Hiệu quả của tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá: nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng

Nghiên cứu đánh giá tính khả khi và hiệu quả của chương trình ứng dụng tin nhắn điện thoại trong can

thiệp cai nghiện thuốc lá. Nghiên cứu can thiệp trên 100 đối tượng hút thuốc lá chia làm 2 nhóm: Nhóm can

thiệp (50 người) nhận đầy đủ tin nhắn trong thư viện đã được thiết kế theo lịch trình. Nhóm đối chứng (50

người) chỉ nhận 2 tin/tuần hỏi về tình trạng hút thuốc. Phỏng vấn trực tiếp ban đầu, sau 6 tuần can thiệp

và sau 3 tháng bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả cho thấy chương trình có tính khả thi cao có 100%

đối tượng đủ điều kiện tham gia và duy trì khi kết thúc chương trình. Mức độ thường xuyên/luôn luôn đọc

tin nhắn ở nhóm can thiệp 82% cao hơn nhóm chứng 80% (p > 0,05). Tỷ lệ tham gia phản hồi tin nhắn 2

chiều của chương trình ít nhất 1 lần ở nhóm can thiệp 72% cao hơn nhóm chứng 52% (p < 0,05).="" đối="">

nghiên cứu mong muốn sử dụng chương trình tin nhắn điện thoại 96%; đánh giá chương trình tin nhắn điện

thoại dễ sử dụng 96%; học được nhiều qua chương trình 96%, những tin nhắn điện thoại giúp cai thuốc

lá/thuốc lào 94 %. Tỷ lệ cai thuốc lá/thuốc lào lần lượt ở nhóm can thiệp và nhóm chứng sau 6 tuần can

thiệp là (20% và 2%), sau 3 tháng là (12% và 6%), sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05.="" ứng="" dụng="">

trình tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá có tính khả khi và mang lại hiệu quả trong cai thuốc lá.

pdf 7 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá: nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá: nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng

Hiệu quả của tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá: nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 243
HIỆU QUẢ CỦA TIN NHẮN ĐIỆN THOẠI TRONG CAI NGHIỆN 
THUỐC LÁ: NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM NGẪU NHIÊN 
CÓ NHÓM CHỨNG
Đoàn Thị Huệ¹, Nguyễn Thị Trang², Donna Shelley³
Nguyễn Trương Nam² và Kim Bảo Giang⁴, 
1Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên, ²Viện Nghiên cứu Y Xã hội học
³New York University USA, ⁴Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu đánh giá tính khả khi và hiệu quả của chương trình ứng dụng tin nhắn điện thoại trong can 
thiệp cai nghiện thuốc lá. Nghiên cứu can thiệp trên 100 đối tượng hút thuốc lá chia làm 2 nhóm: Nhóm can 
thiệp (50 người) nhận đầy đủ tin nhắn trong thư viện đã được thiết kế theo lịch trình. Nhóm đối chứng (50 
người) chỉ nhận 2 tin/tuần hỏi về tình trạng hút thuốc. Phỏng vấn trực tiếp ban đầu, sau 6 tuần can thiệp 
và sau 3 tháng bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả cho thấy chương trình có tính khả thi cao có 100% 
đối tượng đủ điều kiện tham gia và duy trì khi kết thúc chương trình. Mức độ thường xuyên/luôn luôn đọc 
tin nhắn ở nhóm can thiệp 82% cao hơn nhóm chứng 80% (p > 0,05). Tỷ lệ tham gia phản hồi tin nhắn 2 
chiều của chương trình ít nhất 1 lần ở nhóm can thiệp 72% cao hơn nhóm chứng 52% (p < 0,05). Đối tượng 
nghiên cứu mong muốn sử dụng chương trình tin nhắn điện thoại 96%; đánh giá chương trình tin nhắn điện 
thoại dễ sử dụng 96%; học được nhiều qua chương trình 96%, những tin nhắn điện thoại giúp cai thuốc 
lá/thuốc lào 94 %. Tỷ lệ cai thuốc lá/thuốc lào lần lượt ở nhóm can thiệp và nhóm chứng sau 6 tuần can 
thiệp là (20% và 2%), sau 3 tháng là (12% và 6%), sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Ứng dụng chương 
trình tin nhắn điện thoại trong cai nghiện thuốc lá có tính khả khi và mang lại hiệu quả trong cai thuốc lá. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Tính khả thi, ứng dụng tin nhắn điện thoại, hiệu quả chương trình tin nhắn, cai nghiện thuốc 
lá.
Gần một nửa nam giới trưởng thành Việt 
Nam hút thuốc lá, tỷ lệ này cao thứ hai trong 
các nước Đông Nam Á (SEACs). Nếu tỷ lệ hút 
thuốc lá không thay đổi trong 10 năm nữa, hút 
thuốc lá được dự đoán sẽ chiếm 25% nguyên 
nhân gây tử vong của nam giới trưởng thành tại 
Việt Nam. Hiện nay, 2/3 số người hút thuốc ở 
Việt Nam đang cân nhắc hoặc có nghĩ tới việc 
cai thuốc lá và hàng năm hơn một nửa số người 
hút thuốc đang cố gắng cai thuốc lá.1,2 Việc đẩy 
mạnh khả năng tiếp cận với phương pháp điều 
trị hiệu quả cho những người hút thuốc có thể 
tăng gấp đôi tỷ lệ cai thuốc dài hạn so với những 
nỗ lực tự cai thuốc lá. Để tăng tỷ lệ cai thuốc, 
các sáng kiến can thiệp phải dễ dàng tiếp cận, 
thích nghi với bối cảnh và văn hóa địa phương, 
và có thể tiếp cận được với số lượng lớn người 
hút thuốc lá.³ Công nghệ di động chi phí thấp 
sử dụng tin nhắn văn bản hoặc hệ thống tin 
nhắn ngắn (SMS) để cung cấp can thiệp về sức 
khoẻ hành vi đáp ứng được các tiêu chí này và 
cho thấy cơ hội tiếp cận để chăm sóc sức khỏe 
Tác giả liên hệ: Kim Bảo Giang, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020244
cho số lượng lớn những người hút thuốc chưa 
được tận dụng.3,4 Tin nhắn SMS đặc biệt phù 
hợp để giải quyết các hành vi như hút thuốc. 
Các can thiệp qua tin nhắn SMS có thể điều 
chỉnh cho phù hợp với nhu cầu và lựa chọn 
của từng cá nhân và tương tác nhiều hơn với 
nội dung xoay quanh hành vi.5 Nghiên cứu này 
đánh giá tính khả khi và hiệu quả của chương 
trình ứng dụng tin nhắn điện thoại trong can 
thiệp cai nghiện thuốc lá.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chí tuyển chọn ĐTNC từ 21 - 55 tuổi, 
hút ít nhất 5 điếu thuốc mỗi ngày, cân nhắc bỏ 
thuốc trong 30 ngày tới, có điện thoại di động 
và có kinh nghiệm sử dụng tin nhắn văn bản 
trong 6 tháng qua, hiện tại đang sinh sống tại 
Hà Nội, không có kế hoạch đi khỏi Hà Nội trong 
vòng 6 tháng tới (trừ công tác, du lịch ngắn 
ngày).
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp 
ngẫu nhiên có nhóm chứng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 2/2019 đến 
tháng 7/2019
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại phường Mễ Trì và Tây Mỗ, quận Nam 
Từ Liêm, Hà Nội
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: 100 
người hút thuốc lá (số lượng người tham gia 
nghiên cứu do dự án ấn định).⁵ Cách chọn 
mẫu: chọn mẫu thuận tiện, ĐTNC đủ các tiêu 
chuẩn điều kiện tham gia nghiên cứu.
Quá trình nghiên cứu: 
- Tuyển chọn người tham gia chương trình: 
sử dụng ngẫu nhiên tổ hợp với các đối tượng 
được phân tầng thành hai nhóm dựa trên số 
lượng điếu thuốc lá hút mỗi ngày (1 - 10 điếu so 
với > 10 điếu).
+ Nhóm can thiệp: 50 người, nhận đầy đủ 
tin nhắn trong thư viện đã được thiết kế theo 
lịch trình.
+ Nhóm đối chứng: 50 người, chỉ nhận 2 tin/
tuần hỏi về tình trạng hút thuốc.
- Thiết kế chương trình tin nhắn điện thoại 
hỗ trợ cai thuốc lá/thuốc lào.
+ Tổng số tin nhắn theo thời gian là 188 tin: 
tin nhắn trước ngày cai thuốc: 34 tin; Ngày cai 
thuốc: 4 tin nhắn; Sau ngày cai thuốc: 83 tin 
nhắn; Tin nhắn mẹo: 22 tin nhắn.
+ Giờ nhận tin trong ngày: Buổi sáng: 7h00, 
10h00; Buổi trưa: 11h30; Buổi chiều: 15h00; 
Buổi tối: 18h30.
+ Hệ thống thư viện tin nhắn: thiết kế dựa 
trên hai thư viện smokefree.gov/txt và Text2Quit, 
được thử nghiệm ở các nước phương tây và 
hoàn toàn miễn phí. Hai thư viện tin nhắn này 
được dịch từ tiếng anh sang tiếng việt theo 
đúng quy trình, đã được thử nghiệm ở nghiên 
cứu trước (giai đoạn 1 và 2 của dự án) và chỉnh 
sửa phù hợp với văn hóa Việt Nam. Nội dung 
thư viện tin nhắn hỗ trợ cai thuốc lá/thuốc lào: 
Tác hại của hút thuốc lá/thuốc lào tới sức khỏe; 
Lợi ích của việc cai thuốc lá/thuốc lào; Củng 
cố quyết tâm cai thuốc lá/thuốc lào; Các yếu tố 
kích thích hút thuốc; Các biện pháp giúp người 
hút thuốc vượt qua cơn thèm thuốc; Kỹ năng 
từ chối hút thuốc; Hỗ trợ từ gia đình, xã hội và 
các nguồn hỗ trợ khác; Cách phòng tránh lỡ hút 
một vài hơi hoặc phòng tránh tái nghiện.
- Hệ thống gửi tin nhắn hỗ trợ tới người 
tham gia trong vòng 5 - 6 tuần (tùy thuộc vào 
ngày cai thuốc của người tham gia đăng ký với 
chương trình).
- Nội dung nghiên cứu: 
+ Khảo sát ban đầu: tuổi, số điếu thuốc lá/
thuốc lào hút trung bình/ngày.
+ Khảo sát sau 6 tuần can thiệp: tính khả 
thi của chương trình tin nhắn điện thoại, trải 
nghiệm của người tham gia chương trình, quan 
điểm của ĐTNC về chương trình, so sánh tỷ lệ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 245
cai hút thuốc lá (được đo lường bằng không hút 
thuốc dù chỉ một hơi trong vòng 6 tuần qua và 
xác nhận bằng đo chỉ số cacbon monoxit hơi 
thở ra (CO < 10 ppm) ở cả 2 nhóm.
+ Khảo sát sau 3 tháng: So sánh tỷ lệ được 
cai thuốc sau 3 tháng có xác nhận chỉ số CO 
trong hơi thở ra của ĐTNC (CO < 10 ppm).
3. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 23.0 phân tích 
số liệu. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu, tình 
trạng hút thuốc bằng sử dụng số liệu thống kê 
mô tả, so sánh bằng kiểm Chi-bình phương và 
t-test để đánh giá hiệu quả của chương trình 
can thiệp cai nghiện thuốc lá.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Trường Đại học Y Hà Nội 
cấp giấy chứng nhận chấp thuận của Hội đồng 
Đạo đức trong Nghiên cứu Y sinh học cấp cơ sở 
theo số 17 - NCS17/HMUIRB ngày 05/11/2018.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu trên 100 đối tượng hút thuốc lá, 
kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi hút thuốc lá 
ở nhóm can thiệp tập trung ở nhóm tuổi từ 35 
- 44 chiếm 48,0%, ở nhóm đối chứng tỉ lệ tuổi 
hút thuốc tương đương ở cả 2 nhóm tuổi 17 - 
34 tuổi và 35 - 44 tuổi là 36,0%. Số điếu thuốc 
lá hút trung bình/ngày của nhóm can thiệp là 
(15,81 + 7,90), nhóm chứng (15,36 + 8,55).
Bảng 1. Tính khả thi của chương trình
Đặc điểm Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Số người hút thuốc được tiếp cận 182
Số người đến tham gia chương trình 161 100
Số người đủ tiêu chuẩn tham gia 101 62,7
Số người đủ tiêu chuẩn và đồng ý tham gia 100 99,0
Số lượng người duy trì tham gia chương trình 100 100
Từ bảng trên cho thấy có 182 người hút thuốc lá tiếp cận với chương trình, 101 đối tượng đủ điều 
kiện tham gia chiếm 62,7%, 99% đủ điền kiện theo tiêu chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia, tỉ lệ duy 
trì khi kết thúc chương trình là 100%.
Bảng 2. Trải nghiệm của ĐTNC về chương trình tin nhắn - Sau can thiệp
Trải nghiệm của ĐTNC về chương trình tin nhắn
Nhóm can 
thiệp (n, %)
Nhóm chứng 
(n, %)
p
Mức độ thường xuyên 
đọc tin nhắn
Thỉnh thoảng 9 (18,0) 10 (20,0)
> 0,05Thường xuyên/luôn luôn 41 (82,0) 40 (80,0)
Đánh giá về số lượng 
tin nhắn
Quá ít 0 (0,0) 9 (18,0)
< 0,05Vừa phải 39 (78,0) 38 (76,0)
Quá nhiều 11 (22,0) 3 (6,0)
Tỷ lệ tham gia phản hồi lại tin nhắn 2 chiều của 
chương trình ít nhất 1 lần (72,0) (52,0%) < 0,05
Mức độ thường xuyên/luôn luôn đọc tin nhắn ở nhóm can thiệp chiếm 82% cao hơn nhóm đối 
chứng 80%, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ tham gia phản hồi tin 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020246
nhắn 2 chiều của chương trình ít nhất 1 lần ở nhóm can thiệp là 72% cao hơn nhóm chứng là 52%, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Biểu đồ 1. Quan điểm của ĐTNC về chương trình tin nhắn - Sau can thiệp
Mức độ mong muốn sử dụng chương trình tin nhắn điện thoại, đánh giá chương trình tin nhắn 
điện thoại dễ sử dụng, học được nhiều việc qua sử dụng tin nhắn điện thoại hỗ trợ can thiệp cai 
thuốc lá/thuốc lào cao tới 96%, ĐNTC tin tưởng những thông trong chương trình tin nhắn điện thoại 
98%, những tin nhắn điện thoại giúp cai thuốc lá/thuốc lào 94%.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ cai thuốc lá, thuốc lào* của người tham gia tại thời điểm sau can thiệp 
và 3 tháng sau can thiệp theo nhóm nghiên cứu
*Tỷ lệ trả lời không hút thuốc lá, thuốc lào trong 7 ngày qua có xác nhận bằng chỉ số CO<10ppm 
qua hơi thở ra.
Tỷ lệ cai thuốc lá, thuốc lào sau 6 tuần ở nhóm can thiệp và nhóm chứng là (20% và 2%), sau 3 
tháng ở nhóm can thiệp và nhóm chứng là (12% và 6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ 
y tế di động (mHealth) mang lại hiệu quả cao 
và cải thiện các dịch vụ y tế, tiếp cận được 
hầu hết các đối tượng khác nhau để can thiệp 
sức khỏe. Tỷ lệ tham gia đăng ký chương trình 
và hiệu quả cua chương trình tin nhắn điện 
thoại di động trong việc hỗ trợ cai thuốc lá đã 
được báo cáo ở các quốc gia khác.3,4 Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 100% đối 
tượng đủ điều kiện theo tiêu chuẩn chọn mẫu, 
đồng ý tham gia và duy trì khi kết thúc chương 
trình. Nghiên cứu của Baggett và cộng sự trên 
người vô gia cư cho thấy tỷ lệ đăng ký tham gia 
SmokefreeTXT cao chiếm 88%, nhưng tỉ lệ duy 
trì chiếm 56% sau khi kết thúc chương trình6. 
Nghiên cứu của Winicki cho thấy tỷ lệ duy trì khi 
kết thúc chương trình can thiệp 93%.⁷
Mức độ thường xuyên/luôn luôn đọc tin nhắn 
ở nhóm can thiệp chiếm 82% cao hơn nhóm đối 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 247
chứng 80%. Tỷ lệ tham gia phản hồi tin nhắn 
2 chiều của chương trình ít nhất 1 lần ở nhóm 
can thiệp là 72% cao hơn nhóm chứng là 52%. 
Nghiên cứu của Baggett⁶ cho thấy tỷ lệ phản 
hồi tin nhắn tương tác 2 chiều là 2,1%. Nghiên 
cứu của Cupertino cho thấy 11,3% ĐTNC đã sử 
dụng từ khóa tương tác 2 chiều, 48,5% ĐTNC 
cho biết không thể gửi tin nhắn văn bản tại một 
số thời điểm khi can thiệp vì không có đủ tín 
tiền gửi tin nhắn trên điện thoại di động của họ.⁸
Mức độ mong muốn sử dụng chương trình tin 
nhắn điện thoại, đánh giá chương trình tin nhắn 
điện thoại dễ sử dụng, học được nhiều việc qua 
sử dụng tin nhắn điện thoại hỗ trợ can thiệp cai 
thuốc lá/thuốc lào cao tới 96%, ĐNTC tin tưởng 
những thông trong chương trình tin nhắn điện 
thoại 98%, những tin nhắn điện thoại giúp cai 
thuốc lá/thuốc lào 94%. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cũng tương tự như kết quả nghiên cứu 
của Bagget cho thấy 67% ĐTNC rất/cực kỳ hài 
lòng với chương trình, có 53% đánh giá chương 
trình là rất/cực kỳ quan trọng trong việc giúp 
họ bỏ, 93% rất/cực kỳ có khả năng giới thiệu 
chương trình cho người khác, và 60% đồng ý 
hoặc đồng ý mạnh mẽ rằng thông điệp có thể 
áp dụng cho cuộc sống của họ. Nghiên cứu của 
Cupertino cho thấy 85,7% rất hài lòng hoặc cực 
kỳ hài lòng với chương trình tin nhắn can thiệp 
cai thuốc lá.⁸ Kết quả n ghiên cứu của chúng 
tôi có thể có ý nghĩa rộng rãi đối với việc kiểm 
soát thuốc lá và nâng cao sức khỏe ở Việt Nam, 
đồng thời có thể cung cấp những kinh nghiệm 
cho những nghiên cứu tiếp theo và ở các khu 
vực khác trong nước.
 Tỷ lệ cai thuốc lá, thuốc lào sau 6 tuần ở 
nhóm can thiệp và nhóm chứng là (20% và 2%), 
sau 3 tháng ở nhóm can thiệp và nhóm chứng 
là (12% và 6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cũng tương tự như nghiên cứu của Yanhui Liao 
tại Trung Quốc, tỷ lệ cai thuốc lá từ 1 - 24 tuần 
là 10% - 26% ở nhóm can thiệp, nhóm chứng là 
4%-12%.⁹ Nghiên cứu của Cupertino cho thấy tỷ 
lệ cai thuốc lá sau tuần thứ 12 là 40%.⁸ Nghiên 
cứu của Noonan tại Mỹ cho thấy sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bỏ thuốc lá sau 6 tuần 
là 30% ở nhóm can thiệp và 10,5% ở nhóm đối 
chứng.10 
V. KẾT LUẬN
Ứng dụng chương trình tin nhắn điện thoại 
trong cai nghiện thuốc lá có tính khả khi với 
100% ĐTNC tham gia và duy trì chương trình. 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ cai 
thuốc lá/thuốc lào sau 6 tuần ở nhóm can thiệp 
và nhóm chứng là (20% và 2%); sau 3 tháng 
(12% và 6%) (p < 0,05).
Lời cảm ơn
Viện nghiên cứu Y – Xã hội học (ISMS), 
Trường Đại học Y khoa New York (NYUSOM), 
Đại học Y Hà Nội phối hợp triển khai dự án phát 
triển và thử nghiệm hệ thống tin nhắn điện thoại 
hỗ trợ cai nghiện thuốc lá tại Quận Nam Từ 
Liêm thành phố Hà Nội. Dự án được tài trợ bởi 
Viện Ung thư Quốc gia/viện sức khỏe Hoa Kỳ. 
Bài này trình bày kết quả nghiên cứu đánh giá 
tính khả thi, hiệu quả của chương trình tin nhắn 
điện thoại trong can thiệp cai thuốc lá.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tran BX, Le XTT, Nguyen PN, et al. 
Feasibility of e-Health Interventions on Smoking 
Cessation among Vietnamese Active Internet 
Users. International journal of environmental 
research and public health. Jan 20 2018;15(1).
2. Van Minh H, Giang KB, Ngoc NB, et al. 
Prevalence of tobacco smoking in Vietnam: 
findings from the Global Adult Tobacco Survey 
2015. International journal of public health. Feb 
2017;62(Suppl 1):121-129.
3. Whittaker R, McRobbie H, Bullen 
C, Rodgers A, Gu Y. Mobile phone-based 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020248
interventions for smoking cessation. The 
Cochrane database of systematic reviews. Apr 
10 2016;4(4):Cd006611.
4. Whittaker R, McRobbie H, Bullen C, 
Rodgers A, Gu Y, Dobson R. Mobile phone 
text messaging and app-based interventions 
for smoking cessation. The Cochrane 
database of systematic reviews. Oct 22 
2019;10(10):Cd006611.
5. R. S. Donna, N. T. Nguyen. Feasibility 
and Acceptability of a Text Messaging 
Intervention to Increase Smoking Cessation in 
Vietnam from 2017 to 2019. Advancing Science 
for Global Health. Aug 28 2018; NCT03219541.
6. Baggett TP, McGlave C, Kruse GR, 
Yaqubi A, Chang Y, Rigotti NA. SmokefreeTXT 
for Homeless Smokers: Pilot Randomized 
Controlled Trial. JMIR Mhealth Uhealth. Jun 4 
2019; 7(6):e13162.
7. Blitchtein-Winicki D, Zevallos K. Feasibility 
and Acceptability of a Text Message - Based 
Smoking Cessation Program for Young Adults in 
Lima, Peru: Pilot Study. JMIR Mhealth Uhealth. 
Aug 4 2017; 5(8):e116.
8. Cupertino AP, Cartujano-Barrera F, 
Ramírez M, et al. A Mobile Smoking Cessation 
Intervention for Mexico (Vive sin Tabaco... 
¡Decídete!): Single-Arm Pilot Study. JMIR 
Mhealth Uhealth. 2019; 7(4):e12482-e12482.
9. Liao Y, Wu Q, Kelly BC, et al. Effectiveness 
of a text-messaging-based smoking cessation 
intervention ("Happy Quit") for smoking cessation 
in China: A randomized controlled trial. PLoS 
Med. 2018;15(12):e1002713-e1002713.
10. Noonan D, Silva S, Njuru J, et al. 
Feasibility of a text-based smoking cessation 
intervention in rural older adults. Health Educ 
Res. 2018; 33(1): 81 - 88.
Summary
EFFICACY OF SMS TEXT MESSAGE INTERVENTIONS FOR 
SMOKING CESSATION: RANDOMIZED CONTROLLED TRIAL 
(RCT)
This study is to evaluate the feasibility and effectiveness of the SMS text message application 
program in smoking cessation intervention. Methods: This was a two-arm randomized controlled trial 
with adaptive randomization; we recruited 100 smokers, divided them in 2 groups: the intervention 
group (50 people) received all messages in the library which was designed according to the schedule. 
The Control group (50 people) only received 2 SMS/week inquiring about smoking status at baseline, 
6 weeks, and after 3 months. Results: Subject was qualified according to the sampling criteria and 
the retention rate at the end of the program was 100%. The frequency/always read SMS in the 
intervention group was 82% higher than the control group by 80% (p > 0.05). Participants responding 
to the program's 2-way text messages at least once in the intervention group was 72% higher than the 
control group by 52%. The frequency/always read SMS in the intervention group was 82% higher than 
the control group by 80%. Participants responding to the program's 2-way text messages at least once 
in the intervention group was 72% higher than the control group by 52%. Participants desiring to use 
a phone message program, easy-to-use phone messaging program, acquiring information through 
text messages to support smoking/waterpipe cessation intervention were 96%; receiving information 
about smoking/waterpipe in SMS text messages support cigarettes/waterpipe smoking abstinence 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 249
was 94%. There were significantly difference between the intervention group and control group at 6 
weeks (20% and 2%) and after 3 months (12% and 6%) (p < 0.05). Based on the results, we concluded 
that the SMS text message application program used for smoking intervention is feasible and effective. 
Key words: Feasibility, SMS text messaging, SMS messaging program effectiveness, 
smoking cessation.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_tin_nhan_dien_thoai_trong_cai_nghien_thuoc_la_n.pdf