Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, một số đặc điểm chuyển dạ, tác dụng không mong muốn của
phương pháp gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2
mcg/ml trong chuyển dạ.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu thực hiện tại BV Từ Dũ từ 22/10/2012 - 29/4/2013 trên
206 sản phụ được GTNMC giảm đau chuyển dạ (GĐCD) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và
fentanyl 2 mcg/ml.
Kết quả: Sau thủ thuật 15 phút VAS ≤ 3 chiếm 94,2%, giai đoạn chuyển dạ tích cực VAS ≤ 3 chiếm
92,9%, giai đoạn II chuyển dạ VAS ≤ 3 chiếm 55,8%, VAS ≤ 3 chiếm 87,2% lúc khâu tầng sinh môn. Tỷ
lệ phong bế vận động (BROMAGE) độ 0 chiếm 97,6%, độ I 1,9%, độ II 0,5%. Một số đặc điểm chuyển
dạ như cảm giác mắc rặn, thời gian chuyển dạ tương đồng với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ sinh thường
chiếm 66%, sinh giúp: 9,7%, và sinh mổ: 24,3%. Tác dụng không mong muốn: thủng màng cứng 0,48%
(1/206); hạ huyết áp: 1%, nôn: 2%, tiểu khó, và bí tiểu: 6,4%; đau đầu: 0,5%, và đau lưng 6,8%.
Kết luận: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml giúp GĐCD có hiệu quả
rõ rệt. Cần tiếp tục triển khai phác đồ để có thêm một sự lựa chọn trong GĐCD.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ

38 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ Võ Minh Tuấn*, Trương Văn Hiệu**. * Bộ môn Sản, ĐHYD Tp. HCM 0909727199, Email: [email protected] ** Bệnh viện Từ Dũ – Tp. HCM 0935881600, Email: [email protected] Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, một số đặc điểm chuyển dạ, tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml trong chuyển dạ. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu thực hiện tại BV Từ Dũ từ 22/10/2012 - 29/4/2013 trên 206 sản phụ được GTNMC giảm đau chuyển dạ (GĐCD) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml. Kết quả: Sau thủ thuật 15 phút VAS ≤ 3 chiếm 94,2%, giai đoạn chuyển dạ tích cực VAS ≤ 3 chiếm 92,9%, giai đoạn II chuyển dạ VAS ≤ 3 chiếm 55,8%, VAS ≤ 3 chiếm 87,2% lúc khâu tầng sinh môn. Tỷ lệ phong bế vận động (BROMAGE) độ 0 chiếm 97,6%, độ I 1,9%, độ II 0,5%. Một số đặc điểm chuyển dạ như cảm giác mắc rặn, thời gian chuyển dạ tương đồng với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ sinh thường chiếm 66%, sinh giúp: 9,7%, và sinh mổ: 24,3%. Tác dụng không mong muốn: thủng màng cứng 0,48% (1/206); hạ huyết áp: 1%, nôn: 2%, tiểu khó, và bí tiểu: 6,4%; đau đầu: 0,5%, và đau lưng 6,8%. Kết luận: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml giúp GĐCD có hiệu quả rõ rệt. Cần tiếp tục triển khai phác đồ để có thêm một sự lựa chọn trong GĐCD. Từ khóa: Giảm đau chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, chuyển dạ giai đoạn tích cực, levobupivacaine The effect of Epidural analgesia for labor with Levobupivacaine combined with Fentanyl Tuan Vo,* Hieu Truong.** Abstract Objectives: To evaluate the effect of epidural analgesia with levobupivacaine 0.08% combined with fentanyl 2cmg/ml and to describe some characteristics of labor and the side effects of those medicines. Methods: A longitudinal prospective study was carried out at Tu Du hospital from 22/10/2012- 29/4/2013 recruited 206 pregnant women in labor whom were indiated epidural analgesia with levobupivacaine 0.08% combined with fentanyl 2cmg/ml. Results: VAS< 3 was 94.2 % after 15 minutes undergone epidural anesthesia; these score was 92,9% in the active stage labor ; 58.5% in the second stage of labor; 87.2% during episiorrhaphy procedure respectively. The percentages of blocking movement (BROMAGE) were found with level 0: 97.6 %, level 1: 1.9 %, level 2: 0.5%. Somes of labor characteristic such as feeling of pushing, time of all labor stages were similar to other studies. The ratio of spontaneous deliveries vs assitant deliveries vs C-section was 66% vs 9.7%, vs 24.3%. Side effects included epidural membrane rupture (0.48% ), hypotention (1%), vomit (2%), urinary retention (6.4%), headache (0.5%), and backache (6.8%). Conclusions: Epidural analgesia with levobupivacaine 0.08 percent and fentanyl 2 mcg/ml relieved pain in labor remakablely. The protocol of epidural analgesia is needed to be developed that provide more options for anesthesiologists. Key words: Labor analgesia, Epidural anesthesia, Active period of labor. 39 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Đặt vấn đề Có nhiều phương pháp giảm đau chuyển dạ (GĐCD), gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) được đánh giá là phương pháp an toàn, hiệu quả và sử dụng phổ biến. Áp dụng GTNMC để GĐCD đã có từ hơn 50 năm về trước.1 Tại Việt Nam, bệnh viện (BV) Hùng Vương là nơi thực hiện GĐCD đầu tiên từ năm 1988 do Tô Văn Thình và cộng sự thực hiện GTNMC đặt catheter để giảm đau ngắt quãng trên 62 sản phụ (SP) hiệu quả rất tốt. Sau đó, phương pháp giảm đau này được thực hiện tại nhiều bệnh viện khác trong toàn quốc. BV Từ Dũ đã triển khai GĐCD bằng GTNMC từ năm 1999. Gần đây, phương pháp GTNMC liên tục, lưu catheter bổ sung thuốc tê liều thấp phối hợp với các thuốc giảm đau trung ương đã được nghiên cứu sử dụng rộng rãi trong GĐCD. Phương pháp này không chỉ giảm nguy cơ gây độc do tích lũy thuốc tê, có tác dụng giảm đau hiệu quả, mà còn đáp ứng quá trình chuyển dạ sinh lý giúp cho việc kiểm soát sinh, giảm thiểu tỉ lệ xổ thai có can thiệp và các tác động tâm lý cho SP sau sinh.2 Năm 1988 levobupivacaine được giới thiệu.3 Liều dùng, hiệu quả lâm sàng của levobupivacaine tương đương với bupivacaine nhưng độc tính trên hệ thần kinh trung ương và tim thấp hơn. BV Từ Dũ đã triển khai phương pháp GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,1% và fentanyl GĐCD, tuy nhiên chưa triển khai rộng rãi và chưa có đánh giá đầy đủ về hiệu quả của phương pháp này. Nhằm tìm hiểu khả năng cải thiện chất lượng GĐCD, khả năng giảm thiểu các tác dụng ngoại ý khi dùng hỗn hợp levobupivacaine và fentanyl để GTNMC, từ đó đưa ra thêm một lựa chọn cho GĐCD, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp levobupivacaine và fentanyl trong giảm đau chuyển dạ”. Câu hỏi nghiên cứu: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml có hiệu quả thế nào trong GĐCD? Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính: Đánh giá hiệu quả giảm đau của phương pháp GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ ml trong chuyển dạ. Mục tiêu phụ - Mô tả một số đặc điểm chuyển dạ trong nhóm có GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine và fentanyl. - Mô tả tỷ lệ tác dụng không mong muốn GTNMC bằng hỗn hợp levo-bupivacaine và fentanyl. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Mô tả dọc tiến cứu. Đối tượng nghiên cứu - Dân số đích: Tất cả SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần vào chuyển dạ. - Dân số nghiên cứu: Tất cả SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần nhập vào khoa sinh BV Từ Dũ theo dõi sinh ngả âm đạo. - Dân số chọn mẫu: Tất cả SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần vào khoa sinh BV Từ Dũ theo dõi sinh ngả âm đạo, hội đủ các tiêu chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tiêu chuẩn nhận vào - SP được bác sĩ sản khoa đánh giá theo dõi sinh ngả âm đạo khi vào chuyển dạ. - Các SP trong giai đoạn chuyển dạ tích cực, cổ tử cung mở ≥ 4cm. - SP không có chống chỉ định GTNMC. - SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần có yêu cầu được làm GĐCD. 40 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 Tiêu chuẩn loại trừ - SP không giao tiếp được. - SP có chiều cao dưới 1,45 m. - SP có tiền sử dị ứng thuốc tê và thuốc họ morphine. Cỡ mẫu P = 94,4%, Z: trị số phân khối chuẩn = 1,96, d: độ chính xác tuyệt đối = 5%, n: cỡ mẫu tối thiểu = 82 đáp ứng cho năng lực mẫu của mục tiêu chính. Phương pháp chọn mẫu: ngẫu nhiên đơn. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 10/2012 -04/2013 tại BV Từ Dũ Công cụ nghiên cứu: Thang điểm VAS dùng để đánh giá mức độ đau Thang điểm Bromage dùng để đánh giá mức độ phong bế vận động Dùng test cồn lạnh đánh giá mức ức chế cảm giác Phương thức tiến hành Bước 1: Chuẩn bị - Phương tiện, trang thiết bị, dụng cụ và thuốc GTNMC - Chọn bệnh theo tiêu chuẩn nhận và tiêu chuẩn loại trừ. - Giải thích cho SP về GĐCD và đồng ý ký bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu. - Ghi nhận các thông tin cơ bản về SP, khám tiền mê - Đánh giá mức độ đau qua thang điểm VAS Bước 2: Thực hiện phương pháp GTNMC Xác định khoang NMC bằng kỹ thuật “mất sức cản” với nước muối sinh lý, luồn catheter vào khoang NMC với độ sâu 3- 5cm. Sau khi nhận thấy catheter không có chảy ra máu hay dịch thì bơm liều test lidocain 2% 2 ml . Sau khi mạch, huyết áp của SP ổn định và giơ hai chân lên cao được bình thường thì bơm liều nạp 12 ml dung dịch levobupivacaine 0,08% + 50 mcg fentanyl; liều nạp được chích ngắt quãng 4 ml dung dịch thuốc tê mỗi 3 phút với test hút ngược catheter. Sau liều nạp 10 phút, dùng dụng cụ bơm tiêm điện truyền levobupivacaine 0,08% + fentanyl 2 mcg/ml ([L+V])với vận tốc 10 ml/giờ. Theo dõi sinh hiệu SP, xử trí tai biến nếu có. Bước 3: Theo dõi và đánh giá sau khi tiêm thuốc 15 phút Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến nếu có, đánh giá điểm VAS, Bromage, mức phong bế cảm giác. Truyền duy trì qua bơm tiêm điện hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2mcg/ml tốc độ 10ml/giờ. Bước 4: giai đoạn chuyển dạ tích cực đến cổ tử cung trọn. Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử cung (TC) hay không, thời gian chuyển dạ, cảm giác mắc rặn giai đoạn tích cực. Bước 5: Theo dõi đánh giá giai đoạn II chuyển dạ Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử cung hay không, thời gian chuyển dạ, cảm giác mắc rặn giai đoạn II, cách sinh, lý do, cân nặng trẻ, chỉ số APGAR. Bước 6: Theo dõi và đánh giá giai đoạn III chuyển dạ và may tầng sinh môn Sau khi sổ thai nếu SP đau (VAS>3) tiêm 10ml [L+F], sau tiêm 15 phút tiến hành 41 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC thủ thuật, nếu VAS>3 thì tê tại chỗ bằng lidocaine. Đánh giá điểm VAS. Ngay sau khi kết thúc cuộc sinh: khâu tầng sinh môn, kiểm soát TC: rút bỏ catheter, băng vô trùng vị trí gây tê. Trường hợp nghi ngờ có rối loạn đông máu thì kiểm tra lại các xét nghiệm đông máu trước khi rút catheter. Bước 7: Theo dõi và đánh giá tại khoa hậu sản. Kết quả và bàn luận Nhận xét: Chúng tôi gây tê theo tư thế ngồi là chủ yếu 96,2% (198/206) (Bảng 1). Một số trường hợp SP không hợp tác, nên chúng tôi thực hiện tư thế nằm nghiêng trái. Ưu điểm của tư thế nghiêng so với tư thế ngồi là: (1) hạ HA tư thế ít hơn; (2) có thể theo dõi nhịp tim thai trong thời gian đặt catheter NMC; (3) một vài SP thấy dễ chịu; cung lượng tim mẹ giảm nhiều hơn với tư thế gập bụng tối đa trong tư thế nghiêng hơn tư thế ngồi trong xác định khoang NMC. Sự gập bụng tối đa sẽ gia tăng chèn ép động mạch chủ dưới. Ngược lại, trong tư thế ngồi, tử cung sẽ đẩy về trước (do đó không gây chèn ép động mạch chủ). Cần phải tránh “tư thế bó chặt thai”, nhất là khi SP ở tư thế nằm nghiêng. Bảng 2: Trước khi làm GDCD, hầu hết SP đều đau, mức độ đau vừa, nhiều, và đau dữ dội là 99,5% (205/206). Mức độ đau sau làm GĐCD 15 phút thay đổi đáng kể. Mức độ đau 4-10 điểm từ 99,5% giảm xuống còn 5,8%. Đặc biệt tình trạng đau dữ dội không có, điểm đau từ 0-1 đạt 45,1% (93/206). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p=0,001. Điều này cho thấy hiệu quả rõ rệt của gây tê ngoài màng cứng giảm đau chuyển dạ bằng hỗn hợp thuốc levobupivacaine và fentanyl. Bảng 3: Mức độ đau giai đoạn chuyển dạ tích cực: 9-10 điểm: không trường hợp; 4-8 điểm là 6,8% (14/206); từ 2-3 điểm: 59,7% (123/206); 0-1 điểm: 33,5% (69/206). Giai đoạn chuyển dạ tích cực là giai đoạn chuyển dạ dài, việc ứng dụng gây tê giảm đau trong giai đoạn này là rất quan trọng. Các kết quả đạt được của chúng tôi cho thấy hiệu quả giảm đau rõ của phương pháp GTNMC với nồng độ thuốc tê thấp (0,08%), tương tự với các tác giả khác làm tại bệnh viện Từ Dũ với thuốc và liều lượng khác nhau. Điều này cho thấy rằng nên giảm nồng độ thuốc tê trong GĐCD. GTNMC có hiệu quả giảm đau rõ lúc may TSM: có 136/156 (87,2%) SP không đau và đau nhẹ, 17/156 (10,9%) đau vừa, 3/206 (1,9%) đau nhiều. 42 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 Chúng tôi đánh giá mức độ phong bế vận động theo thang điểm của Bromage (Bảng 4). Phong bế vận động độ 0 chiếm 97,6% (201/206), độ 1: 1,9% (4/206), độ 2: 0,5% (1/206). Phong bế vận động là một tác dụng không mong muốn của GTNMC GĐCD. Phong bế vận động trong chuyển dạ làm giảm sức rặn của SP, kéo dài thời gian chuyển dạ, giảm chất lượng phương pháp giảm đau cũng như sự hài lòng của SP. Nồng độ thuốc tê giảm sẽ giảm được sự ức chế vận động. Như vậy, với nồng độ levobupivacaine 0,08% được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi đủ để ức chế cảm giác đau và tác dụng phong bế vận động ở mức thấp. Mức phong bế cảm giác (Bảng 5 & 6) đồng đều cả 2 bên chiếm đa số 94,7% (195/206). Phong bế cảm giác không đối xứng 5,3% (11/206), trong số này mức tê bên trái cao hơn bên phải 7/11 trường hợp. Theo Chestnut, các yếu tố gây ra sự không đối xứng này là: (1) tiêm chậm một thể tích nhỏ; (2) vách ngăn bẩm sinh đường giữa màng cứng; (3) dính đường giữa mắc phải; (4) đầu catheter đi vào vùng cạnh cột sống; (5) đặt đầu mũi catheter vào phần trước khoang ngoài màng cứng. 43 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Cũng theo tác giả, nghiên cứu 236 bệnh nhân được GTNMC, khảo sát có 7/236 mất cảm giác lạnh một bên, và chụp cản quang khoang NMC trên nhóm bệnh nhân này thì thấy có 4/7 trường hợp catheter đi ra phần trước khoang ngoài màng cứng; 3/7 trường hợp catheter chui qua lỗ màng cứng. Trong nghiên cứu chúng tôi, chuyển dạ thời kỳ hoạt động (Bảng 7), sử dụng thuốc tăng co tử cung 42,3% (66/156) trường hợp; không tăng co 57,7% (90/156), tỷ lệ mắc rặn 52,5% (82/156) tương tự nghiên cứu của các tác giả khác. GTNMC với nồng độ thuốc tê thấp không ảnh hưởng đến gò tử cung cũng như cảm giác mắc rặn SP, đây là điểm thuận lợi cho cuộc chuyển dạ trong thời kỳ hoạt động vì tránh được cổ tử cung phù nề do sản phụ rặn sớm. Chúng tôi ghi nhận có 106/156 (67,9%) SP có tăng co trong giai đoạn II chuyển dạ (Bảng 8). Tương tự như kết quả của V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) tại BV Từ Dũ (66,3%).4 Số SP có cảm giác mắc rặn trong giai đoạn II chuyển dạ là 140/156 (89,7%), tỷ lệ này phù hợp với các tác giả Phạm Thiều Trung (2011) là 89,76%, Nguyễn Văn Chinh (2011)5 là 91,25%, V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) là 91%. Tỷ lệ sinh mổ, sinh giúp của nghiên cứu này (Bảng 9) phù hợp với thống kê tại BV Từ Dũ trong thời gian nghiên cứu (24,2% sinh mổ). Chỉ định cách sinh ở mỗi tuyến và mỗi BV có đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên tất cả các nghiên cứu của các tác giả đều thống nhất: GTNMC không ảnh hưởng đến cách sinh, không làm tăng tỷ lệ sinh giúp và sinh mổ. Thay đổi tim thai và sinh hiệu sản phụ trước và sau khi tiêm thuốc (Bảng 10): Mạch trước khi tiêm thuốc là 85 ±7,3 lần/ phút. Sau tiêm 15 phút là 80,2 ± 64,9, sau 30 phút 79,4 ± 7,1, và sau 1 giờ 79,5 ± 6,6 có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05. Sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê nhưng không làm thay đổi về ý nghĩa lâm sàng nhiều. Huyết áp (HA) trước khi gây tê và sau khi gây tê khác nhau có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05, tuy nhiên không có ý nghĩa về mặt 44 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 lâm sàng. Sau khi gây tê thì HA giảm hơn so với chưa gây tê nhưng hầu hết HA nằm trong giới hạn bình thường, không cần phải xử trí gì. Trong nghiên cứu này có 2/206 trường hợp HA tụt cần phải xử trí. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng giảm mạch, HA sau khi GTNMC là do tác dụng làm giảm đau giúp ngăn chặn sự tăng tiết cathecolamin do đau, do GTNMC gây ức chế giao cảm, làm mạch chậm, giãn mạch dẫn đến giảm HA. Cân nặng của trẻ trung bình: 3,2 kg ± 0,37 kg, trẻ nặng nhất 4,5 kg gặp ở SP bị bệnh tiểu đường, trẻ nhẹ nhất 2,2 kg gặp ở SP sinh thường. Còn lại đa số cân nặng của trẻ tập trung từ 3 kg đến 3,5 kg chiếm hơn 51%. APGAR sau 1 phút ≥ 7 chiếm tỷ lệ 95,1% (196/206). Tương tự nghiên cứu của V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) 96,7% , thấp hơn Nguyễn Thị Thanh6 99,6% nhưng cao hơn Nguyễn Văn Chinh 91,2%. APGAR sau 5 phút ≥ 9 điểm là 66% (136/206); < 9 điểm là 34% (70/206) nhưng không có trường hợp nào có chỉ số APGAR < 7 điểm. Hạ HA trong nghiên cứu này có 2/206 (0,97%) trường hợp. SP thứ nhất: HA trước gây tê là 120/70 mmHg, sau gây tê 15 phút HA tụt 80/60 mmHg, kèm theo mệt, chóng mặt, buồn nôn, được xử trí: truyền dịch, kết hợp cho thở ô xy, sau đó HA ổn định. SP thứ hai: HA trước gây tê là 130/80 mmHg, sau gây tê 15 phút HA tụt 80/60 mmHg, xử trí tương tự nhưng HA vẫn chưa trở lại trị số bình thường, tiếp tục xử trí thêm: ephedrin 10 mg tiêm tĩnh mạch, sau đó HA ổn định trong suốt cuộc chuyển dạ. Cả hai trường hợp này đều âm tính với test hút ngược, không có dịch não tủy, máu. Trong GTNMC thì hạ HA không đáng kể với thuốc tê nồng độ thấp. Kết luận và kiến nghị Phác đồ giúp GĐCD có hiệu quả rõ rệt. Đặc điểm chuyển dạ như: cảm giác mắc rặn của SP, thời gian chuyển dạ, tỷ lệ sinh giúp và sinh mổ được mô tả với các tỉ lệ tương đồng so với các phác đồ khác GTNMC GĐCD. Tỷ lệ phong bế vận động thấp. Tình trạng sức khỏe SP và thai ổn định. Tỷ lệ xảy ra các tác dụng phụ thấp, dễ xử lý. Phấn đấu tăng tỷ lệ GĐCD để nâng cao chất lượng chăm sóc SP trong chuyển dạ. Chỉ định GTNMC GĐCD nên rộng rãi hơn, sớm hơn khi bắt đầu vào chuyển dạ để giúp ngừa đau trong chuyển dạ. Cần tiếp tục triển khai phác đồ GTNMC GĐCD bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ ml bệnh để có thêm một sự lựa chọn. Nghiên cứu thêm về GTNMC GĐCD với nồng độ thuốc tê thấp (0,0625%), ứng dụng các thuốc tê mới như ropivacaine, levobupivacaine. Từ đó đưa ra thêm các lựa chọn trong GĐCD cho bác sỹ gây mê hồi sức. Tài liệu tham khảo 1. Ali Uzuner, Kemal Tolga Saracoglu, Ayten Saracoglu, Ozcan Erdemli (2011), “The comparative study of epidural levobupivacaine and bupivacaine in major abdominal surgeries”. Journal of Research in Medical Sciences, 16, (9), pp. 435-337 45 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 2. Hawkins Joy L (2010): “Epidural analgesia for labor and deliver”. The new Enlnd journal of medicine, 363, p 1503 – 1010. 3. Hui-Ling Lee (2011), “Comparison between 0.08% Ropivacaine and 0.06% Levobupi-vacaine for Epidural Analgesia during Nulliparous Labor”. Chang Gung Med J: 34: 286-92. 4. Võ Minh Tuấn & Phan Thị Thu Ba (2013). So sánh kết cục sinh ngả âm đạo giữa có và không giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng. ISSN 1859-1779. Tập san Y học TP. HCM; số 17, tháng 1/2013: Trang 141-148. 5. Nguyễn văn Chinh, Vũ Thị Nhung, Nguyễn văn Chừng (2011) “Gây tê ngoài màng cứng phối hợp Bupivacaine với Fentanyl để giảm đau trong sản khoa” Tạp chí Y học TP HCM NXB : 2011, Tập 15,số 3, Tr 186-194 6. Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Trọng Thắng (2011), “Hiệu quả và an toàn của giảm đau trong chuyển dạ với gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacaine nồng độ thấp kết hợp fentanyl không dùng liều thử” .Y học TP. Hồ Chí Minh, chuyên đề Gây mê hồi sức,tập 15(3),tr 101-108. 7. Atanasova M. and Nikolov A (2011), “Epidural analgesia for vaginal delivery. influence over the delivery, fetal presentation, the method of delivery and lactation”, Akush Ginekol (Sofiia), 50(6), pp. 28-36 8. Carl E Rosow, Mark Dershwitz (2008), “Pharmacology of Opioid Analgesics”. Anesthesiology. Volume 1, (41), Medical Books, McGraw-Hill, Usa, pp.869-896. 9. Crina L Burlacu, Buggy J Donal (2008), “Update on local anesthetics: focus on levobupivacaine”. Ther Clin Risk Manag; 4(2): 381-392. 10. Devor M (2006), “Pathophysiology of nerve injury”. Pain, Volume 81, Elsevier, pp. 261-276. 11. Lin MC, Huang JY, Lao HC, Tsai PS, Huang CJ (2010), “Epidural analgesia with low-concentration levobupivacaine combined with fentanyl provides satisfactory postoperative analgesia for colorectal surgery patients.”. Acta Anaesthesiol Taiwan. 48(2) : 68-74.
File đính kèm:
hieu_qua_cua_phuong_phap_gay_te_ngoai_mang_cung_bang_hon_hop.pdf