Hiệu quả điều trị bổ sung testosteron dạng gel trên bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng

Nghiên cứu được thực hiện trên 100 phụ nữ có tiên lượng đáp ứng kém với kích thíc buồng trứng trong thụ

tinh trong ống nghiệm (IVF) từ tháng 02 năm 2018 đến tháng 7 năm 2019 tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc

Gia - Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả của androgel trước khi sử

dụng kích thích buồng trứng có kiểm soát trên bệnh nhân thực hiện IVF có tiên lượng đáp ứng kém. Một nghiên

cứu thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện để so sánh giữa nhóm bệnh nhân sử dụng gel testosterone và

nhóm những người không sử dụng về các chỉ số sau: số lượng noãn thu được, Số noãn MII, số lượng phôi,

tỷ lệ có thai và tỷ lệ có thai lâm sàng. số lượng noãn thu được, Số noãn MII, số lượng phôi, tỷ lệ có thai và tỷ

lệ có thai lâm sàng của nhóm bệnh nhân sử dụng androgel bôi da trước khi kích thích buồng trứng có kiểm

soát (COS) được tìm thấy không có sự khác biệt so với nhóm đối chứng. Việc sử dụng androgel trước khi

kích thích buồng trứng 6 tuần không cải thiện khả năng đáp ứng của người đáp ứng kém khi thực hiện IVF

pdf 8 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả điều trị bổ sung testosteron dạng gel trên bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả điều trị bổ sung testosteron dạng gel trên bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng

Hiệu quả điều trị bổ sung testosteron dạng gel trên bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020236
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG TESTOSTERON DẠNG GEL 
TRÊN BỆNH NHÂN GIẢM DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG
Hoàng Quốc Huy¹, , Hồ Sỹ Hùng¹,², Nguyễn Thu Thủy³, Nguyễn Viết Tiến¹,²
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc Gia - Bệnh viện Phụ sản Trung ương
³Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Nghiên cứu được thực hiện trên 100 phụ nữ có tiên lượng đáp ứng kém với kích thíc buồng trứng trong thụ 
tinh trong ống nghiệm (IVF) từ tháng 02 năm 2018 đến tháng 7 năm 2019 tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc 
Gia - Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả của androgel trước khi sử 
dụng kích thích buồng trứng có kiểm soát trên bệnh nhân thực hiện IVF có tiên lượng đáp ứng kém. Một nghiên 
cứu thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện để so sánh giữa nhóm bệnh nhân sử dụng gel testosterone và 
nhóm những người không sử dụng về các chỉ số sau: số lượng noãn thu được, Số noãn MII, số lượng phôi, 
tỷ lệ có thai và tỷ lệ có thai lâm sàng. số lượng noãn thu được, Số noãn MII, số lượng phôi, tỷ lệ có thai và tỷ 
lệ có thai lâm sàng của nhóm bệnh nhân sử dụng androgel bôi da trước khi kích thích buồng trứng có kiểm 
soát (COS) được tìm thấy không có sự khác biệt so với nhóm đối chứng. Việc sử dụng androgel trước khi 
kích thích buồng trứng 6 tuần không cải thiện khả năng đáp ứng của người đáp ứng kém khi thực hiện IVF. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Giảm dự trữ buồng trứng, testosteron dạng gel, thụ tinh trong ống nghiệm.
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng là 
một thách thức đối với các nhà thực hành lâm 
sàng trong thụ tinh trong ống nghiệm nói riêng 
và đối với cả công tác chăm sóc sức khỏe sinh 
sản của cộng đồng nói chung. Không chỉ ở Việt 
Nam mà trên toàn Thế giới vì nó ảnh hưởng 
trực tiếp đến khả năng sinh sản của người phụ 
nữ trong độ tuổi sinh đẻ và hạnh phúc gia đình 
cũng như toàn xã hội.
Kích thích buồng trứng có kiểm soát (COS) 
đã góp phần nâng cao tỷ lệ mang thai của phụ 
nữ được thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm 
(IVF) bằng cách tăng số lượng các nang noãn 
phát triển. Tuy nhiên, những người có đặc điểm 
dự trữ trứng giảm là những người đáp ứng 
kém, đáp ứng không tương ứng, mặc dù đã 
được dùng tối đa liều gonadotropin. Các phác 
đồ kích thích buồng trứng khác nhau đã được 
sử dụng cho việc quản lý những người đáp ứng 
kém. Hiện nay các phác đồ phổ biến nhất để 
điều trị cho họ là: phác đồ ngắn GnRH agonist, 
và phác đồ GnRH antagonist. Thật không may, 
không phác đồ nào trong các phác đồ này có 
hiệu quả, đặc biệt trong cải thiện việc đáp ứng 
buồng trứng trên những người người đáp ứng 
kém. 
Dự trữ buồng trứng là thuật ngữ dùng để 
đánh giá khả năng của buồng trứng tạo ra nang 
noãn và chất lượng của noãn. Giảm dự trữ 
buồng trứng thường gặp ở những phụ nữ trên 
35 tuổi và trên một số bệnh nhân vô sinh. Đánh 
Tác giả liên hệ: Hoàng Quốc Huy, Nghiên cứu sinh 
khóa 36, chuyên ngành Sản phụ khoa, Trường Đại 
học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 03/06/2020
Ngày được chấp nhận: 25/06/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020 237
giá dự trữ buồng trứng dựa vào tuổi của phụ 
nữ, xét nghiệm hormon hướng sinh dục đầu 
chu kỳ kinh, AMH, siêu âm số lượng nang thứ 
cấp (AFC) và một số thăm dò khác. Trong sự 
phát triển nang noãn, testosteron là tiền chất 
của estrogen, được tạo ra nhờ enzym vòng 
thơm xúc tác dưới sự kích thích của FSH. Ở 
mức độ phân tử, testosteron còn có tác dụng 
làm tăng tác dụng của FSH, kích thích phát 
triển nang noãn.¹ 
Các giải pháp điều trị bệnh nhân giảm dự trữ 
buồng trứng còn ít hiệu quả và chưa đạt được 
đồng thuận. Trong đó, sử dụng testosteron dưới 
dạng gel bôi ngoài da đã được một số nghiên 
cứu ở nước ngoài chứng minh làm tăng số noãn 
thu được, tăng tỷ lệ có thai lâm sàng và tăng tỷ 
lệ trẻ sơ sinh sống ở các phụ nữ đáp ứng kém 
với kích thích buồng trứng.2–4 Mặt khác, các 
nghiên cứu này cho thấy sử dụng testosteron 
an toàn và không có tác dụng phụ đáng kể ở 
liều điều trị.⁵ Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên 
cứu về sử dụng testosteron dạng gel ở bệnh 
nhân giảm dự trữ buồng trứng, do đó chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu là: so 
sánh kết quả thụ tinh trong ống nghiệm giữa 
nhóm có sử dụng testosteron dạng gel với 
nhóm không sử dụng testosteron dạng gel trên 
bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân thực hiện chu kỳ thụ tinh trong 
ống nghiệm.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Để phù hợp và đảm 
bảo tính đồng nhất của nghiên cứu, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu trên các bệnh nhân đồng 
ý tham gia nghiên cứu và có ít nhất 2 trong 3 
tiêu chuẩn sau chủ yếu dựa theo tiêu chuẩn 
Bologna 2011): 
+ Tiền sử có ít nhất một chu kỳ kích thích 
buồng trứng chọc hút thu được dưới 3 noãn
+ Số lượng nang thứ cấp ≤ 7 nang
+ AMH < 1,5 ng/ml.
Tiêu chuẩn loại trừ: Loại khỏi nghiên cứu 
các trường hợp có một trong các vấn đề sau:
+ Các trường hợp xin noãn
+ Bệnh lý tuyến giáp
+ Suy giảm chức năng gan, thận
+ Bất thường cơ quan sinh dục.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp 
có đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2018 
đến tháng 9 năm 2019.
Địa điểm nghiên cứu: tại Trung tâm Hỗ trợ 
sinh sản Quốc gia – Bệnh viện Phụ sản Trung 
Ương.
Chọn mẫu và cỡ mẫu: Áp dụng công thức 
tính cỡ mẫu:
n ( )
( ) (z z )
2
1
2
1
2
1
2
1 2
12= -
+ +#
n n
v v - -ba
Với μ1± σ1 = 5,4 ± 1,9 là số noãn chọc hút ở 
nhóm dùng testosteron; 
μ2 ± σ2 = 3,8 ± 1,4 là số noãn chọc hút ở 
nhóm chứng trong nghiên cứu của Kim C.H.³ 
Z1-α/2 = 1,96 tương ứng với độ tin cậy 95%; 
Z1-β = 1,64 tương ứng với độ mạnh 95% thì 
n = 28,19 là số bệnh nhân tối thiểu mỗi nhóm. 
Nghiên cứu của chúng tôi có 50 bệnh nhân 
ở mỗi nhóm, tổng số là 100 bệnh nhân đủ tiêu 
chuẩn. Trong tiến trình nghiên cứu bị mất theo 
dõi 18 bệnh nhân. Khi phân tích số liệu có 38 
bệnh nhân ở nhóm can thiệp và 44 bệnh nhân 
ở nhóm chứng.
Đối tượng nghiên cứu được phân ngẫu 
nhiên thành 2 nhóm: nhóm can thiệp và nhóm 
chứng bằng kỹ thuật bốc thăm ngẫu nhiên.
Nhóm can thiệp (nhóm 1): bệnh nhân được 
bôi testosterone dạng gel vào da bụng vùng 
quanh rốn 12,5 mg mỗi ngày trong 6 tuần 
trước khi tiêm FSH bắt đầu chu kỳ IVF. Loại 
testosterone dạng gel được dùng trong nghiên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020238
cứu là Androgel hàm lượng 50mg mỗi gói của 
hãng Besin Healthcare.
Nhóm chứng (nhóm 2): Bệnh nhân sẽ nhận 
FSH để bắt đầu chu kỳ IVF luôn mà không bôi 
testosterone dạng gel trước đó.
Các bước tiến hành nghiên cứu:
- Nhóm can thiệp (nhóm 1): Bệnh nhân bắt 
đầu bôi Androgel vào bất kỳ thời điểm trong 
chu kỳ kinh. Cách bôi như sau: hút toàn bộ gel 
trong gói thuốc vào bơm tiêm 3 ml. Mỗi ngày lấy 
đúng ¼ gói thuốc bôi vào vùng bụng quanh rốn. 
Mỗi gói thuốc chỉ sử dụng trong 2 ngày. Bảo 
quản thuốc trong bơm tiêm kín để ngăn mát tủ 
lạnh sau khi đã mở gói thuốc. Thời gian bôi liên 
tục trong 6 tuần. Bệnh nhân được kích thích 
buồng trứng vào ngày 2 chu kỳ kinh ngay sau 
khi đã sử dụng đủ testosterone trong 6 tuần. 
Định lượng testosterone trước và sau khi dùng 
thuốc 6 tuần. 
- Nhóm chứng (nhóm 2): Bệnh nhân sẽ 
được kích thích buồng trứng ngày thứ 2 chu kỳ 
kinh mà không bôi testosterone trước đó.
- Bệnh nhân 2 nhóm được siêu âm đếm 
nang cơ sở vào ngày 2 chu kỳ và được kích 
thích buồng trứng bằng phác đồ Antagonist với 
FSH tái tổ hợp với liều khởi đầu từ 300 đến 450 
IU/ngày (Gonal-F hoặc Puregon). Antagonist 
được sử dụng từ ngày 6 tiêm FSH.
- Siêu âm lại được thực hiện vào ngày 6 và 
ngày 8 tiêm FSH. Lịch siêu âm tiếp theo là ngày 
9 hoặc ngày 10 tiêm FSH phụ thuộc kết quả 
siêu âm kích thước nang noãn trước đó. 
- Bệnh nhân được chỉ định tiêm hCG khi có 
ít nhất 1 nang đường kính ≥ 18 mm, hoặc 2 
nang đường kính ≥ 17 mm. 
- Vào ngày tiêm hCG, bệnh nhân được siêu 
âm đo niêm mạc tử cung, định lượng nồng độ 
estradiol (E2) và progesterone.
- Chọc hút noãn được tiến hành 36h sau 
tiêm hCG.
- Chuyển phôi tươi ngày 3.
- Hỗ trợ hoàng thể: 800 mg progesterone vi 
hạt duy trì đến khi thai 12 tuần.
- Đánh giá kết quả chuyển phôi:
+ Thử nồng độ βhCG huyết thanh vào ngày 
14 sau chuyển phôi. Nếu βhCG ≥ 25 mIU/ml 
xác định là có thai.
+ Siêu âm đầu dò âm đạo 2 tuần sau thử 
βhCG: nếu quan sát thấy túi ối trong buồng tử 
cung xác định là có thai lâm sàng.
Các biến số nghiên cứu
- Tuổi, BMI, thời gian vô sinh
- Dự trữ buồng trứng (FSH, LH, E2, AMH và 
Testosteron), AFC.
- Liều FSH khởi đầu, tổng liều FSH, số ngày 
dùng FSH, nồng độ E2, độ dày niêm mạc tử 
cung, số lượng noãn chọc hút, số noãn trưởng 
thành (M II), tỷ lệ hủy chu kỳ.
- Tổng số phôi thu được, số lượng phôi 
chuyển, số phôi đông lạnh, tỷ lệ có thai, tỷ lệ 
thai sinh hóa, tỷ lệ thai lâm sàng.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đề tài được chấp thuận Đạo đức nghiên 
cứu y sinh học của Hội đồng đạo đức Đại 
học Y Hà Nội số 26NCS17/HĐĐĐĐHYHN ký 
ngày 08 tháng 02 năm 2018. Bệnh nhân hoàn 
toàn tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Các 
thông tin cá nhân được bảo mật.
III. KẾT QUẢ
Tổng số có 82 bệnh nhân được tuyển chọn 
vào nghiên cứu, trong đó có 38 bệnh nhân thuộc 
nhóm can thiệp được sử dùng testosteron gel 
6 tuần trước kích thích buồng trứng và 44 bệnh 
nhân nhóm chứng không được dùng thuốc.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020 239
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm can thiệp 
(n = 38)
Nhóm chứng 
(n = 44)
p
Tuổi 34,9 ± 7,3 36,9 ± 4,9
0,138
≤ 35 tuổi 15 (39,4 %) 14 (31,8 %)
35 - 40 tuổi 18 (47,4 %) 19 (43,2 %)
> 40 tuổi 5 (13,2 %) 11(25,0 %)
Thời gian vô sinh 5,1 ± 3,1 4,7 ± 3,3
0,53
 ≤ 5 năm 17 (44,7 %) 28 (62,7 %)
 5 - 10 năm 18 (47,4%) 14 (32,6 %)
 > 10 năm 3 (7,9%) 2 (4,7 %)
BMI 20,9 ± 4,1 21,1 ± 3,5
0,863
≤ 18,5 0 (0,0 %) 1 (2,3 %)
18,5 - 22,9 26 (68,4 %) 32 (72,7 %)
23 - 24,9 10 (26,3 %) 11 (25,0 %)
≥ 25 2 (5,3%) 0 (0,0 %)
Nồng độ FSH (IU/l) 8,4 ± 3,8 8,2 ± 2,5 0,79
Nồng độ LH (IU/l) 4,4 ± 1,9 4,5 ± 1,9 0,878
Nồng độ E2 ngày 2 chu kỳ (pg/ml) 35,9 ± 16,9 40,6 ± 16,7 0,214
Nồng độ AMH (ng/ml) 1,0 ± 0,3 0,9 ± 0,4 0,166
AFC (nang) 6,2 ± 3,2 5,9 ± 2,5 0,48
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về độ tuổi, 
thời gian mong con, chỉ số khối cơ thể trong chu 
kỳ kích thích buồng trứng lần này. 
Tuổi trung bình cả hai nhóm khoảng 36 tuổi, 
trong đó độ tuổi chiếm tỷ lệ nhiều nhất là từ 35 - 
40 tuổi (từ 43 - 47%), bệnh nhân ở độ tuổi ≤ 35 
tuổi chiếm khoảng ¹/3 tổng số bệnh nhân. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về các đặc điểm cận lâm sàng giữa nhóm can 
thiệp và nhóm chứng trong chu kỳ kích thích 
buồng trứng lần này. Xét nghiệm nội tiết đầu 
chu kỳ các chỉ số FSH, LH, E2 trong ngưỡng 
giới hạn bình thường. 
2.Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm giữa 
hai nhóm can thiệp và nhóm chứng
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về liều 
khởi đầu FSH và tổng liều FSH trong chu kỳ 
kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, số ngày sử 
dụng FSH ở nhóm can thiệp ngắn hơn rõ rệt 
so với nhóm chứng (9,4 ngày so với 9,8 ngày; 
p = 0,02).
Nồng độ E2 ngày tiêm hCG và độ dày niêm 
mạc tử cung ngày chuyển phôi ở nhóm can 
thiệp không có sự khác biệt so với nhóm chứng. 
Kết quả nghiên cứu về tổng số noãn thu 
được và số noãn trưởng thành cũng không thấy 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020240
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng.
Bảng 2. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm
Biến số
Nhóm can thiệp
(n = 38)
Nhóm chứng
(n = 44)
p
Liều FSH khởi đầu (IU/ngày) 384,2 ± 69,6 377,8 ± 59,8 0,657
Số ngày dùng FSH (ngày) 9,4 ± 0,9 9,8 ± 0,9 0,02
Tổng liều FSH (IU) 3507,9 ± 862,1 3603,5 ± 822,3 0,609
Nồng độ E2 ngày tiêm hCG (pg/ml) 1592,9 ± 995,9 1960,5 ± 1018,7 0,104
Độ dày NMTC ngày chuyển phôi (mm) 9,9 ± 2,5 10,6 ± 1,6 0,098
Tổng số noãn thu được 5,6 ± 3,8 5,4 ± 2,6 0,815
Số noãn trưởng thành 4,5 ± 3,2 4,5 ± 2,1 0,96
Tổng số phôi tạo được 3,4 ± 2,3 3,6 ± 1,7 0,636
Số phôi chuyển 2,2 ± 0,8 2,3 ± 1,1 0,835
Số phôi đông lạnh 1,0 ± 1,6 1,2 ± 1,6 0,58
Tỷ lệ có thai 10 (26,3 %) 7(15,9 %) 0,246
Tỷ lệ thai sinh hóa 3(7,9) 0(0,0) 0,058
Tỷ lệ thai lâm sàng 7(18,4 %) 7(15,9 %) 0,763
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng số phôi, số phôi chuyển và số phôi đông lạnh 
trong chu kỳ IVF lần này giữa hai nhóm. 
Tỷ lệ có thai, tỷ lệ thai sinh hóa và tỷ lệ thai lâm sàng cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng.
Bảng 3. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm theo nhóm tuổi
Biến số
Nhóm can thiệp Nhóm chứng
P1 P2
≥ 35 tuổi
(A)
(n = 23)
< 35 tuổi
(B)
(n = 15)
P
≥ 35 tuổi
(C)
(n = 23)
< 35 tuổi
(D)
(n = 15)
P
Liều FSH 
khởi đầu (IU)
397,83 ± 62,1 363,3 ± 77,3 0,137 400,8 ± 52,3 328,6 ± 43,7 0,00 0,849 0,151
Số ngày 
dùng FSH 
(ngày)
9,2 ± 0,9 9,6 ± 0,7 0,179 9,6 ± 1,0 10,3 ± 0,7 0,21 0,196 0,018
Tổng liều 
FSH (IU)
3633,7 ± 612,4 3315,0 ± 1144,23 0,334 3841,8 ± 674,6 3092,9 ± 899,6 0,004 0,252 0,568
Nồng độ E2 
ngày tiêm 
hCG (pg/ml)
1660,8 ± 
1115,4
1488,9 ± 804,5 0,610 1874,8 ± 988,3 2144,2 ± 1095,5 0,42 0,463 0,076
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020 241
Độ dày 
NMTC ngày 
chuyển phôi 
(mm)
9,9 ± 2,4 9,9 ± 2,7 0,954 10,7 ± 1,7 10,5 ± 1,3 0,75 0,145 0,449
Tổng số 
noãn thu 
được
5,1 ± 3,3 6,2 ± 4,6 0,406 5,4 ± 2,9 5,4 ± 1,7 0,94 0,782 0,559
Số noãn 
trưởng thành
4,3 ± 2,5 4,8 ± 4,2 0,623 4,4 ± 2,2 4,7 ± 1,9 0,658 0,814 0,945
Tổng số phôi 3,4 ± 2,3 3,3 ± 2,5 0,941 3,5 ± 1,7 3,9 ± 1,7 0,465 0,918 0,511
Số phôi 
chuyển
2,3 ± 0,8 2,1 ± 0,8 0,627 1,9 ± 1,1 3,0 ± 0,8 0,001 0,176 0,008
Số phôi 
đông
0,9 ± 1,4 1,1 ± 2,0 0,692 1,4 ± 1,7 0,9 ± 1,6 0,304 0,254 0,686
Tỷ lệ có thai 7 (30,4 %) 3 (20,0 %) 0,475 7 (23,3 %) 0 (0,0 %) 0,049 0,561 0,077
Tỷ lệ thai 
sinh hóa
2 (8,7 %) 1 (6,7 %) 0,821 0 (0,0 %) 0(0,0 %) - 0,1 0,326
Tỷ lệ thai 
lâm sàng
5 (21,7 %) 2(13,3 %) 0,514 7 (23,3 %) 0 (0,0 %) 0,049 0,891 0,157
P1: So sánh A với C
P2: So sánh B với D
IV. BÀN LUẬN
Tiêu chuẩn chẩn đoán giảm dự trữ buồng 
trứng trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 
2 trên 3 tiêu chuẩn: (1) Có ít nhất một chu kỳ 
kích thích buồng trứng chọc hút được < 3 noãn, 
(2) Số lượng nang thứ cấp ≤ 7 nang và AMH < 
1,5 ng/ml. Các tiêu chuẩn này tương tự với tiêu 
chuẩn của đồng thuận Bologna năm 2011 về 
giảm dự trữ buồng trứng.³ Các tiêu chuẩn của 
chúng tôi có sự khác biệt với tiêu chuẩn lựa 
chọn bệnh nhân nghiên cứu của tác giả Kim và 
cộng sự,⁶ Fabregues và cộng sự.² Các tác giả 
này lựa chọn đối tượng nghiên cứu dựa vào số 
noãn chọc hút được ở chu kỳ trước < 3 noãn. 
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu của 
tác giả Đoàn Thị Hằng và cộng sự¹ bao gồm 
AFC < 5 - 7 nang hoặc AMH ≤ 1,26 ng/ml. 
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng việc 
sử dụng testeosterone gel với liều 12,5 mg/42 
ngày trước khi kích trứng không làm gia tăng 
số lượng nang noãn thu được, số noãn trưởng 
thành cũng như tỷ lệ có thai lâm sàng, ngoại trừ 
số ngày sử dụng FSH giảm ở nhóm can thiệp 
có ý nghĩa thống kê
Kết quả của nghiên cứu về số lượng nang 
noãn thu được không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu và 
nhóm chứng (4,5 ± 3,2 và 4,5 ± 2,1, p = 0,815). 
Kết quả trên cũng tương tự như tác giả Bosdou 
và cộng sự năm 2016 khi nghiên cứu trên 50 
bệnh nhân có sử dụng testosterone bôi da liều 
10 mg/21 ngày cũng không làm gia tăng số 
lượng nang noãn thu được6. Massin và cộng 
sự năm 2006 nghiên cứu trên 49 bệnh nhân khi 
sửu dụng testosterone gel với liều 10mg/ngày 
trong khoảng thời gian tử 15 - 21 ngày. Kết quả 
cũng chỉ ra rằng không có sự khác biệt về số 
lượng nang noãn thu được.⁷ Saharkhiz và cộng 
sự năm 2016 nghiên cứu trên 26 bệnh nhân 
sử dụng testosterone gel với liều 25 mg/ngày 
trong khoảng thời gian 4,4 ± 1,2 ngày cho kết 
quả không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về số noãn thu được.⁸
Tuy nhiên, ngược lại với kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi, Kim và cộng sự năm 2011 khi 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020242
nghiên cứu can thiệp có đối chứng 110 bệnh 
nhân sử dụng testosterone bôi da liều 12,5 mg/
ngày trong 21 ngày cho kết quả có sựu gia tăng 
rõ rệt có ý nghĩa thống kê số lượng nang noãn 
thu được ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng 
(5,4 ± 1,9 và 3,8 ± 1,4, p < 0,001).³ Cùng tác giả 
này năm 2014 khi nghiên cứu trên 120 bệnh 
nhân chia thành 3 nhóm can thiệp sử dụng 
testosterone bôi 2,3,4 tuần và nhóm chứng. Kết 
quả cho thấy số noãn thu được cũng cao hơn 
có ý nghĩa thống kê đặc biệt ở nhóm 4 tuần (5,8 
± 1,9 và 3,9 ± 1,3, p < 0,001).⁴ Đoàn Thị Hằng 
và cộng sự năm 2017 nghiên cứu trên 110 bệnh 
nhân có sử dụng testosterone gel liều 12,5 mg/
ngày trong 21 ngày cũng cho kết quả số lượng 
noãn thu được cao hơn có ý nghĩa thống kê ở 
nhóm can thiệp so với nhóm chứng.⁹
Theo một số tác giả trước đây khi nghiên 
cứu về vai trò của việc bổ sung testosterone 
bôi da trước khi kích thích buồng trứng có kiểm 
soát chỉ ra rằng: testosterone có thể cải thiện 
tác dụng của FSH đối với buồng trứng,10,11 cũng 
chính vì lẽ đó sẽ làm gia tăng số lượng noãn 
thu được và do đó sẽ làm gia tăng tỷ lệ có thai 
lâm sàng.
Tuy nhiên ở nghiên cứu của chúng tôi, kết 
quả cho thấy tỷ lệ có thai và tỷ lệ có thai lâm 
sàng có xu hướng tăng lên tuy nhiên không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm 
sử dụng tesotsterone bôi 6 tuần so với nhóm 
chứng tương ứng (26,3% và 15,9%, p = 0,246), 
(18,4% và 15,9%, p = 0,763). Cùng kết quả với 
nghiên cứu của chúng tôi Massin và công sự 
năm 2006 chỉ ra rằng không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu.⁷ 
Bosdou và cộng sự năm 2016 cũng cho kết quả 
tương tự (7,7% và 8,3%, không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê).⁶ Ngược lại với kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi thì tác giả Kim và cộng sự 
năm 2011 chứng minh có sự khác biệt về tỷ lệ 
có thai lâm sàng giữa nhóm can thiệp và nhóm 
chứng (30,9% và 14,5%, p = 0,041).³ Năm 2014 
Kim và cộng sự khi nghiên cứu trên 120 bệnh 
nhân chia 4 nhóm thì kết quả thu được khác 
biệt rõ rệt nhất ở nhóm sử dụng testosterone 4 
tuần (36,7% và 10%, p < 0,03).⁴ Đoàn Thị Hằng 
năm 2017 cũng báo cáo trên 110 bệnh nhân 
sử dụng testosterone 12,5 mg/ngày trong 21 
ngày cho kết quả như sau (21,8% và 7,7%, p 
= 0,04).⁹
V. KẾT LUẬN
Sử dụng 6 tuần testosteron bôi da trước khi 
kích thích buồng trứng không làm cải thiện các 
kết quả của thụ tinh trong ống nghiệm ở nhóm 
bệnh nhận có dự trữ buồng trứng giảm. Thể 
hiện trên số noãn thu được, số noãn trưởng 
thành, số phôi thu được, số phôi đông lạnh, tỷ 
lệ thai lâm sàng là tương đương giữa nhóm có 
sử dụng testosteron trước khi kích thích buồng 
trứng và nhóm không được sử dụng.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, 
giúp đỡ của lãnh đạo Bệnh viện Phụ sản Trung 
Ương, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia và 
các bệnh nhân tiên lượng đáp ứng kém trong 
IVF đã tham gia nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Weil SJ, Vendola K, Zhou J, et al. Androgen 
receptor gene expression in the primate ovary : 
cellular localization, regulation, and functional 
correlations. 1998; 83: 2479 - 2485.
2. Fabreques F, Penarurubia J, Creus M, et al. 
Transdermal testosterone may improve ovarian 
response to gonadotropins in low-repsonder 
IVF patiens: a randomized, clinicaltrial. 2009; 
22: 1380 - 1383.
3. Kim CH, Howles CM, Lee HA. The effects 
of transdermal testosterone gel pretreatment on 
controlled ovarian stimulation and IVF outcome 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 128 (4) - 2020 243
in low responders. 2011; 95: 679 - 683.
4. Kim CH, Ahn JW, Moon JW, Kim SH, Chae 
HD, Kang BM. Ovarian Features after 2 Weeks, 3 
Weeks and 4 Weeks Transdermal Testosterone 
Gel Treatment and Their Associated Effect 
on IVF Outcomes in Poor Responders. 
Development & Reproduciton. 2014; 18(3): 145 
- 152. doi:10.12717/DR.2014.18.3.145
5. Goldstat R, Briganti E, Tran J, Wolfe R, 
Davis SR. Transdermal testosterone therapy 
improves well-being, mood, and sexual function 
in premenopausal women: Menopause. 
2003; 10(5): 390 - 398. doi:10.1097/01.
GME.0000060256.03945.20
6. Bosdou JK, Venetis CA, Dafopoulos K, 
et al. Transdermal testosterone pretreatment in 
poor responders undergoing ICSI: a randomized 
clinical trial. Human Reproduction. 2016; 31(5): 
977 - 985. doi:10.1093/humrep/dew028
7. Massin N, Cedrin-Durnerin I, Coussieu C, 
Galey-Fontaine J, Wolf JP, Hugues J-N. Effects 
of transdermal testosterone application on the 
ovarian response to FSH in poor responders 
undergoing assisted reproduction technique - a 
prospective, randomized, double-blind study. 
Human Reproduction. 2006; 21(5): 1204 - 1211. 
doi:10.1093/humrep/dei481
8. Saharkhiz N, Zademodares S, 
Salehpour S, Hosseini S, Nazari L, Tehrani 
H. The effect of testosterone gel on fertility 
outcomes in women with a poor response in 
in vitro fertilization cycles: A pilot randomized 
clinical trial. J Res Med Sci. 2018; 23(1): 3. 
doi:10.4103/jrms.JRMS_864_17
9. Doan HT, Quan LH, Nguyen TT. The 
effectiveness of transdermal testosterone gel 
1% (androgel) for poor responders undergoing in 
vitro fertilization. Gynecological Endocrinology. 
2017; 33(12): 977 - 979. doi:10.1080/0951359
0.2017.1332586
10. Humaidan P, Ejdrup Bredkjær H, 
Bungum L, et al. GnRH agonist (buserelin) or 
hCG for ovulation induction in GnRH antagonist 
IVF/ICSI cycles: a prospective randomized 
study. Human Reproduction. 2005; 20(5): 1213 
- 1220. doi:10.1093/humrep/deh765
11. Walters KA. Role of androgens in 
normal and pathological ovarian function. 
Reproduction. 2015; 149(4): R193 - R218. 
doi:10.1530/rep-14-0517.
Summary
EFFECTS OF TRANSDERMAL TESTOSTERONE GEL PRE-
TREATMENT ON INVITRO FERTILIZATION IN PATIENTS 
WITH POOR OVARIAN RESERVE
The study was conducted on 100 poor responders undergoing in vitro fertilization (IVF) from 
February 2018 to July 2019 at the National Center for Assisted Reproductive Technology. The 
purpose of the study was to evaluate the effectiveness of Androgel before using controlled ovarian 
stimulation in patients on IVF who had a poor response prognosis. A clinical trial study was conducted 
to compare patients using testosterone gel with patients without gel for the following indicators: 
number of oocytes collected, number of oocytes, number of embryos, pregnancy rate percentage 
and clinical pregnancy rate. There was no difference in the number of oocytes collected, MII oocytes, 
number of embryos, pregnancy rates, and clinical pregnancy rates. The use of Androgel 6 weeks 
before ovulation stimulation did not improve the responsiveness of the poor responders during IVF. 
Key words: Testosterone, IVF, poor ovarian reserve

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_dieu_tri_bo_sung_testosteron_dang_gel_tren_benh_nha.pdf