Hiệu quả điều trị của Fluconazole và Itraconazole trên bệnh nấm móng do Candida

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh nấm móng do Candida của Fluconazole và Itraconazole.

Phương pháp và đối tượng: Thử nghiệm lâm sàng không mù, có đối chứng được tiến hành trên 62 bệnh

nhân bị viêm móng do Candida điều trị tại BV Da Liễu TP. HCM từ 12/2006 đến 12/2007. Đối tượng nghiên

cứu được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm phác đồ Fluconazole (150mg/ tuần x 6 tháng đối với móng tay, 9 tháng đối

với móng chân) và Itraconazole (200mg  2 lần/ngày  7 ngày mỗi tháng x 2 tháng đối với móng tay, 3 tháng

đối với móng chân). Chúng tôi so sánh tỉ lệ đáp ứng lâm sàng (có cải thiện lâm sàng), tỉ lệ sạch nấm (cấy âm tính)

và các tác dụng phụ giữa 2 nhóm.

Kết quả: 62 trường hợp viêm móng do Candida có biểu hiện lâm sàng đa dạng, ở móng tay và móng chân,

bao gồm thể nấm dưới móng bờ xa và rãnh bên (58,1%), nấm dưới móng phần gốc (29,0%), nấm móng trắng

trên bề mặt (12,9%). Các loài Candida spp. khác (59,7%) chiếm ưu thế hơn Candida albicans (40,3%). Tỉ lệ đáp

ứng lâm sàng ở nhóm Fluconazole là 93,6%, không khác biệt với nhóm Itraconazole là 96,8% (p=1,00) nhưng

Fluconazole cho tỉ lệ sạch nấm cao hơn có ý nghĩa thống kê (80,7% so với 48,4%, p=0,008). Tác dụng phụ trên

lâm sàng đều nhẹ ở cả 2 nhóm (19,4% và 16,1%, p=0,50); Còn tỉ lệ tăng men gan của Fluconazole và

Itraconazole lần lượt là 3,2% và 0% (p=0,31). Các tác dụng phụ không khác biệt có ý nghĩa thống kê.

pdf 9 trang phuongnguyen 6560
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả điều trị của Fluconazole và Itraconazole trên bệnh nấm móng do Candida", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả điều trị của Fluconazole và Itraconazole trên bệnh nấm móng do Candida

Hiệu quả điều trị của Fluconazole và Itraconazole trên bệnh nấm móng do Candida
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1 
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA FLUCONAZOLE VÀ ITRACONAZOLE 
TRÊN BỆNH NẤM MÓNG DO CANDIDA 
Phạm Thị Mai Anh*, Nguyễn Tất Thắng**, Nhữ Thị Hoa*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh nấm móng do Candida của Fluconazole và Itraconazole. 
Phương pháp và đối tượng: Thử nghiệm lâm sàng không mù, có đối chứng được tiến hành trên 62 bệnh 
nhân bị viêm móng do Candida điều trị tại BV Da Liễu TP. HCM từ 12/2006 đến 12/2007. Đối tượng nghiên 
cứu được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm phác đồ Fluconazole (150mg/ tuần x 6 tháng đối với móng tay, 9 tháng đối 
với móng chân) và Itraconazole (200mg  2 lần/ngày  7 ngày mỗi tháng x 2 tháng đối với móng tay, 3 tháng 
đối với móng chân). Chúng tôi so sánh tỉ lệ đáp ứng lâm sàng (có cải thiện lâm sàng), tỉ lệ sạch nấm (cấy âm tính) 
và các tác dụng phụ giữa 2 nhóm. 
Kết quả: 62 trường hợp viêm móng do Candida có biểu hiện lâm sàng đa dạng, ở móng tay và móng chân, 
bao gồm thể nấm dưới móng bờ xa và rãnh bên (58,1%), nấm dưới móng phần gốc (29,0%), nấm móng trắng 
trên bề mặt (12,9%). Các loài Candida spp. khác (59,7%) chiếm ưu thế hơn Candida albicans (40,3%). Tỉ lệ đáp 
ứng lâm sàng ở nhóm Fluconazole là 93,6%, không khác biệt với nhóm Itraconazole là 96,8% (p=1,00) nhưng 
Fluconazole cho tỉ lệ sạch nấm cao hơn có ý nghĩa thống kê (80,7% so với 48,4%, p=0,008). Tác dụng phụ trên 
lâm sàng đều nhẹ ở cả 2 nhóm (19,4% và 16,1%, p=0,50); Còn tỉ lệ tăng men gan của Fluconazole và 
Itraconazole lần lượt là 3,2% và 0% (p=0,31). Các tác dụng phụ không khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Kết luận: Trên bệnh nấm móng do Candida, Fluconazole hiệu quả hơn Itraconazole. 
ABSTRACT 
THE EFFICACY OF FLUCONAZOLE AND ITRACONAZOLE IN THE TREATMENT 
OF ONYCHOMYCOSIS CAUSED BY CANDIDA 
Pham Thi Mai Anh, Nguyen Tat Thang, Nhu Thi Hoa 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 332 - 338 
Objective: To assess the efficacy of the oral antifungal agents Fluconazole and Itraconazole in the treatment 
of the onychomycosis caused by Candida. 
Patients and Methods: We conducted an open, randomized controlled trial involving 62 patients with 
onychomycosis due to Candida, from December, 2006 to December, 2008, at Dermatology-Venereology Hospital, 
Ho Chi Minh City. These patients were randomly assigned to receive one of two therapies: Fluconazole (150mg 
per week, within 6 months with fingernail, or 9 months with toenail) or Itraconazole (200mg bid, within 7 
continuous days per month, within 2 months with fingernail, or 3 months with toenail). The main outcomes were 
clinical responses, mycological cure, and adverse effects. 
Results: Of the 62 patients in the study, there were various clinical types of Candida infection, including 
distal and lateral onychomycosis (58.1%), proximal subungal onychomychosis (29.0%), and, superficial white 
onychomychosis (12.9%) on both fingernail and toenail. Other Candida spp. (59.7%) predominated over Candida 
albicans (40.3%). At the end of the study, there was no significant difference of clinical responses between 
Fluconazole group and Itraconazole group (93.6% vs 96.8%, p=1.00). However, the mycological cure rate in the 
Fluconazole group is significantly higher than Itraconazole group (80.7% vs 48.4%, p=0.008). The clinical 
* Bệnh viện Da Liễu, TP. HCM ** Bộ Môn Da Liễu, Đại Học Y Dược, TP. HCM 
*** Bộ môn Ký Sinh Trùng – Vi Nấm Học, ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. HCM 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2 
adverse effects were mild in two groups (19.4% and 16.1%, respectively, p=0.50); And liver enzym elevation of 
Fluconazole group and Itraconazole group are 3.2% and 0%, respectively (p=0.31). There was no statistical 
difference of adverse effects. 
Conclusions: Fluconazole is more efficacious than Itraconazole in the treatment of onychomycosis caused by 
Candida. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm móng do vi nấm là một bệnh phổ biến, 
chiếm 20-50% các trường hợp bệnh lý ở móng, 
gây mất thẩm mỹ, có thể ảnh hưởng đến các 
công việc giao tiếp của bệnh nhân nhất là tổn 
thương ở móng tay(4). Ba tác nhân gây bệnh chủ 
yếu bao gồm vi nấm ngoài da, nấm men và nấm 
mốc(10). Gần đây, nhiều báo cáo ở Mỹ chứng tỏ tỉ 
lệ viêm móng do vi nấm hạt men có khuynh 
hướng tăng dần, khoảng 5-17% các trường hợp 
nấm móng(2). Tương tự, tại Ấn Độ, Mishra 
Minati khảo sát 120 bệnh nhân viêm móng đã 
phát hiện Candida spp. chiếm 19-21% (7); thậm 
chí, Jesudanam T. M. phân lập được 58,82% mẫu 
nhiễm Candida spp., cao hơn hẳn Dermatophytes 
(38,2%)(5). Trong số các loài Candida spp. gây 
viêm móng, C. albicans là tác nhân thường gặp 
nhất, chiếm 70% các trường hợp(6). Tuy nhiên, sự 
phân bố C. albicans và Candida non-albicans thay 
đổi rất nhiều theo vị trí gây bệnh và theo các 
vùng địa lý khác nhau(8). 
Bên cạnh đó, biểu hiện lâm sàng và hiệu quả 
điều trị của thuốc kháng nấm thay đổi tùy theo 
tác nhân gây bệnh. Theo nhiều y văn, hiệu lực 
điều trị bệnh nấm móng của itraconazole cao 
hơn fluconazole(3,9,1). Thế nhưng, tại Việt Nam, 
nhiều trường hợp thất bại khi sử dụng 
itraconazole đã được ghi nhận và vấn đề này 
vẫn chưa được sự quan tâm đúng mực tại Việt 
Nam. Vì vậy khảo sát được tiến hành nhằm xác 
định hiệu quả điều trị về lâm sàng và vi nấm của 
fluconazole và itraconazole đối với bệnh nấm 
móng do Candida. 
Tổng quan tài liệu 
Điều trị nấm móng 
Nấm móng là bệnh khó điều trị vì thời gian 
điều trị kéo dài, chi phí cao và biểu hiện cải thiện 
chậm chạp (nhiều tháng) sau khi đã điều trị sạch 
nấm. Điều quan trọng đầu tiên là loại bỏ những 
yếu tố thuận lợi ngoại sinh như tránh tiếp xúc 
các hóa chất, giữ móng khô ráo bằng cách mang 
găng tay và đi ủng Đồng thời, điều trị các 
bệnh làm giảm sức đề kháng như tiểu đường, 
ngưng kháng sinh và corticoide(7). 
Tại chỗ 
Có nhiều thuốc trị nấm men dưới nhiều 
dạng thuốc bôi như dung dịch màu castellani, 
kem ketoconazole... Nhưng có một điều nghịch 
lý là trong khi khuyên bệnh nhân nấm móng 
tránh ẩm ướt, thì lại có chỉ định thoa kem kháng 
nấm tại móng hai lần một ngày. Còn dung dịch 
màu thì gây mất thẩm mĩ trong giao tiếp. Hiện 
nay, các dung dịch sơn móng như ciclopirox 8%, 
amorolfine có thể tránh những khuyết điểm 
này, thuốc trong suốt và khô sau vài phút sơn 
lên bề mặt móng. Thuốc có chỉ định trong nấm 
móng mức độ nhẹ đến vừa và chưa ảnh hưởng 
liềm móng, nhưng khi dùng đơn độc, thuốc đạt 
hiệu quả kém(4). Hơn nữa, ciclopirox chi phí khá 
đắt và chưa lưu hành rộng rãi trên thị trường 
Việt Nam. 
Tóm lại tỉ lệ thành công của thuốc uống 
hầu hết vượt trội hơn thuốc thoa và nấm móng 
do nấm men thường đòi hỏi thuốc uống toàn 
thân. Nếu cần điều trị kết hợp, chỉ nên sử 
dụng dung dịch sơn móng hoặc không chỉ 
định thuốc thoa khác. 
Toàn thân 
Các nhóm kháng nấm cũ 
Trước năm 1990, griseofulvine, 
amphotericine B và ketoconazole là những thuốc 
đầu tay để điều trị bệnh nấm. Nhưng 
griseofulvine không có khả năng diệt nấm men. 
Ketoconazole thuộc nhóm kiềm nấm phổ rộng 
nhưng thuốc có nguy cơ gây độc cho gan, kể cả 
gây tử vong do hoại tử tế bào gan, nhất là khi trị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3 
liệu nấm móng kéo dài. Hiện nay, những nhóm 
kháng nấm mới đang thay thế các thuốc kháng 
nấm cũ trong điều trị nấm móng vì tính an toàn 
và hiệu quả của các nhóm thuốc này(2). 
Nhóm triazole 
Họ azoles có hai nhóm thuốc gồm nhóm 
imidazole (ketoconazole) và nhóm triazoles 
(fluconazole và itraconazole). Cơ chế tác dụng 
của họ azoles là ức chế hệ thống men tiểu thể 
cytochrome p450 của vi nấm, cụ thể là men 14-- 
demethylase có vai trò chuyển hóa lanosterol 
thành ergosterol. Hậu quả là tích tụ 14--
methylsterol, làm suy giảm khả năng thấm của 
màng, khả năng gắn kết với men của màng và 
ngưng trệ sự phát triển của tế bào nấm(2). 
Năm 1995, FDA đã chứng nhận Itraconazole 
trong phác đồ điều trị liên tục nấm móng tay-
chân do dermatophyte. Bên cạnh đó, FDA còn 
khuyến cáo phác đồ điều trị từng đợt nấm móng 
tay: uống 200mg  2 lần/ ngày trong 1 tuần của 
mỗi tháng, điều trị trong 2 tháng, một số ít 
nghiên cứu dùng trong 3 tháng(2) Nhiều nghiên 
cứu đã chứng minh hiệu quả của phác đồ điều 
trị từng đợt nấm móng chân, uống trong 3-4 
tháng nhưng chưa được FDA khuyến cáo(4). 
Các nghiên cứu này ghi nhận tỉ lệ thành 
công như nhau giữa hai phác đồ điều trị liên tục 
và từng đợt. Tỉ lệ sạch nấm từ 45%, 70% đến 90% 
và tỉ lệ lành bệnh trên lâm sàng từ 35% - 82%(7). 
Fluconazole là thuốc đầu tay trong điều trị 
nhiễm Candida(10), nhưng theo Thappa D.M., 
itraconazole là thuốc hiệu quả nhất trong điều trị 
nấm móng do Candida. Fluconazole được FDA 
chứng nhận trong điều trị bệnh candidiasis hệ 
thống (ngoại trừ do tác nhân C. krusei), nhiễm 
Candida thực quản và hầu họng(2). Và phòng 
ngừa bệnh candidiasis ở bệnh nhân AIDS và 
ghép tạng(2). Vùng Bắc Mỹ sử dụng fluconazole 
rộng rãi để điều trị bệnh nấm móng nhưng FDA 
vẫn chưa chứng nhận hiệu quả của fluconazole. 
Những tính chất về dược động học cho phép 
thuốc dùng một lần/ tuần. Liều từ 150 mg, 300 
mg đến 450 mg mỗi tuần, kéo dài trong 3-6 
tháng với móng tay và 6-12 tháng với móng 
chân(6). Có tác giả đề nghị uống 1viên 150 mg/ 
tuần cho đến khi móng khỏi bệnh(5). 
Nhóm allylamine 
Đây là nhóm kháng nấm mới. Trong đó, 
terbinafine là thuốc đầu tay trong điều trị nấm 
móng do Dermatophytes nhưng lại ít hiệu quả 
với Candida spp. và nấm mốc(2). Hiện nay, thị 
trườngViệt Nam vẫn chưa chính thức lưu hành 
terbinafine. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thử nghiệm lâm sàng đối chứng, không mù, 
được thực hiện trên các trường hợp nấm móng 
do Candida spp. đến khám và điều trị tại BV Da 
Liễu TP. HCM từ 12/2006 đến 12/2007. Để có 
80% cơ hội chứng minh rằng hiệu quả điều trị 
nấm móng của itraconazole là 92% cao hơn 67% 
của fluconazole ở mức ý nghĩa 5%, cỡ mẫu tối 
thiểu cần cho mỗi nhóm là 31 đối tượng. Tất cả 
bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được đưa 
vào khảo sát: ≥12 tuổi, có tổn thương móng, xét 
nghiệm bệnh phẩm chỉ tìm thấy Candida spp. 
(sợi tơ nấm giả hoặc/và > 4 tế bào hạt men/quang 
trường 40 trong quan sát trực tiếp; thử nghiệm 
sinh ống mầm và bào tử bao dày dương tính), 
không uống hoặc bôi thuốc kháng nấm trong 
vòng, lần lượt, 6 tháng hoặc 4 tuần trước thời 
điểm nghiên cứu, SGOT≥ 37 U/L, SGPT ≥ 42 U/L, 
urê và creatinine trong giới hạn bình thường, 
không dị ứng hoặc không thuộc nhóm chống chỉ 
định với các thuốc nghiên cứu, đồng ý tham gia 
và tuân thủ điều trị. Các bệnh nhân được chia 
ngẫu nhiên theo thứ tự vào 2 nhóm: bệnh nhân 
đầu tiên vào nhóm 1, kế tiếp vào nhóm 2, tiếp 
theo vào nhóm 1 , lần lượt như thế cho đến khi 
đủ cỡ mẫu. Nhóm 1 sử dụng phác đồ 
fluconazole 150mg/ tuần x 6 tháng đối với móng 
tay, 9 tháng đối với móng chân; nhóm 2 điều trị 
với itraconazole 100mg  2 lần/ngày  7 ngày/1 
tháng x 2 tháng đối với móng tay, 3 tháng đối 
với móng chân. Sau khi kết thúc điều trị, bệnh 
nhân được theo dõi thêm hai tháng liên tục về 
lâm sàng và về vi nấm. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4 
Các dữ kiện được thu thập bằng phỏng vấn 
trực tiếp, thăm khám lâm sàng, xét nghiệm bệnh 
phẩm trước và sau điều trị dựa trên bảng câu hỏi 
cấu trúc. Nhập số liệu bằng Epi data và phân 
tích bằng Stata 8.0. Khả năng đáp ứng lâm sàng 
(có sự cải thiện về lâm sàng), sạch nấm (cấy nấm 
âm tính) và các tác dụng phụ được mô tả bằng 
tần số, tỉ lệ cho từng nhóm can thiệp. So sánh 
hiệu quả giữa 2 nhóm phác đồ bằng phép kiểm 
χ2, ước lượng nguy cơ tương đối (RR) và khoảng 
tin cậy 95% của RR. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tổng số có 62 đối tượng tham gia nghiên 
cứu, mỗi nhóm gồm 31 bệnh nhân. 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng nghiên 
cứu 
Đặc tính Nmẫu=62 
n (%) 
N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) p 
< 25 8(12,9) 5(16,1) 3 (9,7) 
25 - 60 48(77,4) 23(74,2) 25(80,6) Tuổi 
> 60 6 (9,7) 3(9,68) 3 (9,7) 
0,75 
Nữ 46(74,2) 23(74,2) 23(74,2) Giới 
Nam 16(25,8) 8(25,8) 8(25,8) 1,00 
NC cao 12(19,4) 5(16,1) 7(22,6) 
NC thấp 28(45,2) 14(45,2) 14(45,2) Nghề 
NT-HT 22(35,5) 12(38,7) 10(32,2) 
0,77 
< Cấp 3 26(41,9) 12(38,7) 14(45,2) Trình độ 
≥ Cấp 3 36(58,1) 19(61,3) 17 (4,8) 0,61 
* NC: nguy cơ; NT-HT: nội trợ-hưu trí 
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 42,5 
± 14,93 (18-84) 
Tỉ số Nữ: Nam = 2,87: 1 
Các yếu tố dịch tễ học phân bố đồng đều ở 
hai nhóm 
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên 
cứu 
Thể 
lâm sàng 
Nmẫu= 62 
n (%) 
N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) p 
DLSO 36(58,1) 15(48,4) 21(67,7) 0,11 
SWO-PSO 26(41,9) 16(51,6) 10(32,3) 
SWO 8(12,9) 3 (9,7) 5(16,1) 
PSO 18(29,0) 13(41,9) 5(16,1) 
0,12 
* DSLO (distal-lateral subungal onychomycosis): nấm dưới móng 
bờ xa và rãnh móng; SWO (superficial white onychomycosis): 
nấm móng trắng bề mặt; PSO (proximal subungal 
onychomycosis): nấm dưới móng phần gốc móng. 
Về giá trị của men gan trước khi tham gia 
nghiên cứu, các bệnh nhân đều có kết quả SGOT 
(20,5 ± 7,2 U/L) và SGPT (20,8 ± 8,8 U/L) nằm 
trong giới hạn bình thường và sự khác biệt 
không ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3. Tỉ lệ phân bố các loài Candida albicans và 
Candida non-albicans. 
Nmẫu= 62 
n (%) 
N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) p 
C. albicans 25 (40,3) 14 (45,1) 11 (35,5) 
C. non-albicans 37 (59,7) 17 (54,9) 20 (64,5) 0,44 
Candida non-albicans chiếm ưu thế trong toàn 
bộ mẫu khảo sát. Không tìm thấy khác biệt về 
phân bố các loài Candida spp. giữa hai nhóm 
điều trị. 
Bảng 4. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng của hai phác đồ điều 
trị 
Đáp ứng lâm 
sàng 
N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) 
Tổng 
n (%) p 
Có 29 (93,6) 30 (96,8) 59 (95,2) 
Không 2 (6,5) 1 (3,2) 3 (4,8) 
Tổng n (%) 31 (100) 31 (100) 62 (100) 
1,00 
Bảng 5. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng theo thời gian của hai 
phác đồ điều trị 
Sau 
thời gian 
N1 = 29 
n (%) 
% tích 
lũy 
N2 =30 
n (%) 
% 
tích lũy p 
1 tháng 14 (48,3) 48,3 19 (63,3) 63,3 0,23 
2 tháng 8 (27,6) 75,9 8 (26,7) 90,0 0,94 
3 tháng 5 (17,2) 93,1 3 (10,0) 100 0,41 
4 tháng 2 (6,9) 100 0 (0) 0,14 
100% bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng sau 
3 tháng điều trị ở nhóm 2 và sau 4 tháng đối 
với nhóm 1. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng theo từng 
tháng khác nhau không có ý nghĩa thống kê 
giữa 2 nhóm can thiệp. 
Bảng 6. Tỉ lệ sạch nấm của hai phác đồ điều trị 
Sạch nấm N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) 
Tổng 
n (%) p 
Có 25 (80,6) 15 (48,4) 40 (64,5) 
Không 6 (19,4) 16 (51,6) 22 (35,5) 
Tổng n (%) 31 (100) 31 (100) 62 (100) 
0,008 
RR = 1,67 (1,11 – 2,49) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5 
Tỉ lệ sạch nấm giữa hai nhóm khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. 
Bảng 7. Trường hợp bị tác dụng phụ trên lâm sàng 
của hai nhóm 
Tác dụng phụ 
về lâm sàng 
N1 = 31 
n (%) 
N2 =31 
n (%) 
Tổng 
n (%) p 
Khơng 25 (80,6) 26 (83,9) 51 (82,3) 
Có 6 (19,4) 5 (16,1) 11 (17,7) 
Tổng n (%) 31 (100) 31 (100) 62 (100) 
0,50 
Tác dụng phụ trên lâm sàng ở hai nhóm 
đều nhẹ và khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê; bao gồm: rối loạn kinh nguyệt, ngủ khó, 
nhức đầu, mệt, cồn cào, ăn mất ngon, táo bón, 
mụn trứng cá. Trong nhóm 2, một bệnh nhân 
nữ 19 tuổi, tiền căn bị trĩ độ 1, bị tiêu ra máu 
sau 2-3 ngày uống itraconazole ở cả hai đợt 
điều trị đầu. 
Bảng 8. Tỉ lệ tăng men gan khi kết thúc điều trị 
Tăng men gan N1 = 31 
n (%) 
N2 = 31 
n (%) 
Tổng 
n (%) p 
Không 30 (96,8) 31 (100) 61 (98,4) 
Có 1 (3,2) 0 (0) 1 (1,6) 
Tổng n (%) 31 (100) 31 (100) 62 (100) 
0,31 
Tỉ lệ tăng men gan giữa hai nhóm không 
khác biệt về mặt thống kê. Bệnh nhân duy nhất 
bị tăng men gan ở nhóm 1 có tiền căn điều trị 
Albendazole trước khi tham gia nghiên cứu. 
Khi kết thúc phác đồ, kết quả SGOT trung 
bình của 62 bệnh nhân là 25,38 ± 9,91 U/L và 
SGPT là 25,40 ± 14,87U/L. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng nghiên 
cứu 
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 
42,5±14,9, chủ yếu tập trung trong độ tuổi lao 
động từ 25 – 60 (77,4%). Do đó, những nghề hoặc 
công việc hàng ngày liên quan đến tình trạng ẩm 
ướt của bàn tay, bàn chân đều tạo thuận lợi cho 
viêm móng do Candida spp. phát triển. Mặt khác, 
theo sinh lý của móng, tốc độ mọc móng tăng 
dần từ sau 15 tuổi và đạt cực đại trước 25 tuổi. Ở 
lứa tuổi này, tiến trình đẩy phần móng bệnh khá 
nhanh, hỗ trợ cho điều trị, thậm chí có thể giúp 
lành bệnh tự nhiên. Sau 25 tuổi, tốc độ mọc 
móng giảm 0,5% mỗi năm và chậm nhất sau 60 
tuổi. Vì thế, tổn thương viêm móng thường lâu 
lành ở những bệnh nhân từ 25 – 60 tuổi, đòi hỏi 
thơi gian điều trị kéo dài. 
Về nghề nghiệp, đa số đối tượng thuộc 
nhóm nghề ít nguy cơ bị nấm móng (45,2%) như 
sinh viên, giáo viên, nhân viên văn phòng... Bên 
cạnh đó, tỉ lệ bệnh nhân học ≥ cấp 3 (58,1%) 
nhiều hơn nhóm < cấp 3 (41,9%), khác biệt so với 
y văn mô tả trước đây. Có lẽ trình độ và ý thức 
chăm sóc sức khỏe của những người lao động trí 
óc cao hơn, đồng thời những ngành nghề này 
đòi hỏi giao tiếp nhiều, nên sự mất thẩm mỹ của 
móng tay sần sùi sẽ khiến bệnh nhân mất tự tin 
và thôi thúc họ đến gặp bác sĩ nhiều hơn. 
Đặc điểm lâm sàng 
Dạng lâm sàng chủ yếu là nấm dưới móng 
phần xa và cạnh bên (DSLO, 58,1%). Nấm dưới 
móng phần gần (PSO) chỉ chiếm 29,0%. Kết quả 
này khác với y văn. Phải chăng các loài Candida 
sp. gây bệnh đã chi phối hiện tượng này? Thật 
vậy Candida non-albicans ngày càng vượt trội 
trong bệnh lý do Candida spp. Cần thực hiện 
những khảo sát rộng hơn để khẳng định. 
Tỉ lệ phân bố các loài Candida albicans và 
Candida spp. khác 
Theo y văn, hầu hết các trường hợp nhiễm C. 
albicans đều có nguồn gốc nội sinh. Đây là vi 
nấm hoại sinh bắt buộc trong cơ thể người và 
động vật, luôn ở trạng thái cân bằng với các 
chủng vi sinh thường trú khác. Khi có yếu tố 
thuận lợi làm mất sự cân bằng như ngâm tay 
chân trong nước lâu ngày, suy giảm miễn dịch 
, mầm bệnh sẵn có từ cơ thể sẽ dễ dàng bộc 
phát và gây bệnh. Trong khi đó, nhóm Candida 
non-albicans từ ngoại cảnh, phải xâm nhập vào 
cơ thể, kết hợp với yếu tố thuận lợi tại chỗ hay 
toàn thân mới có khả năng gây bệnh. Dụng cụ 
làm móng gồm kềm cắt, giũa, cọ sơn, khăn, thau 
ngâm dùng chung cho nhiều khách hàng có 
thể là những vật truyền bệnh nấm móng do 
Candida spp. 
Tỉ lệ nhiễm Candida non-albicans của toàn bộ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6 
mẫu nghiên cứu (59,7%) cao hơn C. albicans 
(40,3%). Theo y văn, C. albicans chiếm 85 – 90% 
các trường hợp nhiễm nấm men ở ngoại biên 
cũng như hệ thống. Sự vượt trội của Candida 
non-albicans (59,7%) trong 62 trường hợp viêm 
móng được khảo sát phải chăng báo hiệu khả 
năng phát triển của chúng hiện nay? Điều này 
rất đáng lo ngại vì có thể sẽ ảnh hưởng đến hiệu 
quả điều trị nấm móng trên lâm sàng nói chung. 
Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng 
Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng của hai nhóm điều 
trị khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tiêu 
chí đánh giá đáp ứng lâm sàng của nghiên cứu 
này là khi biến mất một trong các sang thương 
lâm sàng của nấm móng tại bất kỳ vị trí của 
móng như bản móng, giường móng hay xung 
quanh móng. Nghiên cứu của chúng tôi không 
sử dụng Chỉ số đánh giá lâm sàng bệnh nấm 
móng (SCIO). Vì chỉ số này phù hợp với dạng 
DLSO, trong khi đó, nấm móng do Candida 
biểu hiện lâm sàng đa dạng gồm dạng DSLO, 
PSO và SWO. 
Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng ở hai nhóm xuất hiện 
cao nhất ngay trong tháng đầu tiên. Nếu có đáp 
ứng với Itraconazole, các bệnh nhân đều biểu 
hiện cải thiện lâm sàng trước tháng thứ 3; tương 
tự kết quả của tác giả Antonella Tosti. Trong khi 
đó, với Fluconazole, cần đến tháng 4, tất cả bệnh 
nhân có đáp ứng mới biểu hiện sự thuyên giảm. 
Vì vậy, trên thực tế lâm sàng, khi chưa có điều 
kiện làm kháng nấm đồ, không nên vội vàng kết 
luận điều trị thất bại và ngưng hoặc đổi thuốc 
ngay, cần chờ kết quả thể hiện rõ trong tháng 
thứ 3, thứ 4. 
Tỉ lệ sạch nấm của từng phác đồ điều trị 
Các báo cáo trên thế giới về tác dụng vi 
sinh của các thuốc kháng nấm rất khác nhau vì 
vùng địa lý khác nhau có thể chi phối sự phân 
bố chủng nấm gây bệnh, từ đó ảnh hưởng lớn 
đến hiệu quả điều trị. Cụ thể, Aditya ghi nhận 
Fluconazole (70,8%) hiệu quả tương tự 
Itraconazole (65,6%), còn Gupta lại kết luận 
Itraconazole (91,7%) vượt trội hơn Fluconazole 
(66,7%). Theo bảng 6, khả năng diệt nấm của 
phác đồ Fluconazole cao gấp 1,67 lần phác đồ 
Itraconazole (KTC 95% của RR = (1,11 – 2,49); p 
= 0,008). 
Tỉ lệ tác dụng phụ của hai phác đồ điều trị 
Tỉ lệ tác dụng phụ trên lâm sàng và tỉ lệ tăng 
men gan của hai nhóm khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê. Không có bệnh nhân nào ngưng 
thuốc vì tác dụng phụ. Phần lớn, tác dụng phụ ở 
cả hai phác đồ đều nhẹ và giảm dần theo thời 
gian. Cả hai phác đồ đều an toàn khi sử dụng 
trong điều trị bệnh nấm móng. 
KẾT LUẬN 
Với thiết kế nghiên cứu thích hợp, các nhóm 
can thiệp được phân chia ngẫu nhiên nên các 
yếu tố có khả năng tương tác, gây nhiễu được 
phân bố như nhau ở cả 2 nhóm, các đối tượng 
đều tuân thủ điều trị và không xảy ra mất dấu, 
vì vậy, độ tin cậy của các kết quả thu được từ 
nghiên cứu ở mức độ cao. 
Candida non-albicans chiếm ưu thế trong 62 
trường hợp khảo sát, báo hiệu sự phát triển đáng 
lo ngại của nhóm Candida spp. này trên bệnh 
nấm móng tại BV Da Liễu hiện nay. Trong khi 
đó, phác đồ Fluconazole hiệu quả hơn phác đồ 
Itraconazole, xét về tiêu chí vi nấm học và chi 
phí điều trị. Vì thế, nên chỉ định Fluconazole 
trong điều trị bệnh nấm móng do Candida spp. 
cho các trường hợp đến khám tại BV Da Liễu TP 
HCM. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arndt KA., Bowers KE. (2002), “Formulary”, Mannual of 
dermatologic therapeuitcs, Lippincott Williams & Wilkins, 
Philadelphia, 6th ed, pp. 284-372. 
2. Arndt KA.,. Bowers KE (2002). “Fungal infections”, Mannual 
of dermatologic therapeuitcs, Lippincott Williams & Wilkins, 
Philadelphia, 6th ed, pp. 88-101. 
3. Gupta AK, Grequrek – Novak T (2001). “Efficacy of 
itraconazole, terbinafine, fluconazole, griseofulvin and 
ketoconazole in the treatment of Scopulariopsis brevicaulis 
causing onychomycosis of the toes”, Dermatology, 202 (3), pp. 
235-238 
4. Habif TP. (2004), “Fungal nail infections”, Clinical dermatology, 
Mosby, Pennsylvania, 4th ed, pp. 874-879. 
5. Madhuri JT et al (2002), “Onychomycosis: A significant 
medical problem”, Indian J Dermatol Venereol Leprol, Indian, 68 
(6), pp. 326-329. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7 
6. Martin AG., Kobayashi GS. (2003), “Yeast Infections: 
Candidiasis, Pityriasis (Tinea) Versicolor”, Fitzpatrick' s 
Dermatology in general medicine, McGraw-Hill, New York, 6th 
ed, pp. 2358-2371. 
7. Minati M et al (2005), “An open randomized comparative 
study of oral itraconazole pulse and terbinafine pulse in the 
treatment of onychomycosis”. IJDVL 71 (4), pp. 262-266. 
8. Nhữ Thị Hoa (2005) “Kiến thức, thái độ, thực hành về chăm 
sóc huyết trắng bệnh lý của phụ nữ bị viêm âm đạo đến khám 
tại các bệnh viện tuyến 2, TP. HCM”, Luận văn Thạc sĩ y học, 
Đại học Y Dược, TP. HCM, tr.11-76. 
9. Roberts D.T. (2003), “Guidelines for treatment of 
onychomychosis”, British Journal of Dermatology, UK, 148, pp. 
402-410. 
10. Rodgers P, Bassler M (2001), “Treating onychomycosis”, 
American Family Physician, 63 (4), pp. 663-672. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 8 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 9 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_dieu_tri_cua_fluconazole_va_itraconazole_tren_benh.pdf