Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, một số đặc điểm chuyển dạ, tác dụng không mong muốn của

phương pháp gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2

mcg/ml trong chuyển dạ.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu thực hiện tại BV Từ Dũ từ 22/10/2012 - 29/4/2013 trên

206 sản phụ được GTNMC giảm đau chuyển dạ (GĐCD) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và

fentanyl 2 mcg/ml.

Kết quả: Sau thủ thuật 15 phút VAS ≤ 3 chiếm 94,2%, giai đoạn chuyển dạ tích cực VAS ≤ 3 chiếm

92,9%, giai đoạn II chuyển dạ VAS ≤ 3 chiếm 55,8%, VAS ≤ 3 chiếm 87,2% lúc khâu tầng sinh môn. Tỷ

lệ phong bế vận động (BROMAGE) độ 0 chiếm 97,6%, độ I 1,9%, độ II 0,5%. Một số đặc điểm chuyển

dạ như cảm giác mắc rặn, thời gian chuyển dạ tương đồng với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ sinh thường

chiếm 66%, sinh giúp: 9,7%, và sinh mổ: 24,3%. Tác dụng không mong muốn: thủng màng cứng 0,48%

(1/206); hạ huyết áp: 1%, nôn: 2%, tiểu khó, và bí tiểu: 6,4%; đau đầu: 0,5%, và đau lưng 6,8%.

Kết luận: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml giúp GĐCD có hiệu quả

rõ rệt. Cần tiếp tục triển khai phác đồ để có thêm một sự lựa chọn trong GĐCD.

pdf 8 trang phuongnguyen 380
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ

Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ
38
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
Hiệu	quả	của	phương	pháp	gây	tê	ngoài	màng	
cứng	bằng	hỗn	hợp	Levobupivacaine	và	Fentanyl	
trong	giảm	đau	chuyển	dạ
Võ Minh Tuấn*, Trương Văn Hiệu**.
* Bộ môn Sản, ĐHYD Tp. HCM 0909727199, Email: [email protected]
** Bệnh viện Từ Dũ – Tp. HCM 0935881600, Email: [email protected]
Tóm	tắt
Mục	tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, một số đặc điểm chuyển dạ, tác dụng không mong muốn của 
phương pháp gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 
mcg/ml trong chuyển dạ.
Phương	pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu thực hiện tại BV Từ Dũ từ 22/10/2012 - 29/4/2013 trên 
206 sản phụ được GTNMC giảm đau chuyển dạ (GĐCD) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và 
fentanyl 2 mcg/ml.
Kết	quả: Sau thủ thuật 15 phút VAS ≤ 3 chiếm 94,2%, giai đoạn chuyển dạ tích cực VAS ≤ 3 chiếm 
92,9%, giai đoạn II chuyển dạ VAS ≤ 3 chiếm 55,8%, VAS ≤ 3 chiếm 87,2% lúc khâu tầng sinh môn. Tỷ 
lệ phong bế vận động (BROMAGE) độ 0 chiếm 97,6%, độ I 1,9%, độ II 0,5%. Một số đặc điểm chuyển 
dạ như cảm giác mắc rặn, thời gian chuyển dạ tương đồng với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ sinh thường 
chiếm 66%, sinh giúp: 9,7%, và sinh mổ: 24,3%. Tác dụng không mong muốn: thủng màng cứng 0,48% 
(1/206); hạ huyết áp: 1%, nôn: 2%, tiểu khó, và bí tiểu: 6,4%; đau đầu: 0,5%, và đau lưng 6,8%.
Kết	luận: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml giúp GĐCD có hiệu quả 
rõ rệt. Cần tiếp tục triển khai phác đồ để có thêm một sự lựa chọn trong GĐCD.
Từ	khóa: Giảm đau chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, chuyển dạ giai đoạn tích cực, levobupivacaine
The effect of Epidural analgesia for labor with Levobupivacaine combined with 
Fentanyl 
Tuan Vo,* Hieu Truong.**
Abstract 
Objectives: To evaluate the effect of epidural analgesia with levobupivacaine 0.08% combined 
with fentanyl 2cmg/ml and to describe some characteristics of labor and the side effects of those 
medicines.
Methods: A longitudinal prospective study was carried out at Tu Du hospital from 22/10/2012-
29/4/2013 recruited 206 pregnant women in labor whom were indiated epidural analgesia with 
levobupivacaine 0.08% combined with fentanyl 2cmg/ml.
Results: VAS< 3 was 94.2 % after 15 minutes undergone epidural anesthesia; these score was 
92,9% in the active stage labor ; 58.5% in the second stage of labor; 87.2% during episiorrhaphy 
procedure respectively. The percentages of blocking movement (BROMAGE) were found with 
level 0: 97.6 %, level 1: 1.9 %, level 2: 0.5%. Somes of labor characteristic such as feeling 
of pushing, time of all labor stages were similar to other studies. The ratio of spontaneous 
deliveries vs assitant deliveries vs C-section was 66% vs 9.7%, vs 24.3%. Side effects included 
epidural membrane rupture (0.48% ), hypotention (1%), vomit (2%), urinary retention (6.4%), 
headache (0.5%), and backache (6.8%).
Conclusions: Epidural analgesia with levobupivacaine 0.08 percent and fentanyl 2 mcg/ml 
relieved pain in labor remakablely. The protocol of epidural analgesia is needed to be developed 
that provide more options for anesthesiologists.
Key words: Labor analgesia, Epidural anesthesia, Active period of labor.
39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Đặt	vấn	đề
Có nhiều phương pháp giảm đau chuyển dạ 
(GĐCD), gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) 
được đánh giá là phương pháp an toàn, hiệu 
quả và sử dụng phổ biến. Áp dụng GTNMC 
để GĐCD đã có từ hơn 50 năm về trước.1 Tại 
Việt Nam, bệnh viện (BV) Hùng Vương là 
nơi thực hiện GĐCD đầu tiên từ năm 1988 do 
Tô Văn Thình và cộng sự thực hiện GTNMC 
đặt catheter để giảm đau ngắt quãng trên 62 
sản phụ (SP) hiệu quả rất tốt. Sau đó, phương 
pháp giảm đau này được thực hiện tại nhiều 
bệnh viện khác trong toàn quốc. BV Từ Dũ 
đã triển khai GĐCD bằng GTNMC từ năm 
1999. Gần đây, phương pháp GTNMC liên 
tục, lưu catheter bổ sung thuốc tê liều thấp 
phối hợp với các thuốc giảm đau trung ương 
đã được nghiên cứu sử dụng rộng rãi trong 
GĐCD. Phương pháp này không chỉ giảm 
nguy cơ gây độc do tích lũy thuốc tê, có tác 
dụng giảm đau hiệu quả, mà còn đáp ứng quá 
trình chuyển dạ sinh lý giúp cho việc kiểm 
soát sinh, giảm thiểu tỉ lệ xổ thai có can thiệp 
và các tác động tâm lý cho SP sau sinh.2 
 Năm 1988 levobupivacaine được giới 
thiệu.3 Liều dùng, hiệu quả lâm sàng 
của levobupivacaine tương đương với 
bupivacaine nhưng độc tính trên hệ thần 
kinh trung ương và tim thấp hơn. BV Từ Dũ 
đã triển khai phương pháp GTNMC bằng 
hỗn hợp levobupivacaine 0,1% và fentanyl 
GĐCD, tuy nhiên chưa triển khai rộng rãi 
và chưa có đánh giá đầy đủ về hiệu quả của 
phương pháp này.
 Nhằm tìm hiểu khả năng cải thiện chất lượng 
GĐCD, khả năng giảm thiểu các tác dụng 
ngoại ý khi dùng hỗn hợp levobupivacaine 
và fentanyl để GTNMC, từ đó đưa ra thêm 
một lựa chọn cho GĐCD, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài “Hiệu quả của phương 
pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp 
levobupivacaine và fentanyl trong giảm đau 
chuyển dạ”.
Câu hỏi nghiên cứu: GTNMC bằng hỗn hợp 
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml 
có hiệu quả thế nào trong GĐCD?
Mục	tiêu	nghiên	cứu
Mục tiêu chính: Đánh giá hiệu quả giảm đau 
của phương pháp GTNMC bằng hỗn hợp 
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/
ml trong chuyển dạ.
Mục tiêu phụ
- Mô tả một số đặc điểm chuyển dạ trong nhóm 
có GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 
và fentanyl.
- Mô tả tỷ lệ tác dụng không mong muốn 
GTNMC bằng hỗn hợp levo-bupivacaine và 
fentanyl.
Phương	pháp	nghiên	cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả dọc tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu 
- Dân số đích: Tất cả SP thai đủ tháng ≥ 37 
tuần vào chuyển dạ.
- Dân số nghiên cứu: Tất cả SP thai đủ tháng 
≥ 37 tuần nhập vào khoa sinh BV Từ Dũ theo 
dõi sinh ngả âm đạo.
- Dân số chọn mẫu: Tất cả SP thai đủ tháng 
≥ 37 tuần vào khoa sinh BV Từ Dũ theo dõi 
sinh ngả âm đạo, hội đủ các tiêu chuẩn chọn 
mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tiêu chuẩn nhận vào
- SP được bác sĩ sản khoa đánh giá theo dõi 
sinh ngả âm đạo khi vào chuyển dạ.
- Các SP trong giai đoạn chuyển dạ tích cực, 
cổ tử cung mở ≥ 4cm.
- SP không có chống chỉ định GTNMC.
- SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần có yêu cầu được 
làm GĐCD.
40
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
Tiêu chuẩn loại trừ
- SP không giao tiếp được.
- SP có chiều cao dưới 1,45 m.
- SP có tiền sử dị ứng thuốc tê và thuốc họ 
morphine.
Cỡ mẫu
P = 94,4%, Z: trị số phân khối chuẩn = 1,96, 
d: độ chính xác tuyệt đối = 5%, n: cỡ mẫu 
tối thiểu = 82 đáp ứng cho năng lực mẫu của 
mục tiêu chính.
Phương pháp chọn mẫu: ngẫu nhiên đơn.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 10/2012 
-04/2013 tại BV Từ Dũ
Công cụ nghiên cứu:
Thang điểm VAS dùng để đánh giá mức độ 
đau
Thang điểm Bromage dùng để đánh giá mức 
độ phong bế vận động
Dùng test cồn lạnh đánh giá mức ức chế cảm 
giác 
Phương thức tiến hành
Bước 1: Chuẩn bị
- Phương tiện, trang thiết bị, dụng cụ và thuốc 
GTNMC
- Chọn bệnh theo tiêu chuẩn nhận và tiêu 
chuẩn loại trừ. 
- Giải thích cho SP về GĐCD và đồng ý ký 
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu.
- Ghi nhận các thông tin cơ bản về SP, khám 
tiền mê
- Đánh giá mức độ đau qua thang điểm VAS 
Bước 2: Thực hiện phương pháp GTNMC
Xác định khoang NMC bằng kỹ thuật “mất 
sức cản” với nước muối sinh lý, luồn catheter 
vào khoang NMC với độ sâu 3- 5cm. Sau khi 
nhận thấy catheter không có chảy ra máu hay 
dịch thì bơm liều test lidocain 2% 2 ml . Sau 
khi mạch, huyết áp của SP ổn định và giơ hai 
chân lên cao được bình thường thì bơm liều 
nạp 12 ml dung dịch levobupivacaine 0,08% 
+ 50 mcg fentanyl; liều nạp được chích ngắt 
quãng 4 ml dung dịch thuốc tê mỗi 3 phút 
với test hút ngược catheter. Sau liều nạp 10 
phút, dùng dụng cụ bơm tiêm điện truyền 
levobupivacaine 0,08% + fentanyl 2 mcg/ml 
([L+V])với vận tốc 10 ml/giờ. Theo dõi sinh 
hiệu SP, xử trí tai biến nếu có.
Bước 3: Theo dõi và đánh giá sau khi tiêm 
thuốc 15 phút
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến 
nếu có, đánh giá điểm VAS, Bromage, mức 
phong bế cảm giác. Truyền duy trì qua bơm 
tiêm điện hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và 
fentanyl 2mcg/ml tốc độ 10ml/giờ.
Bước 4: giai đoạn chuyển dạ tích cực đến cổ 
tử cung trọn.
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến 
nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử 
cung (TC) hay không, thời gian chuyển dạ, 
cảm giác mắc rặn giai đoạn tích cực.
Bước 5: Theo dõi đánh giá giai đoạn II 
chuyển dạ
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến 
nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử 
cung hay không, thời gian chuyển dạ, cảm 
giác mắc rặn giai đoạn II, cách sinh, lý do, 
cân nặng trẻ, chỉ số APGAR.
Bước 6: Theo dõi và đánh giá giai đoạn III 
chuyển dạ và may tầng sinh môn
Sau khi sổ thai nếu SP đau (VAS>3) tiêm 
10ml [L+F], sau tiêm 15 phút tiến hành 
41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
thủ thuật, nếu VAS>3 thì tê tại chỗ bằng 
lidocaine. Đánh giá điểm VAS. Ngay sau khi 
kết thúc cuộc sinh: khâu tầng sinh môn, kiểm 
soát TC: rút bỏ catheter, băng vô trùng vị trí 
gây tê. Trường hợp nghi ngờ có rối loạn đông 
máu thì kiểm tra lại các xét nghiệm đông máu 
trước khi rút catheter.
Bước 7: Theo dõi và đánh giá tại khoa hậu 
sản.
Kết	quả	và	bàn	luận
Nhận xét: 
Chúng tôi gây tê theo tư thế ngồi là chủ yếu 
96,2% (198/206) (Bảng 1). Một số trường 
hợp SP không hợp tác, nên chúng tôi thực 
hiện tư thế nằm nghiêng trái. Ưu điểm của 
tư thế nghiêng so với tư thế ngồi là: (1) hạ 
HA tư thế ít hơn; (2) có thể theo dõi nhịp tim 
thai trong thời gian đặt catheter NMC; (3) 
một vài SP thấy dễ chịu; cung lượng tim mẹ 
giảm nhiều hơn với tư thế gập bụng tối đa 
trong tư thế nghiêng hơn tư thế ngồi trong 
xác định khoang NMC. Sự gập bụng tối đa sẽ 
gia tăng chèn ép động mạch chủ dưới. Ngược 
lại, trong tư thế ngồi, tử cung sẽ đẩy về trước 
(do đó không gây chèn ép động mạch chủ). 
Cần phải tránh “tư thế bó chặt thai”, nhất là 
khi SP ở tư thế nằm nghiêng.
 Bảng 2: Trước khi làm GDCD, hầu hết 
SP đều đau, mức độ đau vừa, nhiều, và đau 
dữ dội là 99,5% (205/206). Mức độ đau sau 
làm GĐCD 15 phút thay đổi đáng kể. Mức 
độ đau 4-10 điểm từ 99,5% giảm xuống còn 
5,8%. Đặc biệt tình trạng đau dữ dội không 
có, điểm đau từ 0-1 đạt 45,1% (93/206). Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p=0,001. 
Điều này cho thấy hiệu quả rõ rệt của gây tê 
ngoài màng cứng giảm đau chuyển dạ bằng 
hỗn hợp thuốc levobupivacaine và fentanyl.
 Bảng 3: Mức độ đau giai đoạn chuyển dạ 
tích cực: 9-10 điểm: không trường hợp; 4-8 
điểm là 6,8% (14/206); từ 2-3 điểm: 59,7% 
(123/206); 0-1 điểm: 33,5% (69/206). Giai 
đoạn chuyển dạ tích cực là giai đoạn chuyển 
dạ dài, việc ứng dụng gây tê giảm đau trong 
giai đoạn này là rất quan trọng. Các kết quả 
đạt được của chúng tôi cho thấy hiệu quả 
giảm đau rõ của phương pháp GTNMC với 
nồng độ thuốc tê thấp (0,08%), tương tự với 
các tác giả khác làm tại bệnh viện Từ Dũ với 
thuốc và liều lượng khác nhau. Điều này cho 
thấy rằng nên giảm nồng độ thuốc tê trong 
GĐCD.
 GTNMC có hiệu quả giảm đau rõ lúc may 
TSM: có 136/156 (87,2%) SP không đau 
và đau nhẹ, 17/156 (10,9%) đau vừa, 3/206 
(1,9%) đau nhiều. 
42
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
 Chúng tôi đánh giá mức độ phong bế 
vận động theo thang điểm của Bromage 
(Bảng 4). Phong bế vận động độ 0 chiếm 
97,6% (201/206), độ 1: 1,9% (4/206), độ 
2: 0,5% (1/206). Phong bế vận động là một 
tác dụng không mong muốn của GTNMC 
GĐCD. Phong bế vận động trong chuyển dạ 
làm giảm sức rặn của SP, kéo dài thời gian 
chuyển dạ, giảm chất lượng phương pháp 
giảm đau cũng như sự hài lòng của SP. Nồng 
độ thuốc tê giảm sẽ giảm được sự ức chế vận 
động. Như vậy, với nồng độ levobupivacaine 
0,08% được sử dụng trong nghiên cứu của 
chúng tôi đủ để ức chế cảm giác đau và tác 
dụng phong bế vận động ở mức thấp.
 Mức phong bế cảm giác (Bảng 5 & 6) đồng 
đều cả 2 bên chiếm đa số 94,7% (195/206). 
Phong bế cảm giác không đối xứng 5,3% 
(11/206), trong số này mức tê bên trái cao hơn 
bên phải 7/11 trường hợp. Theo Chestnut, các 
yếu tố gây ra sự không đối xứng này là: (1) 
tiêm chậm một thể tích nhỏ; (2) vách ngăn 
bẩm sinh đường giữa màng cứng; (3) dính 
đường giữa mắc phải; (4) đầu catheter đi vào 
vùng cạnh cột sống; (5) đặt đầu mũi catheter 
vào phần trước khoang ngoài màng cứng. 
43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Cũng theo tác giả, nghiên cứu 236 bệnh 
nhân được GTNMC, khảo sát có 7/236 mất 
cảm giác lạnh một bên, và chụp cản quang 
khoang NMC trên nhóm bệnh nhân này thì 
thấy có 4/7 trường hợp catheter đi ra phần 
trước khoang ngoài màng cứng; 3/7 trường 
hợp catheter chui qua lỗ màng cứng.
 Trong nghiên cứu chúng tôi, chuyển dạ thời 
kỳ hoạt động (Bảng 7), sử dụng thuốc tăng co 
tử cung 42,3% (66/156) trường hợp; không 
tăng co 57,7% (90/156), tỷ lệ mắc rặn 52,5% 
(82/156) tương tự nghiên cứu của các tác giả 
khác. GTNMC với nồng độ thuốc tê thấp 
không ảnh hưởng đến gò tử cung cũng như 
cảm giác mắc rặn SP, đây là điểm thuận lợi 
cho cuộc chuyển dạ trong thời kỳ hoạt động 
vì tránh được cổ tử cung phù nề do sản phụ 
rặn sớm.
 Chúng tôi ghi nhận có 106/156 (67,9%) SP 
có tăng co trong giai đoạn II chuyển dạ (Bảng 
8). Tương tự như kết quả của V.M.Tuấn & 
P.T.T.Ba (2012) tại BV Từ Dũ (66,3%).4 Số 
SP có cảm giác mắc rặn trong giai đoạn II 
chuyển dạ là 140/156 (89,7%), tỷ lệ này phù 
hợp với các tác giả Phạm Thiều Trung (2011) 
là 89,76%, Nguyễn Văn Chinh (2011)5 là 
91,25%, V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) là 
91%. 
 Tỷ lệ sinh mổ, sinh giúp của nghiên cứu này 
(Bảng 9) phù hợp với thống kê tại BV Từ Dũ 
trong thời gian nghiên cứu (24,2% sinh mổ).
Chỉ định cách sinh ở mỗi tuyến và mỗi BV 
có đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên tất cả các 
nghiên cứu của các tác giả đều thống nhất: 
GTNMC không ảnh hưởng đến cách sinh, 
không làm tăng tỷ lệ sinh giúp và sinh mổ.
 Thay đổi tim thai và sinh hiệu sản phụ trước 
và sau khi tiêm thuốc (Bảng 10): Mạch trước 
khi tiêm thuốc là 85 ±7,3 lần/ phút. Sau tiêm 
15 phút là 80,2 ± 64,9, sau 30 phút 79,4 ± 
7,1, và sau 1 giờ 79,5 ± 6,6 có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê, với p < 0,05. Sự khác biệt 
này chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê nhưng 
không làm thay đổi về ý nghĩa lâm sàng 
nhiều. Huyết áp (HA) trước khi gây tê và sau 
khi gây tê khác nhau có ý nghĩa thống kê, với 
p < 0,05, tuy nhiên không có ý nghĩa về mặt 
44
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
lâm sàng. Sau khi gây tê thì HA giảm hơn so 
với chưa gây tê nhưng hầu hết HA nằm trong 
giới hạn bình thường, không cần phải xử trí 
gì. Trong nghiên cứu này có 2/206 trường 
hợp HA tụt cần phải xử trí. Nguyên nhân 
dẫn đến hiện tượng giảm mạch, HA sau khi 
GTNMC là do tác dụng làm giảm đau giúp 
ngăn chặn sự tăng tiết cathecolamin do đau, 
do GTNMC gây ức chế giao cảm, làm mạch 
chậm, giãn mạch dẫn đến giảm HA.
 Cân nặng của trẻ trung bình: 3,2 kg ± 0,37 
kg, trẻ nặng nhất 4,5 kg gặp ở SP bị bệnh 
tiểu đường, trẻ nhẹ nhất 2,2 kg gặp ở SP 
sinh thường. Còn lại đa số cân nặng của 
trẻ tập trung từ 3 kg đến 3,5 kg chiếm hơn 
51%. APGAR sau 1 phút ≥ 7 chiếm tỷ lệ 
95,1% (196/206). Tương tự nghiên cứu của 
V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) 96,7% , thấp 
hơn Nguyễn Thị Thanh6 99,6% nhưng cao 
hơn Nguyễn Văn Chinh 91,2%. APGAR sau 
5 phút ≥ 9 điểm là 66% (136/206); < 9 điểm 
là 34% (70/206) nhưng không có trường hợp 
nào có chỉ số APGAR < 7 điểm.
 Hạ HA trong nghiên cứu này có 2/206 
(0,97%) trường hợp. SP thứ nhất: HA trước 
gây tê là 120/70 mmHg, sau gây tê 15 phút 
HA tụt 80/60 mmHg, kèm theo mệt, chóng 
mặt, buồn nôn, được xử trí: truyền dịch, kết 
hợp cho thở ô xy, sau đó HA ổn định. SP thứ 
hai: HA trước gây tê là 130/80 mmHg, sau 
gây tê 15 phút HA tụt 80/60 mmHg, xử trí 
tương tự nhưng HA vẫn chưa trở lại trị số 
bình thường, tiếp tục xử trí thêm: ephedrin 
10 mg tiêm tĩnh mạch, sau đó HA ổn định 
trong suốt cuộc chuyển dạ. Cả hai trường hợp 
này đều âm tính với test hút ngược, không có 
dịch não tủy, máu. Trong GTNMC thì hạ HA 
không đáng kể với thuốc tê nồng độ thấp.
Kết	luận	và	kiến	nghị
Phác đồ giúp GĐCD có hiệu quả rõ rệt. Đặc 
điểm chuyển dạ như: cảm giác mắc rặn của 
SP, thời gian chuyển dạ, tỷ lệ sinh giúp và 
sinh mổ được mô tả với các tỉ lệ tương đồng 
so với các phác đồ khác GTNMC GĐCD. Tỷ 
lệ phong bế vận động thấp. Tình trạng sức 
khỏe SP và thai ổn định. Tỷ lệ xảy ra các tác 
dụng phụ thấp, dễ xử lý.
 Phấn đấu tăng tỷ lệ GĐCD để nâng cao 
chất lượng chăm sóc SP trong chuyển dạ. 
Chỉ định GTNMC GĐCD nên rộng rãi hơn, 
sớm hơn khi bắt đầu vào chuyển dạ để giúp 
ngừa đau trong chuyển dạ. Cần tiếp tục triển 
khai phác đồ GTNMC GĐCD bằng hỗn hợp 
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/
ml bệnh để có thêm một sự lựa chọn. Nghiên 
cứu thêm về GTNMC GĐCD với nồng độ 
thuốc tê thấp (0,0625%), ứng dụng các thuốc 
tê mới như ropivacaine, levobupivacaine. Từ 
đó đưa ra thêm các lựa chọn trong GĐCD 
cho bác sỹ gây mê hồi sức.
Tài	liệu	tham	khảo
1. Ali Uzuner, Kemal Tolga Saracoglu, Ayten 
Saracoglu, Ozcan Erdemli (2011), “The comparative 
study of epidural levobupivacaine and bupivacaine 
in major abdominal surgeries”. Journal of Research 
in Medical Sciences, 16, (9), pp. 435-337
45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
2. Hawkins Joy L (2010): “Epidural analgesia for labor 
and deliver”. The new Enlnd journal of medicine, 
363, p 1503 – 1010.
3. Hui-Ling Lee (2011), “Comparison between 0.08% 
Ropivacaine and 0.06% Levobupi-vacaine for 
Epidural Analgesia during Nulliparous Labor”. 
Chang Gung Med J: 34: 286-92.
4. Võ Minh Tuấn & Phan Thị Thu Ba (2013). So 
sánh kết cục sinh ngả âm đạo giữa có và không 
giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng. ISSN 
1859-1779. Tập san Y học TP. HCM; số 17, tháng 
1/2013: Trang 141-148.
5. Nguyễn văn Chinh, Vũ Thị Nhung, Nguyễn văn 
Chừng (2011) “Gây tê ngoài màng cứng phối hợp 
Bupivacaine với Fentanyl để giảm đau trong sản 
khoa” Tạp chí Y học TP HCM NXB : 2011, Tập 
15,số 3, Tr 186-194
6. Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Trọng Thắng (2011), 
“Hiệu quả và an toàn của giảm đau trong chuyển 
dạ với gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacaine 
nồng độ thấp kết hợp fentanyl không dùng liều thử” 
.Y học TP. Hồ Chí Minh, chuyên đề Gây mê hồi 
sức,tập 15(3),tr 101-108.
7. Atanasova M. and Nikolov A (2011), “Epidural 
analgesia for vaginal delivery. influence over the 
delivery, fetal presentation, the method of delivery 
and lactation”, Akush Ginekol (Sofiia), 50(6), pp. 
28-36
8. Carl E Rosow, Mark Dershwitz (2008), 
“Pharmacology of Opioid Analgesics”. 
Anesthesiology. Volume 1, (41), Medical Books, 
McGraw-Hill, Usa, pp.869-896.
9. Crina L Burlacu, Buggy J Donal (2008), “Update on 
local anesthetics: focus on levobupivacaine”. Ther 
Clin Risk Manag; 4(2): 381-392.
10. Devor M (2006), “Pathophysiology of nerve injury”. 
Pain, Volume 81, Elsevier, pp. 261-276.
11. Lin MC, Huang JY, Lao HC, Tsai PS, Huang CJ 
(2010), “Epidural analgesia with low-concentration 
levobupivacaine combined with fentanyl provides 
satisfactory postoperative analgesia for colorectal 
surgery patients.”. Acta Anaesthesiol Taiwan. 48(2) 
: 68-74.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_phuong_phap_gay_te_ngoai_mang_cung_bang_hon_hop.pdf