Hiệu quả của việc mang găng sạch cầm gòn cồn trong sát khuẩn da khi tiêm bắp
TÓM TẮT
Hàng năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm cho người bệnh trong khi 50% số mũi tiêm đó lại không an toàn
(WHO, 2006). Một trong những nguyên nhân gây nên những mũi tiêm không an toàn là do việc sát khuẩn da
không hiệu quả. Theo giáo trình hiện nay tại các trường đào tạo cho nhân viên y tế yêu cầu phải có một bình
đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát trùng da cho mỗi bệnh nhân, tuy nhiên chỉ khoảng 21% điều dưỡng
thực hiện đúng phương pháp trên tại lâm sàng.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của việc mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn
da trước khi tiêm thuốc.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn với 210 mũi tiêm bắp trên bệnh nhân tại khoa
Ngoại bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay sạch
cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm khuẩn, thời gian thực hiện, nhưng lại khác biệt về chi phí cho dụng cụ.
Kết luận: Sát trùng da khi tiêm thuốc nên sử dụng tay mang găng cầm gòn cồn để sát khuẩn da thì vừa an
toàn vừa kinh tế so với phương pháp sát khuẩn da bằng kềm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của việc mang găng sạch cầm gòn cồn trong sát khuẩn da khi tiêm bắp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 248 HIỆU QUẢ CỦA VIỆC MANG GĂNG SẠCH CẦM GÒN CỒN TRONG SÁT KHUẨN DA KHI TIÊM BẮP Đoàn Thị Anh Lê*, Lê Thị Tầm*,Trần Thị Hồng Thắm*, Trần Mỹ Bình*, Phạm Thị Ánh Hương*, Nguyễn Thị Phương Lan* TÓM TẮT Hàng năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm cho người bệnh trong khi 50% số mũi tiêm đó lại không an toàn (WHO, 2006). Một trong những nguyên nhân gây nên những mũi tiêm không an toàn là do việc sát khuẩn da không hiệu quả. Theo giáo trình hiện nay tại các trường đào tạo cho nhân viên y tế yêu cầu phải có một bình đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát trùng da cho mỗi bệnh nhân, tuy nhiên chỉ khoảng 21% điều dưỡng thực hiện đúng phương pháp trên tại lâm sàng. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của việc mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn với 210 mũi tiêm bắp trên bệnh nhân tại khoa Ngoại bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương. Kết quả: Không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay sạch cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm khuẩn, thời gian thực hiện, nhưng lại khác biệt về chi phí cho dụng cụ. Kết luận: Sát trùng da khi tiêm thuốc nên sử dụng tay mang găng cầm gòn cồn để sát khuẩn da thì vừa an toàn vừa kinh tế so với phương pháp sát khuẩn da bằng kềm. Từ khóa: Sát khuẩn da, tiêm bắp. ABSTRACT THE EFFECTIVENESS OF CLEANSING SKIN WITH ALCOHOL COTTON BALL BY USING CLEAN GLOVES BEFORE INJECTION INTRAMUSCULAR Đoan Thi Anh Le, Le Thi Tam,Tran Thi Hong Tham, Tran My Binh, Pham Thi Anh Huong, Nguyen Thị Phuong Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 248‐ 255 Every year, there are about 16 billion injections for patients while 50% of the shots that are not safe (WHO, 2006). One of the causes of unsafe injections is due to the effectiveness of disinfect skin before injection. Under the current curriculum in schools for health workers, it’s required to have a sterile forceps to disinfect the skin for each patient before injection, but only about 21% of nurses have done the right techniques on the clinical settings. Objective: To assess the effectiveness of cleansing skin with alcohol cotton ball by using gloves before injection. Methodology: Single‐blind clinical trial with intramuscular injections in 210 patients in Surgical ward of National Hospital of Odonto Stomatology. Results: No difference between the use of gloves and sterile forceps to cleanse the skin with alcohol cotton ball before injection in on infection rates, execution time, but the difference in cost for the tool. Conclusion: Skin disinfectant before injection using gloved hands holding alcohol cotton ball to swab the skin is safe and more economical than using sterile forceps. Keywords: Skin infection, intramuscular * Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Ths Đoàn Thị Anh Lê ĐT: 0989035428 Email: doanthianhle@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 249 ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, số lượng mũi tiêm cho người bệnh ngày càng cao, có khoảng 16 tỷ mũi tiêm được thực hiện trong một năm, trung bình 1,5 mũi tiêm/người/năm(20). Ở Việt Nam, Phạm Đức Mục báo cáo trong hội thảo cơ sở về tiêm an toàn 20/12/2006 tình hình lạm dụng thuốc tiêm trong điều trị khá cao, tại tuyến cơ sở một bệnh nhân phải nhận trung bình 2,2 mũi tiêm/ngày. Theo báo cáo năm 2008 của bệnh viện Nhi Trung Ương, hàng năm có khoảng 80% bệnh nhi được điều trị bằng đường tiêm. Ngoài ra tình hình tiêm không an toàn đặc biệt là ở các nước đang phát triển, rất cao, 50% mũi tiêm không an toàn(20), gây thiệt hại 585 triệu USD mỗi năm và làm 1,3 triệu người tử vong. Cũng theo nghiên cứu của Varga và cộng sự năm 2006 đã đưa ra kết luận việc sát khuẩn da không đúng gây ra các biến chứng tại chỗ như abcess nóng, lạnh, viêm màng ngoài tim đặc biệt là đối với những người bệnh có nguy cơ cao như nhiễm HIV, suy giảm miễn dịch(19) Theo báo cáo về nghiên cứu tiêm an toàn của Đòan Thị Anh Lê (2006) thì áp lực công việc của một điều dưỡng quá lớn (69% điều dưỡng thực hiện 30‐50 mũi tiêm /một cas trực), ngoài ra qua nghiên cứu này còn cho thấy chỉ có 21% điều dưỡng sát khuẩn da bằng gòn cồn vô khuẩn liên quan đến việc hạn chế về dụng cụ để thực hiện kỹ thuật một mũi tiêm, như sử dụng cùng một bình đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát khuẩn da cho nhiều bệnh nhân(2). Theo giáo trình hiện nay tại các trường đào tạo cho nhân viên y tế yêu cầu phải có một bình đựng kềm và một kềm vô khuẩn dùng sát trùng da cho mỗi bệnh nhân(3). Trong khi đó, sách điều dưỡng cơ bản của Crisp và Taylor (2009) nói về kỹ thuật tiêm cho rằng việc chuẩn bị da trước khi tiêm chỉ cần dùng tay mang găng sạch cầm gòn để sát khuẩn da(5). Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm so sánh có hay không sự khác biệt về hiệu quả giữa phương pháp sát khuẩn da bằng cách dùng kềm vô khuẩn gắp gòn tẩm cồn 700 và mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc. Và qua kết quả nghiên cứu này, chúng tôi mong có được một phương pháp sát khuẩn vùng da trước khi tiêm đảm bảo an toàn và khả thi. Câu hỏi nghiên cứu Có sự khác biệt về nguy cơ nhiễm khuẩn và khả thi giữa việc dùng kềm vô khuẩn gắp gòn tẩm cồn 700 và mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc không? Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Đánh giá hiệu quả của việc mang găng tay sạch cầm gòn tẩm cồn 700 để sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc. Mục tiêu cụ thể So sánh tình trạng nhiễm trùng do sát khuẩn da giữa phương pháp dùng kềm vô khuẩn kẹp gòn và mang găng sạch cầm gòn tẩm cồn 700 trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc nhóm (A) và nhóm (B). So sánh thời gian thực hiện mũi tiêm giữa 2 phương pháp sát khuẩn da bằng cách dùng kềm vô khuẩn kẹp gòn và mang găng sạch cầm gòn tẩm cồn 700 trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc nhóm (A) và nhóm (B). So sánh sự khả thi giữa 2 phương pháp sát khuẩn da bằng cách dùng kềm vô khuẩn kẹp gòn và mang găng sạch cầm gòn tẩm cồn 700 trữ trong hộp trước khi tiêm thuốc nhóm (A) và nhóm (B). Tổng quan tài liệu Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, mũi tiêm an toàn là mũi tiêm được thực hiện có sử dụng dụng cụ thích hợp, không gây hại cho người được tiêm, không gây nguy cơ phơi nhiễm cho người thực hiện tiêm và không tạo chất thải nguy hại cho người khác (WHO/BCT/01.02. WHO/V&B/01.30), và thông điệp tiêm an toàn của Tổ Chức Y Tế Thế Giới được truyền tải rộng rãi là không gây hại cho Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 250 người được tiêm, không tạo khả năng phơi nhiễm với bất cứ nguy cơ nào cho cán bộ y tế, không tạo ra chất thải gây nguy hại cho cộng đồng và cũng để giữ an toàn cho mũi tiêm, tổ chức này cũng đưa ra những tiêu chí tránh gây nhiễm bẩn cho dụng cụ và thuốc tiêm như: phải tuân thủ kỹ thuật vô trùng khi tiêm, rửa tay hoặc chà tay với dung dịch chứa cồn, chuẩn bị bề mặt da sạch, không chạm vào phần kim tiêm tiếp xúc với tế bào trên cơ thể bệnh nhân. Do vậy, việc chuẩn bị vùng da sạch trước khi tiêm cũng ngăn ngừa các nguy cơ tai biến khi tiêm. Theo Pratt (2005), việc sát khuẩn vùng tiêm trước khi tiêm bắp và tiêm dưới da được dùng phổ biến nhất là sử dụng cồn Isopropyl 700 bão hòa(12). Mục đích của việc sát khuẩn vùng da trước tiêm là để loại bỏ các vi sinh vật có nguy cơ gây hại ra khỏi bề mặt da. Tuy nhiên có nhiều nghiên cứu cho những ý kiến trái chiều trong việc sát khuẩn vùng da trước khi tiêm. Nghiên cứu của Sutton (1999) chứng minh việc sử dụng cồn Isopropyl 700 sát khuẩn da trước khi tiêm thuốc là không cần thiết, và kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ không nhiễm khuẩn của nhóm có dùng cồn isopropyl 700 là 85% và không dùng cồn sát khuẩn da là 87%(18), như vậy việc dùng cồn sát khuẩn da trước khi tiêm không có ý nghĩa bắt buộc là phải vô khuẩn tuyệt đối mà chỉ là vô khuẩn nội khoa có nghĩa là chỉ cần làm sạch da. Hơn thế nữa, theo khuyến cáo của Sở Y tế Luân Đôn, Anh (2006), và một nghiên cứu của Hutin và cộng sự (2003) cũng cho rằng, việc sát khuẩn vùng da trước khi tiêm bắp và dưới da là không cần thiết, trừ khi ta quan sát thấy vùng da trước tiêm bị dơ thì cần phải làm sạch da trước với nước và xà phòng(7,9). Hai nghiên cứu trên cũng chứng minh được rằng việc làm sạch da trước khi tiêm quan trọng hơn dùng gòn cồn sát khuẩn da. Một nghiên cứu của Koivisto và Felig (1978) khi so sánh hơn 3400 mũi tiêm insulin ở hai nhóm sát khuẩn và không sát khuẩn da trước khi tiêm cũng cho thấy được rằng: mặc dù sử dụng cồn isopropyl 70o để sát khuẩn da trước tiêm có làm giảm số lượng vi khuẩn trên da từ 82‐91%, tuy nhiên lại không có bất kì dấu hiệu nhiễm trùng tại chỗ hay hệ thống giữa hai nhóm nghiên cứu(10). Điều này cũng kết luận rằng mặc dù trên da có rất nhiều vi khuẩn/ bào tử, tuy nhiên, phần lớn chúng là những vi khuẩn không gây bệnh, và với số lượng không nhiều để có thể gây nhiễm trùng nơi tiêm. Và theo ấn bản 2003 của Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo không cần thiết phải sát khuẩn vùng da trước khi tiêm bắp và dưới da, nhưng với thói quen làm việc hàng ngày, nhiều bệnh viện vẫn sát khuẩn vùng da trước khi tiêm bắp hay dưới da. Có đến 78% nhân viên y tế ở 1 bệnh viện ở Anh vẫn sát khuẩn vùng da như bình thường mặc dù đã có khuyến cáo không cần thiết(9). Ở Việt Nam, trong các giáo trình giảng dạy Điều dưỡng và thực hành Điều dưỡng tại bệnh viện, chúng ta vẫn đang áp dụng việc sát khuẩn da trước khi tiêm(3). Ngoài ra theo nghiên cứu của nhóm kiểm soát nhiễm khuẩn ở Scotland đã chứng minh rằng nếu dùng cồn sát khuẩn da như cách truyền thống thì phải sử dụng đúng qui cách như vậy mũi tiêm mới an toàn, nghĩa là phải sử dụng cồn 70o sát khuẩn da ít nhất 30 giây, sau đó để khô ít nhất 30 giây, để vi khuẩn nơi vùng da bị bất hoạt thì mới tiêm(16). Và cũng theo nghiên cứu này thì bất lợi lớn nhất của việc sát trùng da là không có tác dụng trên vùng da bẩn và không nên trữ gòn tẩm cồn trong hộp để sử dụng nhiều lần(16). ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn Thời gian nghiên cứu Tháng 6/ 2010 – tháng 8/ 2011 tại khoa Ngoại bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các mũi tiêm bắp được thực hiện trực tiếp qua da tại vị trí mông trên bệnh nhân tại các khoa ngoại của bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương. Chỉ tiêm một mũi tiêm cho Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 251 mỗi bệnh nhân. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tất cả các bệnh nhân được chỉ định tiêm bắp ở vùng mông. Tiêu chuẩn loại trừ Các bệnh nhân đang sốt cao, có kết quả công thức máu với BC đa nhân trung tính cao trên 8000/QT 40, có các bệnh lý về da tại vùng mông như chốc ghẻ, chàm Mẫu được chọn ngẫu nhiên thuận tiện, chia làm 2 nhóm Bệnh nhân của mỗi khoa phòng khi được chọn đều được đánh số ngẫu nhiên 1,2 chia thành 2 nhóm A (1), B (2) Nhóm A: dùng kềm vô khuẩn (một kềm dùng cho 1 bệnh nhân) kẹp gòn tẩm cồn 700 (trữ trong hộp) trước khi tiêm. (như trong giáo trình) Nhóm B: dùng tay mang găng cầm gòn tẩm cồn 700 (trữ trong hộp) trước khi tiêm (cũng có cầm kềm vô khuẩn nhưng có ý nghĩa như kềm tiếp liệu do không chạm trên BN, chỉ dùng tiếp liệu gòn qua tay). Cỡ mẫu n = Z2. P (1‐ P)/ d2 Với tỉ lệ không nhiễm trùng 85%; Z0,975 = 0,96; P = 0,85; d = 0,05; n = 196 Phương pháp nghiên cứu Tiến trình nghiên cứu Tổng quan tài liệu Huấn luyện nhóm nghiên cứu về các phương pháp sát khuẩn da với kềm kẹp và bằng tay mang găng. Phân chia mẫu nghiên cứu thành 3 nhóm, mỗi nhóm sử dụng một phương pháp sát khuẩn da trước khi tiêm cho người bệnh (ngẫu nhiên). Thực hiên nghiên cứu thăm dò trên nhóm nhỏ (10 bệnh nhân) Sơ đồ nghiên cứu Thu thập số liệu Người thực hiện tiêm: gồm có 12 điều dưỡng viên trình độ trung cấp. Chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm có 6 người trong đó chia làm 3 ca trực sáng, chiều, đêm. Được huấn luyện tùy theo phương pháp sát khuẩn da được phân công. Nghiên cứu thử trước và đánh giá dựa trên bảng kiểm bởi 3 giáo viên để tính mức độ khác biệt. Định nghĩa các từ khoá Sự an toàn: Tình trạng không nhiễm khuẩn vùng tiêm sau khi tiêm (biến số đo đạc: sưng, đỏ, nóng, đau, số lượng bach cầu trong máu) Sự tiện lợi: Tiện lợi cho người thực hiện mũi tiêm (thời gian tính từ khi bắt đầu tiêm cho đến khi kết thúc mũi tiêm) Chi phí: Chi phí trang thiết bị dụng cụ cho một mũi tiêm (tính bằng tiền Việt Nam đồng) Huấn luyện dựa trên bảng kiểm Dùng tay mang găng cầm gòn chứa trong hộp sát khuẩn da bằng tay Dùng kềm gắp gòn sát khuẩn da bằng kềm Nhóm bệnh nhânA Nhóm bệnh nhân B 1. ĐD khoa 2. Thực hiện Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 252 Công cụ nghiên cứu Bảng kiểm kỹ thuật dùng kềm gắp gòn cồn 700 chứa trong hộp sát khuẩn da trước khi tiêm. ‐ Bảng kiểm kỹ thuật dùng tay mang găng cầm gòn cồn 700 chứa trong hộp sát khuẩn trước khi tiêm. Bảng theo dõi tình trạng vùng tiêm sau khi tiêm của từng người bệnh. Bảng chiết tính chi tiết về chi phí cho từng loại kỹ thuật tiêm. Xử lý số liệu Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS12.0, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi p ≤ 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Cỡ mẫu kháo sát của chúng tôi gồm 210 người bệnh nhưng trong quá trình theo dõi chúng tôi đã để lạc mất 10 người bệnh của nhóm kháo sát dùng tay mang găng cầm gòn sát trùng da. Qua khảo sát chúng tôi thu thập số liệu như sau: Sát trùng da bằng kềm: Qua khảo sát 105 người bệnh chúng tôi ghi nhận Bảng 1:Thông tin nền Nam Nữ Tổng số 72 33 Tỉ lệ 68,6% 31,4% Bảng 2. Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh trong thời gian có tiêm bắp Có sử dụng kháng sinh Không sử dụng kháng sinh Tổng số 105 0 Tỉ lệ 100% 0% Bảng 3. Dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực hiện kỹ thuật tiêm bắp Tổng số 105 mũi tiêm Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72 giờ Bình thường 105 105 105 105 Đau 0 0 0 0 Sưng 0 0 0 0 Nóng 0 0 0 0 Đỏ 0 0 0 0 Tổng số 105 mũi tiêm Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72 giờ Sốt toàn thân 0 0 0 0 Bảng 4.Thời gian thực hiện một mũi tiêm 1 phút 1,5 phút 2 phút 3 phút Tổng số mũi tiêm thực hiện 49 1 2 56 Tỉ lệ 46,67% 0,95% 1,9% 50,48% Bảng 5. Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ thuật sát khuẩn da bằng gòn cồn làm sẵn Bình thường Thuận tiện Tổng số 104 1 Tỉ lệ 99% 1% Sát trùng da bằng tay: Qua khảo sát 95 người bệnh chúng tôi ghi nhận Bảng 6.Thông tin nền Nam Nữ Tổng số 59 36 Tỉ lệ 62,1% 37,9% Bảng 7.Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh trong thời gian có tiêm bắp Có sử dụng kháng sinh Không sử dụng kháng sinh Tổng số 94 1 Tỉ lệ 99% 1% Bảng 8. Dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực hiện kỹ thuật tiêm bắp Tổng số Bắt đầu Sau 24giờ Sau 48 giờ Sau 72giờ Bình thường 95 95 95 95 Đau 0 0 0 0 Sưng 0 0 0 0 Nóng 0 0 0 0 Đỏ 0 0 0 0 Sốt toàn thân 0 0 0 0 Bảng 9.Thời gian thực hiện một mũi tiêm 2 phút 3 phút 4 phút 6 phút Tổng số mũi tiêm thực hiện 62 27 4 2 Tỉ lệ 65,3% 28,4% 4,2% 2,1% Bảng 10.Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ thuật sát khuẩn da bằn gòn cồn làm sẵn Bình thường Rắc rối Tổng số 92 3 Tỉ lệ 96,8% 3,2% So sánh giữa 2 phương pháp sát trùng da Bảng 11. Giới tính Nam Nữ PP sát trùng da bằng kềm 72 33 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 253 PP sát trùng da bằng tay 59 36 Bảng 12. Tỉ lệ người bệnh được tiêm kháng sinh trong thời gian có tiêm bắp Có sử dụng kháng sinh Không sử dụng kháng sinh PP sát khuẩn da bằng kềm 105 0 PP sát khuẩn da bằng tay 94 1 Bảng 13. Không có dấu hiệu nhiễm trùng sau khi thực hiện kỹ thuật tiêm bắp và theo dõi vào các thời điểm Bắt đầu Sau 24 giờ Sau 48 giờ Sau 72 giờ PP sát trùng da bằng kềm (105MT) 105 105 105 105 PP sát trùng da bằng tay (95 MT) 95 95 95 95 Bảng 14. Thời gian thực hiện một mũi tiêm Thời gian thực hiện một mũi tiêm Mean SD SE PP sát trùng da bằng kềm 2.123 0.9836 0.0974 PP sát trùng da bằng tay 2.457 0.7713 0.0796 Phép kiểm định t test được sử dụng để so sánh sự khác biệt về thời gian thực hiện một mũi tiêm giữa 2 phương pháp. Kết quả cho thấy t= ‐ 2.663, df = 189.247, p = 0.008 < 0.05. Như vậy, kết luận được rằng thời gian thực hiện một mũi tiêm bằng phương pháp sát trùng da bằng tay lâu hơn phương pháp trùng da bằng kềm. Bảng 15. Ý kiến của nhân viên y tế khi thực hiện kỹ thuật sát khuẩn da bằng gòn cồn làm sẵn Thuận tiện Bình thường Rắc rối PP sát khuẩn da bằng kềm 1 (0.95%) 104 (99.05%) PP sát khuẩn da bằng tay 92 (96.84%) 3 (3.16%) Phép kiểm định Chi bình phương được sử dụng để so sánh sự khác biệt về ý kiến nhân viên y tế về 2 phương pháp. Kết quả cho thấy p=0.119 > 0.05. Do đó, kết luận được rằng ý kiến của nhân viên y tế về phương pháp này không có sự khác biệt. Bảng 16. Dụng cụ dùng sát khuẩn da cho một mũi tiêm Kềm Bình kềm Cồn Gòn Gòn cồn làm sẵn DD rửa tay nhanh Găng tay PPsát khuẩn da bằng kềm 1/ 1NB 1/1NB 4 2 ml 2ml 1 PP sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn 1/nhiều NB 1/nhiều NB 4 2ml 2ml 1 PP sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn làm sẵn 4 2ml 1 Qua bảng so sánh này chúng ta nhận thấy có sự khác biệt về trang thiết bị dụng cụ sử dụng cho các phương pháp sát khuẩn da, và rõ ràng phương pháp sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn chi phí thấp hơn so với sử dụng bình kềm và kềm. BÀN LUẬN Do không đáp ứng đầy đủ một bình kềm và kềm cho một người bệnh khi sát khuẩn da như trong giáo trình, cho nên việc giữ an toàn trong sát khuẩn da trước tiêm rất khó khả thi trên lâm sàng, Qua nghiên cứu này cho thấy vẫn có thể sử dụng chung bình kềm và kềm một cách an toàn cho nhiều người bệnh. Ngoài ra qua nghiên cứu của Hutin (1999); Dentinger (1999); và CDC (2001), việc sử dụng tay mang găng cầm gòn cồn có thể được áp dụng tại các cơ sở y tế như là một biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng lây lan các virus, vi khuẩn, và đảm bảo tính an toàn cho người bệnh(9,6,4). Theo nghiên cứu của Châu Đặng Kim Hoàng (2011) cho thấy việc sử dụng gòn cồn làm sẵn vẫn là tốt hơn cả trong trường hợp sát khuẩn vùng da tiêm bắp, dưới da trước tiêm (đảm bảo giữ nồng độ cồn isopropyl 70o bão hòa)(1). Ngoài ra dựa vào qui định chi trả của bảo hiểm y tế, chi phí cho việc xử lý và tiệt khuẩn bình kềm, kềm, gòn, cồn không được chi trả, nhưng gòn cồn làm sẵn thì lại được bảo hiểm y tế chi trả (270 đồng/miếng). Do vậy, qua việc so sánh giữa 2 kỹ thuật dùng kềm sát trùng da và dùng tay đã mang găng cầm gòn sát trùng da không có có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm trùng hoặc sự rắc rối hay bất tiện giữa 2 phương pháp sát khuẩn da. Nhưng thời gian thực hiện mũi tiêm bằng phương pháp sát trùng da bằng tay lâu hơn phương pháp trùng da bằng kềm thì có thể là do thói quen Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 254 dùng kềm sát khuẩn da nên khi áp dụng sử dụng tay có thể làm chậm hơn so với cầm kềm.Và cũng theo tình hình hiện tại tại các cơ sở ý tế và các bệnh viện đều không cung cấp đầy đủ các bình kềm và kềm để có thể giữ an toàn cho người bệnh khi tiêm thuốc và thậm chí nếu ta sử dụng gòn cồn làm sẵn thì chi phí rẻ hơn và hiệu quả hơn, đồng thời lại được bảo hiểm y tế chi trả. Trong khi đó việc mang găng tay khi tiêm thuốc thì lại khuyến khích mang vì có nguy cơ tiếp xúc với máu và chất tiết thực hiện đúng theo yêu cầu trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn do bộ Y tế đề ra theo hướng dẫn phòng ngừa chuẩn tháng 9/2012. Hạn chế của nghiên cứu Do vấn đề chi phí nghiên cứu hạn hẹp, nên chúng tôi không tiến hành cấy phết vùng da sau khi sát khuẩn ở cả hai nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, điều này cũng không cần thiết vì theo nghiên cứu của Koivisto và Felig (1978) dù tỉ lệ phần trăm vi khuẩn còn hiện diện trên da sau khi sát khuẩn ở hai nhóm có sự khác biệt, cũng không có nghĩa tỉ lệ nhiễm khuẩn cũng khác biệt như vậy(10). Ngoài ra do chúng tôi lấy mẫu ở khoa ngoại nên hầu hết người bệnh đều dược tiêm kháng sinh trong giai đoạn nghiên cứu. Việc đánh giá các dấu hiệu nhiễm trùng tại chỗ còn mang tính chủ quan, chưa có công cụ đo lường cụ thể đặc biệt là đánh giá đau (chưa loại trừ được nguyên nhân đau do thuốc/ do yếu tố nhiễm trùng), nhiệt độ vùng da nơi tiêm (cần sử dụng nhiệt kế chuyên dụng để đánh giá nhiệt độ chênh lệch ở hai vùng da chính xác hơn). Tuy nhiên thời gian một mũi tiêm được khảo sát trong nghiên cứu bao gồm thời gian của cả một quy trình tiêm từ lúc sát khuẩn, đưa thuốc vào người bệnh nhân đến cố định kim tiêm và tiện nghi cho người bệnh. Thời gian này chưa đánh giá chính xác thời gian điều dưỡng sát khuẩn vị trí tiêm. Trong nghiên cứu này chúng tôi chưa đề cập tới mũi tiêm tĩnh mạch vì mũi tiêm này được đâm kim trực tiếp vào máu cho nên không biết có thể áp dụng phương pháp sát khuẩn da bằng tay cầm gòn cồn không. Với câu hỏi này chúng tôi đề nghị sẽ có các nghiên cứu khác để làm rõ vấn đề này. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu với 200 mũi tiêm trên 200 người bệnh chúng tôi đã tìm ra được rằng không có sự khác biệt giữa việc sử dụng kềm gắp gòn sát trùng da với việc mang găng tay sạch cần gòn để sát trùng da về tỉ lệ nhiễm khuẩn, sự rắc rối hay bất tiện giữa 2 phương pháp, nhưng lại khác biệt về thời gian thực hiện. Ngoài ra chi phí cho dụng cụ sát trùng da bằng tay mang găng cầm gòn tẩm cồn sát khuần da ít tốn kém hơn việc sát trùng da bằng kềm (không khả thi, khó thực hiện vì một NB một cây kềm và một bình kềm). Như vậy việc sát trùng da khi tiêm bắp hoặc tiêm dưới da bằng phương pháp dùng tay cầm gòn cồn vừa an toàn vừa khả thi và tiết kiệm được kinh phí điều trị cho người bệnh. KIẾN NGHỊ Áp dụng phương pháp dùng tay cầm gòn cồn sát khuẩn da khi tiêm bắp và tiêm dưới da trong giảng dạy và trong thực hành điều dưỡng trên lâm sàng. Sử dụng gòn cồn làm sẵn để sát khuẩn da hơn là dùng gòn cồn để trong hộp. Nghiên cứu thêm về việc sát khuẩn da khi tiêm tĩnh mạch. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Centre for Disease Control and Prevention. (2002).Department of Health and Human Services. Smallpox Vaccine Administration. Altanta. USA. 2. Châu Đặng Kim Hoàng và cộng sự. (2011). Hiệu quả sát khuẩn da trước tiêm bằng sử dụng Alcohol swab tại bệnh viện Thống Nhất. Tạp chí Điều dưỡng Việt Nam, 2(16). 3. Crisp J, & Taylor C (2009). Potter & Perryʹs fundamentals of nursing (3rd Australian ed.). Chatswood, NSW, Australia: Mosby Elsevier. 4. Dentinger CM, Hutin YJF, Pasat L, Mihilescu I, Mast EE,& Margolis HS (1999). Knowledge and practices of nurses regarding injection safety and use of universal precautions, Vilcea district, Romania. Abstract presented at the annual meeting of the Society for Healthcare Epidemiology of America (SHEA). San Francisco (CA). 5. Department of Health. (2006). Immunisation Against Infectious Disease – “The Green Book”. London, The Stationery Office. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 255 6. Đoàn Thị Anh Lê, Trần Thị Thuận và cộng sự (2006). Khảo sát tiêm an toàn tại các cơ sở thực hành Bệnh Viện của sinh viên Điều Dưỡng ‐ Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh. Tạp chí y học Tp Hồ Chí Minh, 10(1). 7. Gittens G, Bunnell T (2009). Sin disinfection and its efficacy before administering injections. Nursing Standard, 23, 39, 42‐ 44. 8. Hutin Y, Hauri A, Chiarello L, et al. (2003). Best infection control practices for intradermal, subcutaneous, and intramuscular needle injections. Bulletin of the World Health Organisation, 81(7), 491‐500. 9. Koivisto VA, Felig P (1978). Is skin preparation necessary before insulin infection? The Lancet, 1(8073), 1072‐1075. 10. Nursing and Midwifery Council. (2008). The Code standards of Conduct, Performance and Ethics for Nurse and Midwives. NMC, London. 11. Pratt RJ, Hoffman PN, Robb FF (2005). The need for skin preparation prior to injection: point – counterpoint. British Journal of Infection Control, 6(4), 18‐20. 12. Reiss I, Borkhardt A, Fussle R, Sziegoleit A, Gortner L (2000). Disinfectant contaminated with Klebsiella oxytoca as a source of sepsis in babies. The Lancet. 13. Rotter M (1999), Hand washing and hand disinfection. In: Mayhall CG, ed. Hospital epidemiology and infection control, 2nd edition, Philadelphia, PA: Lippincott Williams & Wilkins. 14. Sautter RL, Mattman LH & Legaspi RC (1984). Serratia marcescens meningitis associated with a contaminated benzalkonium chloride solution. Infection Control. 5:223‐5. 15. Scottish Centre for Infection and Environmental Health. (2005). Skin disinfection prior to intradermal, subcutaneous, and intramuscular injection administration. 16. Selwyn S, Ellis H (1972). Skin bacteria and skin disinfection reconsidered. British Medical Journal.1(5793):136–140. 17. Sutton CD, White SA, Edwards R, Lewis MH (1999). A prospective controlled trial of the efficacy of isopropyl alcohol wipes before venesection in surgical patients. Annals of the Royal College of Surgeons of England, 81(3), 183‐186. 18. Trần Thị Thuận (2008). Điều dưỡng cơ bản 2. Hà Nội: Bộ Y tế Nhà xuất bản Y học 19. Varga LM, Chitwood DD, & Fernandez MI (2006). Factors associated with skin cleaning prior to injection among drug users. Journal of Drug Issues, 36(4), 1015‐1030. 20. WHO (2006). Injection safety. Fact sheet N°231. Retrieved from: 21. Workman B. (1999). Safe injection techniques. Nursing Standard, 13 (39): 47‐53. Ngày nhận bài 31/07/2013. Ngày phản biện nhận xét bài báo 03/09/2013. Ngày bài báo được đăng: 18/10/2013
File đính kèm:
- hieu_qua_cua_viec_mang_gang_sach_cam_gon_con_trong_sat_khuan.pdf