóm 
bệnh nhân cho theo trình tự: không đau 
không dùng thuốc, đau cho paracetamol 
1g truyền TM mỗi 8 giờ, truyền hết thuốc 
sau 10 phút còn đau cho thêm diclofenac 
75mg TB, sau 30 phút nếu bệnh nhân vẫn 
đau nhiều thêm morphin 0,04mg/ kg TM.
6. Thu thập và xử lý số liệu:
Các chỉ số nghiên cứu được thu thập 
qua bệnh án mẫu.
Xử lý số liệu theo phương pháp thống 
kê y học trên phần mềm thống kê SPSS 
16.0 for Windows.
KẾT QUẢ
Từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 2 năm 
2016, tại khoa Dịch vụ y tế- Sản khoa, 
Bệnh viện Quân y 4 chúng tôi thu nhận 
vào nghiên cứu 85 sản phụ mổ lấy thai lần 
2-3 có vết mổ cũ, nhóm 1: 44 bệnh nhân, 
nhóm 2: 41 bệnh nhân.
So sánh giữa bệnh nhân nhóm thực 
hiện kỹ thuật giảm đau TAP’Block và 
không thực hiện kỹ thuật không ghi nhận 
sự khác biệt về tuổi, chiều cao, cân nặng, 
ASA, số lần mổ lấy thai (kể cả lần hiện 
tại), thời gian phẫu thuật (bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm chung hai nhóm nghiên cứu.
Chỉ số
Nhóm 1
n= 44
Nhóm 2
n=41
P
Tuổi (năm)* 27,8 ± 8,2 28,3 ± 7,9 0,49
Chiều cao (cm)* 153,2 ± 7,6 153,8 ± 9,1 0,37
Cân nặng (kg)* 56,3 ± 4,9 56,1 ± 5,2 0,43
ASA** I 41 39
0,7II 3 2
Phẫu thuật lấy thai** Lần 2 39 38
0,52
Lần 3 5 3
Thời gian phẫu thuật 47,3 ± 8,4 46,8 ± 7,6 0,39
 *: trung bình ± độ lệch chuẩn. **: số trường hợp.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 6 - 6/2016
86
Điểm đau VAS sau mổ của nhóm 
1 thấp hơn đáng kể so với ở nhóm 2 
cả khi nằm nghỉ và khi vận động, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê tại tất 
cả các thời điểm theo dõi. Trong vòng 
24 giờ sau mổ, những bệnh nhân được 
thực hiện TAP’Block khi nằm nghỉ có 
mức đau nhẹ (VAS trung bình từ 1,8 
đến 2,6) trong đó ở nhóm không thực 
hiện kỹ thuật này bệnh nhân đau ở mức 
độ vừa (VAS từ 3,7 đến 4,2). Khi vận 
động điểm đau VAS trung bình của 
nhóm thực hiện TAP’Block cao nhất là 
4,1 trong khi đó trị số này ở nhóm đối 
chứng là 5,6.
 Bảng 2: Điểm đau VAS (TB±ĐLC) hai nhóm bệnh nhân sau mổ.
Thời điểm sau mổ Nhóm 1 Nhóm 2 P
3 giờ
Nằm nghỉ 2,5±1,6 3,7±1,9 <0,001
Vận động 4,1±1,9 5,4±2,1 0,0014
6 giờ
Nằm nghỉ 2,6±1,5 4,2±1,8 <0,001
Vận động 3,3±2,2 5,6±1,9 <0,001
9 giờ
Nằm nghỉ 2,5±1,4 4,1±1,7 <0,001
Vận động 3,6±1,9 5,3±1,8 <0,001
12 giờ
Nằm nghỉ 2,2±1,3 4,2±2,0 <0,001
Vận động 3,3±1,7 5,2±1,9 <0,001
18 giờ
Nằm nghỉ 1,9±1,3 3,9±1,6 <0,001
Vận động 3,1±1,5 5,0±1,8 <0,001
24 giờ
Nằm nghỉ 1,8±1,1 3,7±1,5 <0,001
Vận động 2,9±1,7 4,4±1,6 <0,001
36 giờ
Nằm nghỉ 1,9±1,2 2,9±1,8 0,0014
Vận động 2,5±1,6 4,0±2,0 <0,001
48 giờ
Nằm nghỉ 1,4±1,1 2,5±1,6 <0,001
Vận động 2,2±1,4 3,4±1,5 <0,001
Biểu đồ 1: điểm VAS khi nằm nghỉ. Biểu đồ 2: điểm VAS khi vận động.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
87
 Có 29,6% bệnh nhân ở nhóm thực hiện kỹ thuật TAP’Block không cần dùng thuốc 
giảm đau bổ sung, trong đó nhóm đối chứng tất cả bệnh nhân đều cần ít nhất một loại 
thuốc giảm đau. Tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm thực hiện kỹ thuật TAP’Block phải dùng 
hai loại thuốc giảm đau chỉ có 13,6% thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ 68,3% ở nhóm đối 
chứng.
Đa số bệnh nhân khi ra viện có cảm 
giác ít đau hơn lần mổ trước ở nhóm thực 
hiện kỹ thuật TAP’Block với tỷ lệ 86,4% 
(38/44 BN), trong khi đó ở nhóm không 
thực hiện kỹ thuật chỉ có 4,9% bệnh nhân 
ít đau hơn (2/41 BN).
Các chỉ số mạch, huyết áp, nhịp thở, 
SpO
2 
mỗi 15 phút trong vòng 3 giờ từ lúc 
bắt đầu tiến hành kỹ thuật TAP’Block ở 
nhóm can thiệp không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng ở 
cùng thời điểm.
Kỹ thuật TAP’Block chọc kim qua da 
có kiểm soát phúc mạc ngay trong mổ rất 
dễ thực hiện. Với phẫu thuật viên hoặc bác 
sỹ gây mê chúng tôi chỉ cần trao đổi kỹ 
về nguyên lý, hướng dẫn thực hành 2-3 
lần đã có thể thực hiện thành thục kỹ thuật 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 6 - 6/2016
88
này, thời gian tiến hành kỹ thuật chỉ mất 
2-3 phút không làm kéo dài thời gian phẫu 
thuật.
Chúng tôi không bắt gặp bất kỳ tai 
biến, biến chứng nào ở 44 bệnh nhân nhóm 
can thiệp trong quá trình tiến hành kỹ thuật 
TAP’Block như: chọc kim vào mạch máu, 
ngộ độc thuốc tê. Với sự kiểm soát trong 
phúc mạc bởi người thực hiện thủ thuật 
gần như bảo đảm chắc chắn kim gây tê 
không đâm vào các tạng trong ổ bụng.
Ngoài ra, chúng tôi cũng không nhận 
thấy có sự khác biệt ở hai nhóm nghiên 
cứu về những tác dụng phụ khi gây tê tủy 
sống trong và sau mổ: bí tiểu, buồn nôn, 
đau đầu.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi có thiết 
kế theo dạng thử nghiệm lâm sàng ngẫu 
nhiên có nhóm chứng, mù đơn thực hiện 
trên đối tượng bệnh nhân thuần nhất được 
mổ lấy thai từ lần thứ hai trở đi. Những 
bệnh nhân tham gia nghiên cứu không biết 
mình thuộc nhóm can thiệp hay nhóm đối 
chứng. Điểm đau VAS thu được từ cảm 
nhận của bệnh nhân có giá trị tương đối 
khách quan để đánh giá mức độ đau sau 
mổ. Những vấn đề đó đã góp phần loại bớt 
ảnh hưởng của các yếu tố gây nhiễu khi 
tiến hành nghiên cứu.
Điểm đau VAS ở nhóm thực hiện kỹ 
thuật TAP’Block thấp hơn rõ rệt so với 
nhóm bệnh nhân dùng thuốc giảm đau 
thông thường ở cả lúc nghỉ và vận động, 
điều này cho thấy hiệu quả giảm đau tốt của 
kỹ thuật. Baaj[2] cũng đưa ra những nhận 
xét như vậy khi thực hiện TAP’Block dưới 
hướng dẫn của siêu âm và so sánh giữa hai 
nhóm bệnh nhân có và không thực hiện kỹ 
thuật này đối với các trường hợp mổ lấy 
thai. Tại các thời điểm trong vòng 24 giờ 
sau mổ khi bệnh nhân nằm nghỉ tác giả có 
kết quả tương đương nghiên cứu của chúng 
tôi. Có sự khác biệt trong nghiên cứu này 
đó là điểm đau VAS tại thời điểm 24 giờ 
sau mổ ở nhóm can thiệp là 3,5 và nhóm 
đối chứng là 7,6; cao hơn khá nhiều so 
với chúng tôi. Tuy nhiên tác giả chỉ đánh 
giá điểm VAS khi vận động một lần duy 
nhất nên chúng tôi không lý giải cặn kẽ 
được sự chênh lệch này. Một tác giả khác, 
Srivastava[6] khi tiến thực hiện TAP’Block 
bằng kỹ thuật chọc mù cũng ghi nhận hiệu 
quả giảm đau tốt hơn so với dùng thuốc 
giảm đau nhóm opioid và NSAID cả khi 
bệnh nhân nghỉ ngơi lẫn vận động.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ 
bệnh nhân trong nhóm thực hiện kỹ thuật 
TAP’Block cần dùng 2 loại thuốc giảm 
đau chỉ có 13,6% thấp hơn đáng kể so với 
tỷ lệ 68,3% ở nhóm đối chứng. Abdallah[1] 
và cộng sự trong nghiên cứu phân tích 
tổng hợp (meta-analysis) năm 2013 với 
641 bệnh nhân từ 12 nghiên cứu thử 
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng 
đã cho thấy bằng chứng rõ ràng về hiệu 
quả giảm đau của TAP’Block so với sử 
dụng thuốc giảm đau thông thường. Nhiều 
nghiên cứu cũng ghi nhận nhóm thực hiện 
kỹ thuật TAP’Block có sự giảm rõ rệt về 
liều morphin cần dùng so với nhóm không 
thực hiện kỹ thuật này. Thuốc nhóm opioid 
đường toàn thân có khả năng bài tiết qua 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
89
sữa mẹ gây ảnh hưởng tới trẻ sơ sinh nên 
chúng tôi không lựa chọn dùng trừ khi quá 
cần thiết. Bên cạnh đó với những bệnh nhân 
mổ lấy thai từ lần thứ hai trở đi nếu trước 
đó đã từng dùng morphin, khi sử dụng ở 
lần sau thường phải tăng liều vì bệnh nhân 
có thể mắc chứng tăng cảm đau (neuralgia)
[5]. Trong nghiên cứu của mình chúng tôi 
chưa phải dùng tới morphin để giảm đau. 
Tuy nhiên, ở nhóm đối chứng đa số đều 
phải dùng tới 2 thuốc giảm đau phối hợp, 
chứng tỏ rằng cần thiết phải có một biện 
pháp tê vùng bổ sung để đạt được hiệu quả 
mong muốn. Với nghiên cứu này chúng 
tôi hy vọng về sau kỹ thuật TAP’Block 
sẽ thực hiện thường quy cho những bệnh 
nhân mổ lấy thai với vai trò độc lập hoặc 
bổ trợ trong giảm đau đa phương thức.
Mọi biện pháp giảm đau áp dụng đều 
đi đến vấn đề là sự thoải mái của bệnh nhân 
sau đó, chúng tôi đánh giá thêm hiệu quả 
của TAP’Block bằng cách khảo sát tại thời 
điểm có tính khách quan cao là lúc bệnh 
nhân ra viện. Để thực hiện điều này chúng 
tôi hỏi bệnh nhân về cảm giác đau giữa 
lần phẫu thuật trước so với lần phẫu thuật 
này với 3 lựa chọn: đau ít hơn, đau như 
nhau, đau nhiều hơn. Có tới 86,4% bệnh 
nhân ở nhóm can thiệp đau ít hơn so với 
lần mổ trước, trong đó chỉ 4,9% bệnh nhân 
ở nhóm đối chứng đau ít hơn. Trải nghiệm 
về đau là một ký ức xấu dễ gây tâm lý tăng 
đau và sợ đau cho bệnh nhân đã từng được 
phẫu thuật[5]. Đối với mổ lấy thai từ lần thứ 
hai trở đi việc bóc tách ảnh hưởng các tổ 
chức thành bụng, kích hoạt phản ứng viêm 
mạnh hơn, do đó về mặt thực thể gây đau 
hơn lần mổ trước. Sự chênh lệch về cảm 
giác của bệnh nhân bằng định tính về mức 
độ đau đã khẳng định giá trị của kỹ thuật 
TAP’Block trong thực tiễn. Tác giả Baaj[2] 
ghi nhận 89,5% bệnh nhân sau mổ được 
thực hiện kỹ thuật TAP’Block cảm thấy dễ 
chịu so với 55% của nhóm đối chứng.
Kỹ thuật TAP’Block thực hiện dưới 
hướng dẫn của siêu âm hiện đang được 
nhiều tác giả trên thế giới thực hiện. Tuy 
nhiên trong điều kiện khó khăn chung, 
các bệnh viện ở Việt Nam không phải 
ở đâu cũng được trang bị máy siêu âm 
chuyên dụng cho thực hiện các kỹ thuật 
tê vùng. Bên cạnh đó việc sử dụng siêu 
âm can thiệp cần phải được đào tạo và 
huấn luyện sử dụng thành thạo. Kỹ thuật 
TAP’Block chọc mù có nguy cơ làm tổn 
thương các tạng trong ổ bụng gây nguy 
hiểm cho bệnh nhân. Kỹ thuật TAP’Block 
chọc kim từ phúc mạc tới mặt trước cơ 
ngang bụng không có nhiều khoảng trống 
để điều chỉnh hướng kim tốt và khó xác 
định vị trí đầu kim[7]. Việc vận dụng kỹ 
thuật TAP’Block qua da với sự kiểm soát 
trong phúc mạc mổ tại thời điểm chuẩn 
bị kết thúc mổ là biện pháp ít tốn kém và 
có độ an toàn cao. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi không ghi nhân bất kỳ tai biến 
biến biến chứng nào liên quan tới kỹ thuật. 
Ngoài ra, có thể khẳng định rằng kỹ thuật 
rất dễ thực hiện, có thể triển khai cho phẫu 
thuật viên hoặc bác sỹ gây mê chưa từng 
làm bao giờ, chỉ cần nắm được nguyên lý 
của kỹ thuật và được hướng dẫn thực hành 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 6 - 6/2016
90
vài lần. Thuốc gây tê chúng tôi sử dụng 
liều đồng nhất cho tất cả bệnh nhân trong 
nhóm can thiệp là 40 ml bupivacain nồng 
độ 0,25%, ở mức thấp hơn so với nhiều 
tác giả khác[3]. Lượng thuốc dùng cho bệnh 
nhân thấp hơn liều cho phép (3mg/kg) và 
chưa bao giờ vượt quá 2mg/kg cân nặng, 
Tuy nhiên kết quả giảm đau tốt chứng tỏ 
liều như vậy là phù hợp. Không có sự khác 
biệt về sinh hiệu của bệnh nhân giữa nhóm 
can thiệp với nhóm đối chứng, và không 
xảy ra những tai biến, biến chứng của kỹ 
thuật cho thấy tính an toàn cao của biện 
pháp giảm đau này.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật TAP’Block qua da với sự 
kiểm soát trong phúc mạc mổ tại thời điểm 
chuẩn bị kết thúc mổ trên sản phụ mổ bắt 
con có vết mổ cũ đạt hiệu quả giảm đau tốt 
hơn so với sử dụng thuốc giảm đau toàn 
thân. Thể hiện qua: điểm đau VAS thấp 
hơn so với nhóm chứng cả khi nằm nghỉ 
và vận động, lượng thuốc giảm đau dùng 
ít hơn, bệnh nhân ít đau hơn so với lần mổ 
trước.
Kỹ thuật an toàn, dễ thực hiện và có 
thể triển khai rộng rãi, không xảy ra tai 
biến, biến chứng nếu tuân thủ đúng nguyên 
tắc và quy trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdallah F W, Laffey J G, Halpern 
S H, and Brull R (2013). “Duration of 
analgesic effectiveness after the posterior 
and lateral transversus abdominis plane 
block techniques for transverse lower 
abdominal incisions: a meta-analysis”. 
British Journal of Anaesthesia, 111 (5), pp: 
721–35.
2. Baaj JM, Alsatli RA, Majaj HA, 
Babay ZA, Thallaj AK (2010). “Efficacy of 
ultrasound guided transversus abdominis 
plane (TAP) block for postcesarean 
section delivery analgesia–a double-blind, 
placebo-controlled, randomized study”. 
Middle East J Anesthesiol, 20, pp: 821-6.
3. Fusco P (2015). “Transversus 
abdominis plane block for analgesia after 
Cesarean delivery. A systematic review”. 
Minerva Anestesiol, Vol. 81, pp:195-204.
4. Rafi AN (2001). “Abdominal field 
block: a new approach via the lumbar 
triangle”. Anaesthesia, 56, pp:1024 – 6.
5. Richez B, Ouchchane L, Guttmann 
A, et al (2015) “The Role of Psychological 
Factors in Persistent Pain After Cesarean 
Delivery”. The Journal of Pain, Volume 
16, Issue 11, November, pp: 1136–1146.
6. Srivastava U, et al (2015). “TAP 
block for postoperative analgesia in 
caesarean section”. Saudi Journal of 
Anesthesia, Vol. 9, Issue 3, pp: 298-302.
7. Wijewardana MGDG, Pathiraja 
R, Jayawardane MAMM (2014). “The 
Analgesic Efficacy of Transversus 
Abdominis Plane (TAP) Block after Total 
Abdominal Hysterectomy: A Randomized 
Controlled Trial”. Sri Lanka Journal of 
Obstetrics and Gynaecology, March, pp: 
5-10.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_giam_dau_cua_ky_thuat_tapblock_co_kiem_soat_trong_m.pdf