Hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone trên bệnh nhân HIV nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở HIV ngoại trú ở Hà Nội

Điều trị hỗ trợ bằng thuốc là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với nghiện chất dạng thuốc phiện. Theo

khuyến cáo của WHO và UNAIDS, điều trị lồng ghép nghiện chất và HIV nhằm tăng cường hiệu quả điều trị,

chúng tôi đã thực hiện việc lồng ghép điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Suboxone® (buprenorphine/

naloxone) tại một số cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Hà Nội. Bài viết này mô tả hiệu quả điều trị nghiện chất bằng

buprenorphine trên nhóm bệnh nhân HIV nghiện các chất dạng thuốc phiện tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú tại

Hà Nội. Sử dụng phương pháp thiết kế nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng tại 4 cơ sở điều trị HIV ngoại

trú ở Hà Nội từ năm 2016 đến 2019. Thông tin nghiên cứu thu thập qua phỏng vấn và xét nghiệm nước tiểu

được thực hiện 3 tháng một lần trong suốt 12 tháng theo dõi. Kết quả cho thấy tự báo cáo hành vi sử dụng chất

từ 100% giảm xuống 64,6% tại thời điểm 12 tháng. Kết quả phân tích xét nghiệm nước tiểu cho thấy sử dụng

heroin giảm từ 100% tại thời điểm ban đầu xuống 68,7%, 61,6%, 62,1% và 67,7% tại 3, 6, 9 và 12 tháng. Kết

quả phân tích mô hình hồi quy logistic hỗn hợp cho thấy bệnh nhân gặp vấn đề kỳ thị liên quan đến sử dụng chất

có khả năng kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính cao hơn (OR = 2,51; 95% KTC: 1,39 - 4,53). Lồng ghép

điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú giúp giảm sử

dụng heroin. Tuy nhiên, cần có các chiến lược hỗ trợ bệnh nhân giảm sử dụng chất và hỗ trợ tuân thủ điều trị

pdf 12 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone trên bệnh nhân HIV nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở HIV ngoại trú ở Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone trên bệnh nhân HIV nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở HIV ngoại trú ở Hà Nội

Hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone trên bệnh nhân HIV nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở HIV ngoại trú ở Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020262
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN 
BẰNG BUPRENORPHINE/NALOXONE TRÊN BỆNH NHÂN HIV 
NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN TẠI CƠ SỞ HIV 
NGOẠI TRÚ Ở HÀ NỘI
Đinh Thị Thanh Thúy¹, Vũ Minh Anh¹, Trần Hữu Bình¹, Tống Thị Khuyên¹ 
Phạm Quang Lộc¹, Todd Korthuis² và Lê Minh Giang¹, 
1Đại học Y Hà Nội, Việt Nam 
²Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon, Hoa Kỳ 
Điều trị hỗ trợ bằng thuốc là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với nghiện chất dạng thuốc phiện. Theo 
khuyến cáo của WHO và UNAIDS, điều trị lồng ghép nghiện chất và HIV nhằm tăng cường hiệu quả điều trị, 
chúng tôi đã thực hiện việc lồng ghép điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Suboxone® (buprenorphine/
naloxone) tại một số cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Hà Nội. Bài viết này mô tả hiệu quả điều trị nghiện chất bằng 
buprenorphine trên nhóm bệnh nhân HIV nghiện các chất dạng thuốc phiện tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú tại 
Hà Nội. Sử dụng phương pháp thiết kế nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng tại 4 cơ sở điều trị HIV ngoại 
trú ở Hà Nội từ năm 2016 đến 2019. Thông tin nghiên cứu thu thập qua phỏng vấn và xét nghiệm nước tiểu 
được thực hiện 3 tháng một lần trong suốt 12 tháng theo dõi. Kết quả cho thấy tự báo cáo hành vi sử dụng chất 
từ 100% giảm xuống 64,6% tại thời điểm 12 tháng. Kết quả phân tích xét nghiệm nước tiểu cho thấy sử dụng 
heroin giảm từ 100% tại thời điểm ban đầu xuống 68,7%, 61,6%, 62,1% và 67,7% tại 3, 6, 9 và 12 tháng. Kết 
quả phân tích mô hình hồi quy logistic hỗn hợp cho thấy bệnh nhân gặp vấn đề kỳ thị liên quan đến sử dụng chất 
có khả năng kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính cao hơn (OR = 2,51; 95% KTC: 1,39 - 4,53). Lồng ghép 
điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/naloxone tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú giúp giảm sử 
dụng heroin. Tuy nhiên, cần có các chiến lược hỗ trợ bệnh nhân giảm sử dụng chất và hỗ trợ tuân thủ điều trị. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Buprenorphine/naloxone, lồng ghép điều trị, HIV, nghiện chất dạng thuốc phiện
Nghiện các chất dạng thuốc phiện dẫn đến 
nhiều tác hại về sức khỏe thể chất và sức khỏe 
tâm thần, đặc biệt làm tăng nguy cơ lây nhiễm 
HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu.1 
Tại Việt Nam, tiêm chích ma túy là một trong 
những đường lây nhiễm HIV chính. Theo kết 
quả của chương trình giám sát trọng điểm HIV 
năm 2019 tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm 
tiêm chích ma túy là 12,78%.² Tiêm chích ma 
túy dẫn đến những tác động không mong muốn 
đối với việc tiếp cận và điều trị HIV như tiếp 
cận dịch vụ chăm sóc HIV muộn, giảm tuân thủ 
và duy trì điều trị ART, tăng tỷ lệ chết.³ Điều trị 
hỗ trợ bằng thuốc là phương pháp điều trị hiệu 
quả nhất đối với nghiện chất dạng thuốc phiện 
(CDTP). Các bằng chứng nghiên cứu trên thế 
giới cho thấy buprenorphine và methadone là 
hai liệu pháp điều trị hỗ trợ bằng thuốc được 
sử dụng phổ biến nhất để điều trị nghiện chất 
dạng thuốc phiện⁴ và cải thiện kết quả điều trị 
Tác giả liên hệ: Lê Minh Giang,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 30/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 263
và chăm sóc HIV.³
Buprenorphine bắt đầu được đưa vào điều 
trị nghiện CDTP từ 2002 ở Mỹ và năm 2005 
được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa vào 
danh mục thuốc thiết yếu.⁵ Trong khi methadone 
yêu cầu qui trình điều trị được giám sát khắt 
khe tại cơ sở điều trị nghiện chất chuyên biệt, 
bệnh nhân đi uống thuốc hàng ngày và tác 
động của tương tác thuốc giữa methadone và 
ART, buprenorphine có một số ưu điểm khác 
như an toàn do khả năng quá liều thấp, có thể 
uống cách ngày do thời gian bán hủy kéo dài, 
không tương tác với ART và cho phép bác sỹ có 
chứng chỉ hành nghề kê đơn và cung cấp điều 
trị.⁶ Với những ưu thế này, buprenorphine đã 
được lồng ghép điều trị tại các cơ sở y tế khác 
nhau như các phòng khám tư, hệ thống chăm 
sóc sức khỏe ban đầu và cơ sở điều trị HIV và 
trở thành phương án điều trị tối ưu cho những 
bệnh nhân không thể đi uống thuốc hàng ngày 
và bệnh nhân đang điều trị ARV.⁶ 
Tại Việt Nam, chương trình điều trị nghiện 
chất dạng thuốc phiện bằng methadone đã 
được triển khai ở Việt Nam từ năm 2008. Tính 
đến cuối năm 2019, đã có 335 cơ sở điều trị 
và gần 52200 bệnh nhân.² Lồng ghép điều trị 
nghiện chất và điều trị HIV là một chủ trương 
được tổ chức WHO và Chương trình phối 
hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS khuyến 
cáo áp dụng nhằm cải thiện kết quả điều trị 
nghiện chất và điều trị HIV.⁷ Lồng ghép điều 
trị nghiện chất và điều trị ARV đã được triển 
khai tại Việt Nam với nhiều mô hình lồng ghép 
với các mức độ khác nhau như cùng địa điểm 
cùng đội ngũ cán bộ y tế; cùng địa điểm nhưng 
khác cán bộ y tế; cùng cán bộ y tế nhưng khác 
địa điểm.8,9 Với mục tiêu tăng tiếp cận điều trị 
nghiện chất và đánh giá hiệu quả và mở rộng 
điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu lồng ghép điều trị nghiện 
CDTP bằng buprenorphine vào cơ sở điều trị 
HIV ngoại trú tại Hà Nội từ 2016 - 2019. Bài 
viết này đánh giá hiệu quả điều trị nghiện chất 
bằng buprenorphine trên nhóm bệnh nhân HIV 
nghiện các chất dạng thuốc phiện tại cơ sở điều 
trị HIV ngoại trú tại Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu thu nhận đối tượng là người 
nhiễm HIV (không quan tâm đến việc đã được 
điều trị HIV chưa) có nghiện chất dạng thuốc 
phiện. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh nhân được 
lựa chọn đáp ứng các tiêu chí sau: 1) Từ 18 
tuổi trở lên; 2) Được chuẩn đoán nghiện chất 
dạng thuốc phiện theo phân loại quốc tế bệnh 
học thần kinh (DSM V), và kết quả xét nghiệm 
nước tiểu dương tính với chất dạng thuốc phiện 
tại thời điểm đăng kí tham gia nghiên cứu; 3) 
Mong muốn được điều trị nghiện chất; 4) Muốn 
được hỗ trợ phòng tránh thai nếu là phụ nữ. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không được 
chọn tham gia nghiên cứu nếu có một trong 
các tiêu chí sau: 1) Bệnh nhân quá mẫn cảm 
với Buprenorphine hoặc Naloxone; 2) Chỉ số 
AST&ALT cao hơn giới hạn 5 lần; 3) Phụ nữ 
mang thai; 4) Được chẩn đoán mắc bệnh cơ 
thể hoặc tâm thần nghiệm trọng trong 30 ngày 
vừa qua (ví dụ: loạn thần) có thể khiến bệnh 
nhân gặp nguy hiểm khi tham gia nghiên cứu 
theo ý kiến của bác sỹ; 5) Điều trị duy trì bằng 
Methadone trong vòng 30 ngày trước nghiên 
cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu sử 
dụng thiết kế nghiên cứu can thiệp không có 
nhóm chứng. Nghiên cứu sử dụng biệt dược 
Suboxone® (Reckitt Benckiser) là thuốc kết 
hợp buprenorphine và naloxone theo tỷ lệ 4:1. 
Buprenorphine là chất đồng vận bán phần có 
ái lực gắn kết cao tại các thụ thể µu-opioid, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020264
đồng thời là chất đối vận với thụ thể kappa và 
denlta. Buprenorphine phân ly chậm khỏi thụ 
thể µu-opioid góp phần kéo dài hiệu quả của 
thuốc, và ít có tương tác thuốc với ARV và lao. 
Naloxone là chất đối khàng với CDTP, không 
có tác dụng khi dùng dưới lưỡi, được kết hợp 
với buprenorphine nhằm hạn chế nguy cơ sử 
dụng sai mục đích buprenorphine. Khi đủ liều, 
Suboxone® khóa tác động của CDTP ngoại 
sinh, vừa có khả năng giúp bệnh nhân giảm sử 
dụng ma túy vừa có tác dụng nhất định chống 
quá liều.10 Bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu 
sẽ được khám sàng lọc ban đầu và hỗ trợ thực 
hiện xét nghiệm cơ bản trước điều trị theo 
qui định. Khi đáp ứng đủ điều kiện lâm sàng, 
bệnh nhân sẽ được khởi liều điều trị nghiện 
chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine/
naloxone theo Hướng dẫn điều trị nghiện các 
CDTP bằng thuốc buprenorphine do Bộ Y tế 
ban hành.11
Thời gian nghiên cứu: Từ 9/2016 đến hết 
tháng 9/2019. Trong đó: Thời gian thu nhận đối 
tượng: từ 9/2016 – 9/2018. Thời gian theo dõi 
đối tượng nghiên cứu: từ 9/2016 – 9/2019
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu triển khai 
tại 4 phòng khám HIV ngoại trú tại Hà Nội: quận 
Đống Đa, quận Hoàng Mai, quận Nam Từ Liêm 
và quận Long Biên. Các phòng khám này đều 
có dịch vụ tư vấn, quản lý trường hợp, bộ phận 
xét nghiệm và dược, liên kết với các cơ sở 
tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV và có kinh 
nghiệm trong lồng ghép điều trị nghiện chất và 
điều trị HIV.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Để 
so sánh sự thay đổi của tỷ lệ dương tính với 
morphine tại baseline và sau 12 tháng, kiểm 
định chisquare McNermar được sử dụng. Cỡ 
mẫu vì thế được tính dựa theo công thức tính 
cỡ mẫu dành dánh cho chisquare McNermar:
n (OR 1) PD
(Z (OR 1) Z (OR 1) (OR 1) PD)2 2 21 1
2
2= -
+ + + - -- -ba
(Với OR = P10/P01 và PD = P10 + P01)
Các chỉ số chính như sau:
P10: tỷ lệ âm tính sau 12 tháng điều trị là 
57,6%.12
P01: tỷ lệ âm tính khi bắt đầu nghiên cứu là 
34,7%.13
Sai lầm loại I (α) được lấy 0,05
Sai lầm loại II (β) được lấy 0,2, lực của mẫu 
(1 - β) là 0,8.
Sử dụng phần mềm HSS 1.0 (
tk/), chúng tôi đã tính toán được cỡ mẫu cần 
cho nghiên cứu là 136.
Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được sử 
dụng trong nghiên cứu này. Nghiên cứu cứu 
tiến hành sàng lọc tất cả bệnh nhân hiện đang 
điều trị ARV và bệnh nhân đến đăng kí điều trị 
HIV tại 4 cơ sở triển khai nghiên cứu từ năm 
2016 – 2019. Nghiên cứu tuyển chọn được 141 
bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu, 
nhưng chỉ có 136 bệnh nhân đồng ý tham gia 
vào nghiên cứu và đến tham gia vào đánh giá 
ban đầu.
Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin: Mỗi 
đối tượng nghiên cứu được theo dõi trong thời 
gian 12 tháng và thông tin được thu thập thông 
qua phỏng vấn trực tiếp sử dụng bảng hỏi tại 4 
thời điểm: ban đầu, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 
12 tháng tham gia nghiên cứu. Các chỉ số chính 
đo lường hiệu quả điều trị là kết quả xét nghiệm 
nước tiểu và tự báo cáo hành vi sử dụng chất. 
Test xét nghiệm nước tiểu sẽ xác định hành vi sử 
dụng chất ma túy như morphine, amphetamines 
và methamphetamine tại thời điểm ban đầu, 3, 
6, 9 và 12 tháng tham gia nghiên cứu. Thông 
tin về hành vi sử dụng ma túy được phỏng vấn 
trực tiếp sử dụng thang đo ASI-Lite để tìm hiểu 
hành vi sử dụng chất trong 30 ngày qua và cả 
cuộc đời.14 Đồng thời tại các thời điểm đánh 
giá, thông tin về đặc điểm của người tham gia 
(như đặc điểm nhân khẩu, tình trạng việc làm 
và thu nhập, tiền sử sử dụng ma túy, tình trạng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 265
pháp lý và trải nghiệm cai nghiện), thông tin về 
hỗ trợ xã hội (sử dụng thang đo MSPSS),15 sức 
khỏe tâm thần (sử dụng thang đo DASS-21),16 
kỳ thị với sử dụng chất, kỳ thị với HIV và tình 
trạng HIV được thu thập thông qua phỏng vấn 
trực tiếp sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata/
MP 14.0. Thống kê mô tả được sử dụng để 
phân tích thông tin về đặc điểm nhân khẩu xã 
hội học của đối tượng tham gia nghiên cứu 
tại thời điểm ban đầu. Các thông tin tự báo 
cáo hành vi sử dụng và tỷ lệ dương tính với 
morphine/amphetamine/methamphetamine 
theo thời gian được xác định và đánh giá 
dựa vào phương pháp phân tích xu hướng 
Wilcoxone (Wilcoxone-type test for trend).17 Để 
xác định các yếu tố liên quan đến hiệu quả điều 
trị, chúng tôi xây dựng mô hình phân tích hồi 
qui logistic hỗn hợp (mixed-effect model) để mô 
hình hóa biến nhị phân là kết qủa xét nghiệm 
dương tính với morphine và đánh giá tương 
quan giữa các cá thể là do phép đo lặp lại theo 
thời gian. Sau khi phân tích mô hình đơn biến, 
các biến có mức tương quan p < 0,3 sẽ được 
đưa vào mô hình đa biến và các biến được xác 
định có mối liên quan đến hiệu quả điều trị từ 
tổng quan tài liệu được đưa vào mô hình phân 
tích.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức Nghiên 
cứu Y sinh học của Trường Đại học Y Hà Nội 
thông qua theo chứng nhận chấp thuận số 134 
ngày 29/10/2013. Đối tượng tham gia nghiên 
cứu hoàn toàn tự nguyện và không thu thập 
các thông tin định danh.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học xã hội của đối tượng tham gia nghiên cứu
Đặc điểm n = 136 %
Tuổi (Mean, SD) 38,08 ± 5,76 
Giới 
Nam 131 96,3
Nữ 5 3,7
Trình độ học vấn 
Dưới trung học phổ thông 72 52,9
Từ Trung học phổ thông trở lên 59 43,4
Cao đẳng/Đại học 5 3,7
Tình trạng hôn nhân 
Độc thân 60 44,1
Kết hôn 50 36,8
Ly dị/Ly thân 21 15,4
Góa 5 3,7
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020266
Đặc điểm n = 136 %
Đang sống cùng với ai 
Một mình 5 3,7
Sống cùng vợ/chồng/bạn tình 46 33,8
Bố mẹ/họ hàng/con cái 121 89,0
Anh/chị/em 11 8,0
Công việc hiện tại
Có 59 43,4
Không 77 56,6
Thu nhập tháng vừa qua 2,96 ± 3,33
Không có thu nhập 47 35,6
< 3 triệu 16 12,1
3 – 5 triệu 37 28,0
> 5 triệu 32 24,2
Đã từng bị bắt giam và kết án
Có 114 83,8
Không 22 16,2
Đã từng cai nghiện ở TT06
Có 87 64,0
Không 49 36,0
Tổng số năm sử dụng
< 5 năm 11 38,2
5 - 10 năm 52 53,7
> 10 năm 73 
Số năm phát hiện HIV (Mean, SD) 7,5 ± 5,5
Kết quả xét nghiệm CD4 (Mean, SD) 411,9 ± 216 
Kỳ thị liên quan sử dụng chất (Mean, SD) 2,0 ± 0,7 
Kỳ thị liên quan đến HIV (Mean, SD) 1,6 ± 0,8 
Hỗ trợ của xã hội (Mean, SD) 3,9 ± 0,7 
Nguy cơ sức khỏe tâm thần – lo âu
Mức độ bình thường và nhẹ 77 56,6
Mức độ vừa và nặng 59 43,4
Bảng 1 mô tả một số đặc điểm về nhân khẩu học, kinh tế và xã hội của đối tượng tham gia 
nghiên cứu. Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 38 ± 5,8 tuổi, chủ yếu là nam 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 267
giới (96,3%), và 52,9% đối tượng chưa học hết 
Trung học phổ thông, chỉ có hơn 3% đối tượng 
có trình độ trung cấp hoặc đại học. Tại thời 
điểm tham gia vào nghiên cứu, có 44,1% đối 
tượng nghiên cứu chưa từng kết hôn, gần 74% 
đối tượng nghiên cứu sống cùng với bố mẹ.
Trong số 136 đối tượng tham gia nghiên 
cứu, 43,4% có việc làm và 31,6% có mức thu 
nhập từ 3 triệu trở lên, tuy nhiên cũng có đến 
37,5% người tham gia không có thu nhập trong 
tháng vừa qua. Có 83,8% người tham gia đã 
từng bị bắt giam và kết án tù ít nhất 1 lần và 
64% báo cáo đã từng đi cai nghiện tại các trung 
tâm cai nghiện bắt buộc. Thời gian sử dụng 
heroin phần lớn dao động từ 5 năm đến trên 
10 năm, trong đó 53,7% báo cáo có thời gian 
sử dụng ma túy trên 10 năm. Thời gian phát 
hiện tình trạng nhiễm HIV trung bình là 7,5 ± 5,5 
năm và tại thời điểm tham gia nghiên cứu, mức 
CD4 trung bình là 411 ± 216 TB/mm³. Điểm kỳ 
thị liên quan đến vấn đề sử dụng chất trung 
bình là 2,0 ± 0,7, kỳ thị liên quan đến HIV là 1,6 
± 0,8 và điểm về sự hỗ trợ của xã hội là 3,9 ± 
0,7. Có 43,4% bệnh nhân có nguy cơ gặp vấn 
đề về lo âu từ mức độ vừa trở lên.
2. Tuân thủ điều trị nghiện chất 
Tuân thủ điều trị đánh giá dựa trên định 
nghĩa số ngày bệnh nhân đến lấy thuốc từ ≥ 
80% tổng số ngày cần đến lấy thuốc trong kỳ 
theo dõi.18 Tỷ lệ tuân thủ điều trị trong nghiên 
cứu tại các vòng theo dõi như sau tại thời điểm 
3 tháng là 52%, tại 6 tháng là 52,4%, tại 9 tháng 
là 62,5% và tại 12 tháng theo dõi là 54%. 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tuân thủ điều trị tại thời điểm 3, 6, 9 và 12 tháng
3. Sử dụng chất ma tuý trong quá trình điều 
trị
Tại thời điểm ban đầu  ...  96)
p-trend 
value
Heroin
Sử dụng trong 30 ngày qua 136(100%)
79
(68,7%)
63
(63,6%)
57
(60%)
62
(64,6%) < 0,001
Amphetamine
Sử dụng trong 30 ngày qua 20(14,7%)
12
(10,4%)
13
(13,1%)
7
(7,3%)
8
(8,3%) 0,089
Methamphetamine
Sử dụng trong 30 ngày qua 32(23,5%)
21
(18,3%)
20
(20,2%)
17
(17,9%)
18
(18,7%) 0,369
Kết quả xét nghiệm nước tiểu cho thấy sử dụng heroin giảm từ 100% tại thời điểm ban đầu xuống 
68,7% tại thời điểm 3 tháng, 61,6% tại thời điểm 6 tháng, 62,1% tại thời điểm 9 tháng và 67,7% tại 
thời điểm 12 tháng. Tỷ lệ dương tính với ma túy đá (methamphetamine) và amphetamine của đối 
tượng nghiên cứu có xu hướng duy trì qua 12 tháng theo dõi. Tỷ lệ kết quả dương tính với ma túy 
tổng hợp amphetamine là 11,8% tại thời điểm ban đầu, 11,3% tại thời điểm 3 tháng, 16,2% tại thời 
điểm 6 tháng, 12,6% tại thời điểm 9 tháng và 13,5% tại thời điểm 12 tháng. Có 22,8% đối tượng 
tham gia nghiên cứu có kết quả dương tính với ma túy đá tại thời điểm ban đầu và tỷ lệ này duy trì 
mức 22,6 % tại thời điểm 3 tháng, 21,2% tại thời điểm 6 tháng, 20% tại thời điểm 9 tháng và 18,8% 
tại thời điểm 12 tháng. 
Biểu đồ 2. Kết quả xét nghiệm nước tiểu tại các thời điểm theo dõi
4. Một số yếu tố liên quan đến kết quả xét nghiệm dương tính morphine/heroin
Kết quả phân tích một số yếu tố liên quan kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính với morphine 
trong quá trình điều trị buprenorphine/naloxone từ mô hình phân tích hồi qui logistic hỗn hợp (mixed-
effect model) cho thấy những bệnh nhân gặp vấn đề về kỳ thị liên quan đến sử dụng chất có khả 
năng kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính với morphin cao hơn (OR = 2,51; 95% KTC: 1,39 - 
4,53). Bên cạnh đó, mô hình đơn biến cho thấy những bệnh nhân có múc độ lo âu từ vừa trở lên có 
khả năng kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính với morphin cao gấp 3 lần so với những người 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 269
mức độ lo âu bình thường hoặc nhẹ (OR = 3,11; 95% KTC: 1,38 - 7,01). Tuân thủ điều trị nghiện 
cũng cho thấy có mối liên hệ với kết quả xét nghiệm nước tiểu với morphin ở mô hình đơn biến. Bệnh 
nhân tuân thủ điều trị nghiện có tỷ lệ dương tính với morphin thấp hơn so với những người tuân thủ 
kém (OR = 0,13; 95% KTC: 0,05 - 0,36).
Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến kết quả xét nghiệm dương tính với morphine
 Các yếu tố
Mô hình đơn biến Mô hình đa biến
OR 
(KTC 95%)
p-value
OR 
(KTC 95%)
p-value
Tuổi 0,98(0,91 – 1,06) 0,616
0,98
(0,91 – 1,06) 0,58
Tình trạng việc làm
Không 1
0,096
1
0,252
Có 0,55(0,28 – 1,11)
0,66
(0,32 – 1,35)
Kỳ thị liên quan sử dụng chất 2,24(1,43 – 3,51) < 0,001
2,51
(1,39 – 4,53) 0,002
Kỳ thị liên quan đến HIV 1,31(0,76 – 2,24) 0,33
0,52
(0,25 – 1,07) 0,074
Hỗ trợ của xã hội 0,73(0,40 – 1,32) 0,292
0,89
(0,49 – 1,62) 0,696
Nguy cơ sức khỏe tâm thần – lo âu
Mức độ bình thường và nhẹ 1
0,006
1
0,07
Mức độ vừa và nặng 3,11(1,38 – 7,01)
2,32
(0,93 – 5,74)
Tuân thủ điều trị nghiện
Không 1
< 0,001
1
0,348
Có 0,13(0,05 – 0,36)
0,68
(0,31 – 1,52)
IV. BÀN LUẬN
Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên 
đánh giá hiệu quả lồng ghép liệu pháp điều trị 
nghiện CDTP bằng thuốc mới – buprenorphine/
naloxone tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Việt 
Nam. Kết quả phân tích cho thấy hơn 50% 
bệnh nhân tham gia nghiên cứu tuân thủ điều 
trị buprenorphine/naloxone tại các vòng theo 
dõi. Tại thời điểm 12 tháng 54% bệnh nhân 
của bệnh nhân tuân thủ điều trị. Tỷ lệ này 
cao hơn so với tỷ lệ tuân thủ (48%) từ một 
nghiên cứu hồi cứu trên 50 bệnh nhân điều trị 
Buprenorphine/naloxone tại Trung tâm y tế của 
trường đại học Howard (Mỹ)19, mặc dù chương 
trình này kết hợp cả liệu pháp can thiệp nhân 
thức hành vi trong quá trình điều trị. Tuy nhiên, 
tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 
so với tỷ lệ tuân thủ điều trị tại các cơ sở điều 
trị bằng methadone.20 Can thiệp lồng ghép 
buprenorphine/naloxone được triển khai tại cơ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020270
sở điều trị HIV ngoại trú trong bối cảnh cán bộ 
tại các cơ sở này chưa có nhiều kinh nghiệm 
trong lĩnh vực tư vấn hỗ trợ tuân thủ điều trị 
nghiện chất. Đây có thể là nguyên nhân làm tỷ 
lệ tuân thủ điều trị buprenorphine thấp hơn tỷ lệ 
tuân thủ điều trị bằng methadone. 
Kết quả phân tích cho thấy hiệu quả của 
buprenorphine/naloxone đối với việc giảm sử 
dụng ma túy dạng thuốc phiện thông qua giảm 
tỷ lệ tự báo cáo hành vi sử dụng chất 30 ngày 
qua và kết quả xét nghiệm nước tiểu dương 
tính với morphine sau 12 tháng điều trị. Tuy 
nhiên vẫn còn có hơn một nửa số bệnh nhân 
(64,4% tự báo cáo hành vi sử dụng chất và 
67,7% có kết quả xét nghiệm dương tính) vẫn 
tiếp tục sử dụng heroin và 13% sử dụng ma túy 
tổng hợp dạng amphetamine sau 12 tháng điều 
trị. Kết qủa này khá tương đồng với một nghiên 
cứu khác trên quần thể bệnh nhân nghiện 
chất dạng thuốc phiện nhiễm HIV nhận điều trị 
buprenorphine/naloxone tại Mỹ với tỷ lệ tự báo 
cáo hành vi sử dụng chất 30 ngày tại thời điểm 
12 tháng là 42,4% đối với chất dạng thuốc phiện 
và 38,7% đối với ma túy tổng hợp.12 Tuy nhiên, 
tỷ lệ sử dụng chất sau 12 tháng điều trị trong 
nghiên cứu này cao gấp 3 lần tỷ lệ sử dụng 
CDTP ở nhóm bệnh nhân điều trị methadone ở 
Hải Phòng (22,2%) và thành phố Hồ Chí Minh 
(23,8%) cùng thời điểm theo dõi.21 Đây là một 
thách thức đối với việc triển khai điều trị lồng 
ghép buprenorphine tại cở sở y tế cần được 
hiểu biết đầy đủ và cần có các biện pháp can 
thiệp về tâm lý và hành vi hỗ trợ bệnh nhân 
trong quá trình điều trị. 
Kết quả phân tích mô hình hồi qui logistics 
hỗn hợp đơn biến cũng như đa biến trong 
nghiên cứu này cho thấy yếu tố kỳ thị liên quan 
đến tình trạng sử dụng ma túy cao hơn. Tuy 
nhiên, các nghiên cứu trên thế giới không đưa 
ra kết luận tương tự mà cho thấy kỳ thị và tự 
kỳ thị về tình trạng sử dụng ma túy có tác động 
đến việc tiếp cận điều trị nghiện chất và duy trì 
trong điều trị.22, 23 Yếu tố rối loạn lo âu không có 
mối tương quan với kết quả xét nghiệm nước 
tiểu dương tính trong mô hình phân tích đa 
biến. Tuy nhiên, nghiên cứu của Ferri và cộng 
sự sử dụng mô hình phân tích hồi qui đa biến 
cho thấy bệnh nhân có rối loạn lo âu có khả 
năng sử dụng ma túy cao hơn trong quá trình 
điều trị (OR = 4,16, 95% KTC = 1,18 – 14,67).24
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tuân thủ điều 
trị giúp giảm tỷ lệ sử dụng chất trong quá trình 
điều trị,18 kết quả nghiên cứu này cho thấy tuân 
thủ điều trị có mối tương quan với tình trạng 
sử dụng ma túy ở mô hình đơn biến. Điều trị 
nghiện CDTP bằng buprenorphine là một biện 
pháp hiệu quả giảm tình trạng sử dụng ma túy 
tuy nhiên như bất kỳ hình thức điều trị nào khác 
hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào sự 
tuân thủ của bệnh nhân. Vì vậy, việc hiểu tuân 
thủ điều trị và các yếu tố cản trở tuân thủ điều 
trị cũng là việc làm cần thiết đối với người cung 
cấp dịch vụ nhằm hỗ trợ tuân thủ điều trị để đạt 
được hiệu quả điều trị tối đa.
Nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn có một 
số hạn chế nhất định do thiết kế nghiên cứu 
can thiệp không có nhóm chứng để so sánh 
hiệu quả can thiệp. Bên cạnh đó, hầu hết các 
thông tin được thu thập thông qua phỏng vấn 
trực tiếp, nhiều thông tin được hỏi hồi cứu lại 
trong khoảng thời gian 3 tháng, điều này có thể 
dẫn đến sai số báo cáo và sai số nhớ lại. Tuy 
nhiên, cán bộ nghiên cứu được tập huấn kỹ về 
kỹ năng phỏng vấn, khai thác thông tin có thể 
làm giảm tác động của các sai số trên.
V. KẾT LUẬN
Lồng ghép điều trị nghiện chất dạng thuốc 
phiện bằng buprenorphine/naloxone tại cơ sở 
điều trị HIV ngoại trú giúp giảm sử dụng heroin. 
Tuy nhiên, vẫn có tỷ lệ bệnh nhân tiếp tục sử 
dụng ma túy trong quá trình điều trị đòi hỏi các 
can thiệp tâm lý hành vi để giúp giảm hành vi sử 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 271
dụng chất và hỗ trợ tuân thủ điều trị. Bên cạnh 
đó, cần cung cấp chương trình nâng cao năng 
lực và hỗ trợ kỹ thuật đối với kỹ năng quản lý 
và tư vấn điều trị nghiện đối với cán bộ y tế tại 
cơ sở điều trị HIV ngoại trú cũng như các cơ sở 
cung cấp dịch vụ lồng ghép điều trị nghiện chất 
trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Degenhardt L, Whiteford HA, Ferrari AJ, 
et al. Global burden of disease attributable to 
illicit drug use and dependence: findings from 
the Global Burden of Disease Study 2010. 
The Lancet. 2013; 382(9904): 1564 - 1574. 
doi:10.1016/S0140-6736(13)61530-5
2. Cục phòng, chống HIV/AIDS. Báo 
Cáo Kết Quả Phòng, Chống HIV/AIDS Năm 
2019 và Nhiệm vụ Trọng Tâm Năm 2020.; 
2020. Accessed May 29, 2020. 
gov.vn/Cms_Data/Contents/Vaac/Media/
Documents/01-2020/Bao-cao-2019-gui-VPCP.
pdf
3. Low AJ, Mburu G, Welton NJ, et al. Impact 
of Opioid Substitution Therapy on Antiretroviral 
Therapy Outcomes: A Systematic Review and 
Meta-Analysis. Clin Infect Dis Off Publ Infect Dis 
Soc Am. 2016; 63(8): 1094 - 1104. doi:10.1093/
cid/ciw416
4. Mattick RP, Kimber J, Breen C, Davoli 
M. Buprenorphine maintenance versus 
placebo or methadone maintenance for opioid 
dependence. Cochrane Database Syst Rev. 
2004; (3): CD002207. doi:10.1002/14651858.
CD002207.pub2
5. Herget G. Methadone and buprenorphine 
added to the WHO list of essential medicines. 
HIVAIDS Policy Law Rev. 2005; 10(3): 23 - 24.
6. Carrieri MP, Amass L, Lucas GM, Vlahov 
D, Wodak A, Woody GE. Buprenorphine use: 
the international experience. Clin Infect Dis Off 
Publ Infect Dis Soc Am. 2006; 43 Suppl 4: S197 
- 215. doi:10.1086/508184
7. Korthuis PT, Fiellin DA, Fu R, et al. 
Improving adherence to HIV quality of care 
indicators in persons with opioid dependence: 
the role of buprenorphine. J Acquir Immune 
Defic Syndr 1999. 2011; 56 Suppl 1:S83 - 90. 
doi:10.1097/QAI.0b013e31820bc9a5
8. Diep NB, Korthuis PT, Trang NT, Hoa 
VD, Giang LM. HIV patients’ preference for 
integrated models of addiction and hiv treatment 
in Vietnam. J Subst Abuse Treat. 2016; 69: 57 - 
63. doi:10.1016/j.jsat.2016.07.003
9. An Thanh Ly, Nguyễn Hữu Anh, Korthuis 
PT, Lê Minh Giang. Thực trạng thảo luận về sử 
dụng chất gây nghiện giữa cán bộ y tế và bệnh 
nhân tại các phòng khám điều trị ngoại trú HIV 
tại Hà Nội. Tạp Chí Học Dự Phòng J Prev Med. 
2015; XXV(10 (170)).
10. Amass L, Bickel WK, Higgins ST, Badger 
GJ. Alternate-day dosing during buprenorphine 
treatment of opioid dependence. Life Sci. 
1994; 54(17): 1215 - 1228. doi:10.1016/0024-
3205(94)00848-5
11. Bộ Y tế. Quyết định số 444 - Bộ Y tế 
Ban hành “Hướng dẫn điều trị nghiện các chất 
dạng thuốc phiện bằng thuốc Buprenorphine.” 
Published online May 2, 2015.
12. Fiellin DA, Weiss L, Botsko M, et al. Drug 
treatment outcomes among HIV-infected opioid-
dependent patients receiving buprenorphine/
naloxone. J Acquir Immune Defic Syndr. 2011; 
56(SUPPL. 1): S33 - S38.
13. Fudala PJ, Bridge TP, Herbert S, et al. 
Office-Based Treatment of Opiate Addiction 
with a Sublingual - Tablet Formulation of 
Buprenorphine and Naloxone. N Engl J 
Med. 2003; 349(10): 949 - 958. doi:10.1056/
NEJMoa022164
14. McLellan AT, Kushner H, Metzger D, et 
al. The Fifth Edition of the Addiction Severity 
Index. J Subst Abuse Treat. 1992; 9(3): 199-
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020272
213.
15. Zimet GD, Powell SS, Farley GK, 
Werkman S, Berkoff KA. Psychometric 
characteristics of the Multidimensional Scale of 
Perceived Social Support. J Pers Assess. 1990; 
55(3-4): 610 - 617. doi:10.1080/00223891.1990
.9674095
16. Kok T, Haan HA de, Meer M van der, 
Najavits LM, Jong CAJD. Screening of Current 
Post-Traumatic Stress Disorder in Patients with 
Substance Use Disorder Using the Depression, 
Anxiety and Stress Scale (DASS-21): A Reliable 
and Convenient Measure. Eur Addict Res. 
2015; 21(2): 71 - 77. doi:10.1159/000365283
17. Cuzick J. A wilcoxon-type test for trend. 
Stat Med. 1985; 4(1): 87 - 90. doi:10.1002/
sim.4780040112
18. Tkacz J, Severt J, Cacciola J, Ruetsch 
C. Compliance with buprenorphine medication-
assisted treatment and relapse to opioid use. 
Am J Addict. 2012; 21(1): 55 - 62. doi:10.1111/
j.1521-0391.2011.00186.x
19. Kumari S, Manalai P, Leong S, Wooditch 
A, Malik M, Lawson WB. Factors associated 
with non-adherence to Buprenorphine-naloxone 
among opioid dependent African-Americans: A 
retrospective chart review. Am J Addict. 2016; 
25(2): 110 - 117. doi:10.1111/ajad.12325
20. Tran BX, Nguyen LH, Tran TT, Latkin 
CA. Social and structural barriers for adherence 
to methadone maintenance treatment among 
Vietnamese opioid dependence patients. PloS 
One. 2018; 13(1): e0190941. doi:10.1371/
journal.pone.0190941
21. Hoang TV, Ha TTT, Hoang TM, et al. 
Impact of a methadone maintenance therapy 
pilot in Vietnam and its role in a scaled-
up response. Harm Reduct J. 2015; 12:39. 
doi:10.1186/s12954-015-0075-9
22. Bozinoff N, Anderson BJ, Bailey GL, 
Stein MD. Correlates of stigma severity among 
persons seeking opioid detoxification. J 
Addict Med. 2018; 12(1): 19 - 23. doi:10.1097/
ADM.0000000000000355
23. Crapanzano KA, Hammarlund R, Ahmad 
B, Hunsinger N, Kullar R. The association 
between perceived stigma and substance use 
disorder treatment outcomes: a review. Subst 
Abuse Rehabil. 2018; 10: 1 - 12. doi:10.2147/
SAR.S183252
24. Ferri M, Reid Finlayson AJ, Wang L, 
Martin PR. Predictive Factors for Relapse in 
Patients on Buprenorphine Maintenance. Am 
J Addict Am Acad Psychiatr Alcohol Addict. 
2014; 23(1): 62 - 67. doi:10.1111/j.1521-
0391.2013.12074.x
Summary
EFFECTIVENESS OF BUPRENORPHINE/NALOXONE 
TREATMENT ON HIV-INFECTED OPIOID DEPENDENT PATIENT
 AT HIV OUTPATIENT CLINIC IN HANOI
Medication - assisted treatment is the most effective treatment for opioid use disorder. In 
context of WHO’s recommendation for integrating addiction and HIV treatment in one setting, 
Suboxone® (buprenorphine/naloxone) was integrated into addiction treatment protocol for HIV-
positive opioid-dependent patients at outpatient HIV clinics in Hanoi. The study aimed to assess 
the impact of Suboxone treatment on drug use outcomes in the integrated treatment regimen. 
Between 2016 and 2019, we conducted a quasi-experimental design (no controlled group) on 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 273
HIV-positive opioid dependent patients at four outpatient HIV clinics in Hanoi. Self-report, chart 
review and urine screen assessments were conducted every 3 months for 12 months. Illicit 
opioid use in the past 30 days decreased from 100% at baseline to 64.6% at 12 - month follow-
up. Results from urine toxicology analysis showed that heroin use decreased from 100% at 
baseline to 68.7%, 61.6%, 62.1% and 67.7% at 3, 6, 9, and 12 months, respectively. In conclusion, 
provision of Suboxone in HIV outpatient clinics can help to decrease opioid use. However, it is 
necessary to have strategies to address ongoing drug use and to support medication adherence. 
Key words: Buprenorphine/naloxone, integrated treatment, HIV, opioid use disorder

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_dieu_tri_nghien_chat_dang_thuoc_phien_bang_buprenor.pdf