Hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị mất ngủ không thực tổn

Mất ngủ ngày càng gia tăng và trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại, tỉ lệ mất ngủ ở người trưởng thành tại Việt

Nam là 30 – 45%. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị

mất ngủ không thực tổn. 66 bệnh nhân từ 18 tuổi được chẩn đoán mất ngủ không thực tổn. Bệnh nhân được chia

thành 2 nhóm: cấy chỉ và điện châm. Kết quả cho thấy chất lượng, thời lượng giấc ngủ, điểm PSQI trung bình, triệu

chứng thứ phát sau mất ngủ sau điều trị ở nhóm cấy chỉ và điện châm cải thiện có ý nghĩa thống kê so với trước

điều trị (p < 0,05).="" cấy="" chỉ="" cải="" thiện="" tần="" suất="" mất="" ngủ="" hiệu="" quả="" hơn="" điện="" châm="" (p="">< 0,05).="" như="" vậy,="" cấy="" chỉ="" và="">

châm có tác dụng cải thiện chất lượng và thời lượng giấc ngủ nhưng cấy chỉ có xu hướng cải thiện tần suất mất ngủ

tốt hơn. Chưa thấy tác dụng không mong muốn của phương pháp cấy chỉ trong điều trị mất ngủ không thực tổn

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị mất ngủ không thực tổn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị mất ngủ không thực tổn

Hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị mất ngủ không thực tổn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
67TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Tuyết Trang,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 14/12/2019
Ngày được chấp nhận: 17/03/2020
HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP CẤY CHỈ CATGUT VÀO HUYỆT 
TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT NGỦ KHÔNG THỰC TỔN
Nguyễn Tuyết Trang1, , Nguyễn Thị Bích Hằng2, Bùi Tiến Hưng1, 
Trần Văn Thuấn3, Nguyễn Phương Anh3
1Khoa Y học cổ truyền – Trường Đại học Y Hà Nội, 
2Bệnh viện Y học cổ truyền Bắc Giang, 
3Khoa Y học Dân tộc – Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
Mất ngủ ngày càng gia tăng và trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại, tỉ lệ mất ngủ ở người trưởng thành tại Việt 
Nam là 30 – 45%. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị 
mất ngủ không thực tổn. 66 bệnh nhân từ 18 tuổi được chẩn đoán mất ngủ không thực tổn. Bệnh nhân được chia 
thành 2 nhóm: cấy chỉ và điện châm. Kết quả cho thấy chất lượng, thời lượng giấc ngủ, điểm PSQI trung bình, triệu 
chứng thứ phát sau mất ngủ sau điều trị ở nhóm cấy chỉ và điện châm cải thiện có ý nghĩa thống kê so với trước 
điều trị (p < 0,05). Cấy chỉ cải thiện tần suất mất ngủ hiệu quả hơn điện châm (p < 0,05). Như vậy, cấy chỉ và điện 
châm có tác dụng cải thiện chất lượng và thời lượng giấc ngủ nhưng cấy chỉ có xu hướng cải thiện tần suất mất ngủ 
tốt hơn. Chưa thấy tác dụng không mong muốn của phương pháp cấy chỉ trong điều trị mất ngủ không thực tổn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất ngủ không thực tổn là trạng thái không 
thoải mái về số lượng và chất lượng giấc ngủ, 
rối loạn này tồn tại trong thời gian dài làm ảnh 
hưởng đến sức khỏe và khả năng làm việc của 
người bệnh. 23,2% dân số trưởng thành ở Hoa 
Kỳ bị mất ngủ.1 Tỷ lệ mắc mất ngủ ở một số 
nước Châu Á dao động từ 9,2% đến 11,9%.2,3 
Điều trị mất ngủ không thực tổn hàng đầu là 
liệu pháp hóa dược kết hợp trị liệu nhận thức – 
hành vi. Liệu pháp hóa dược mang lại tác dụng 
ngắn hạn nhưng mang lại sự phụ thuộc và ảnh 
hưởng hoạt động ban ngày nếu dùng dài hạn.4
Mất ngủ không thực tổn thuộc phạm vi chứng 
thất miên theo Y học cổ truyền.5 Các biện pháp 
không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp bấm 
huyệt, khí công, dưỡng sinh thường được sử 
dụng đơn thuần hay phối hợp với thuốc mang 
lại hiệu quả điều trị.
Cấy chỉ còn gọi là chôn chỉ, vùi chỉ, xuyên 
chỉ là một phương pháp châm cứu đặc biệt 
được ứng dụng điều trị các bệnh mạn tính như 
hen phế quản, viêm mũi dị ứng, thoái hóa cột 
sống6 Hiện nay, phương pháp này đang được 
sử dụng nhiều nhưng chưa có một công trình 
nghiên cứu nào đánh giá tác dụng điều trị của 
phương pháp cấy chỉ một cách hệ thống trong 
điều trị mất ngủ không thực tổn. Vì vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu 
đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương 
pháp cấy chỉ catgut vào huyệt trong điều trị mất 
ngủ không thực tổn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
Gồm 66 bệnh nhân được chẩn đoán mất 
Từ khóa: cấy chỉ, mất ngủ không thực tổn, điện châm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
68 TCNCYH 126 (2) - 2020
ngủ không thực tổn điều trị ngoại trú tại phòng 
khám Đông Y – Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học hiện 
đại
Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên. Chẩn đoán 
mất ngủ không thực tổn theo tiêu chuẩn ICD10 
– F51.0 gồm các triệu chứng mất ngủ trên 1 
tháng: khó khăn lặp đi lặp lại về việc đi vào giấc 
ngủ, duy trì giấc ngủ, không thoả mãn về số 
lượng và chất lượng giấc ngủ và dẫn đến một 
số suy giảm chức năng ban ngày: cảm giác mệt 
mỏi, thiếu hụt giấc ngủ, ảnh hưởng đến hoạt 
động xã hội và nghề nghiệp.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo y học cổ 
truyền
Thất miên thể âm hư hỏa vượng.
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Lo âu và lo âu bệnh lý: test Zung > 50 điểm; 
test Beck > 19 điểm; 
Mất ngủ liên quan đến bệnh thực thể tại não 
và ngoài não. 
Chất liệu nghiên cứu
Công thức huyệt theo phác đồ điều trị mất 
ngủ không thực tổn của Bộ y tế:
Nội quan, Thần môn, Tam âm giao, An miên 
2, Thận du 2 bên. 
Điện châm: kích thích bằng máy điện châm 
cường độ từ 14 – 150 micro Ampe
* Châm bổ (tần số 0,5 - 4 Hz): Tam âm giao, 
Thận du
* Châm tả ( tần số 6 – 20 Hz): Nội quan, 
Thần môn, An miên 2
Cấy chỉ: thực hiện qua các bước: cắt chỉ 
catgut thành đoạn 1cm, luồn chỉ vào nòng kim, 
xác định chính xác huyệt và sát trùng, châm 
kim nhanh qua da, đẩy nòng kim để chỉ nằm lại 
trong huyệt và nhẹ nhàng rút kim.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, so sánh trước 
- sau điều trị có đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2016 – 
tháng 12/2018.
Liệu trình điều trị:
* Nhóm điện châm: điện châm 21 ngày, ngày 
1 lần, lưu kim 25 phút. 
* Nhóm cấy chỉ: Cấy chỉ catgut vào thời 
điểm: N0
Nội dung nghiên cứu
Chỉ tiêu theo dõi (trước điều trị N0 và sau 
điều trị N21)
- Đánh giá chất lượng giấc ngủ theo chủ 
quan, thời lượng giấc ngủ.
- Đánh giá tần suất mất ngủ trong tuần
- Đánh giá chất lượng giấc ngủ theo thang 
điểm PSQI.
- Triệu chứng thứ phát sau mất ngủ: mệt 
mỏi, hay quên, lo lắng, hoa mắt chóng mặt, 
giảm tập trung chú ý
- Tác dụng không mong muốn: dị ứng, mẩn 
ngứa, chảy máu, lộ đầu chỉ
Chỉ tiêu đánh giá kết quả
- Chất lượng giấc ngủ theo chủ quan ở mức 
độ tốt, khá, trung bình, kém.
- Thời lượng giấc ngủ chia thành các mức 
độ:> 7h; 6 – 7h; 5 - < 6h; < 5h.
- Tần suất mất ngủ chia thành các mức độ: 
0 lần; 1 lần; 2 - 3 lần; > 3 lần.
- So sánh điểm PSQI trung bình và hiệu suất 
chênh sau điều trị giữa hai nhóm. Bảng PSQI 
gồm 7 yếu tố đánh giá chất lượng giấc ngủ theo 
chủ quan bệnh nhân; giai đoạn đi vào giấc ngủ; 
thời lượng giấc ngủ; hiệu quả thói quen đi ngủ; 
các rối loạn trong giấc ngủ; sự sử dụng thuốc 
ngủ và chức năng sinh hoạt ban ngày.
3. Xử lý số liệu 
Phần mềm SPSS 16.0 . Thuật toán sử dụng 
so sánh kết quả:
+ Kiểm định X2: so sánh sự khác nhau giữa 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
69TCNCYH 126 (2) - 2020
các tỷ lệ.
+ T-Test Student: so sánh 2 giá trị trung bình.
+ Với p ≥ 0,05: sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê; 
Với p < 0,05: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được hội đồng khoa học Bệnh 
viện Đa khoa Xanh Pôn cho phép. Bệnh nhân 
tự nguyện tham gia nghiên cứu và có thể rút 
khỏi nghiên cứu hoặc đổi phác đồ khác.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu
 Theo kết quả nghiên cứu, tuổi trung bình của các bệnh nhân mất ngủ không thực tổn là 64,4 ± 
10,9 tuổi; thấp nhất là 27 tuổi, cao nhất là 81 tuổi. Trong đó, bệnh nhân 60 - 69 tuổi chiếm tỷ lệ cao 
nhất 43,9% trên cả hai nhóm . Tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ 3/1. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh trên 12 tháng 
chiếm 39,4%. Bệnh nhân trong nghiên cứu diễn biến bệnh thường kéo dài, mạn tính.
2. Hiệu quả điều trị
 Bảng 1. Tần suất mất ngủ trong tuần trước và sau điều trị
Triệu chứng
Nhóm điện châm 
(n = 33)
D0 D21(1)
Nhóm cấy chỉ 
(n = 33)
D0 D21(2)
p1-2
Tần suất mất ngủ n % n % n % n %
0 lần 0 0 2 6,1 0 0 0 0
p < 0,05
1 lần 1 3,0 11 33,3 0 0 20 60,6
2 – 3 lần 4 12,1 20 60,6 2 6,1 11 33,3
> 3 lần 28 84,9 0 0 31 93,9 2 6,1
pD0-D21 < 0,05 < 0,05
Bảng 1 thể hiện sự thay đổi tần suất mất ngủ trong tuần trước và sau điều trị của hai nhóm. Trước 
điều trị, 84,9 % bệnh nhân ở hai nhóm điện châm và 93,9% ở nhóm cấy chỉ mất ngủ nhiều hơn 3 lần/ 
tuần. Sau 21 ngày điều trị, tần suất mất ngủ của nhóm cấy chỉ giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) 
so với nhóm điện châm.
Bảng 2. Chất lượng và thời lượng giấc ngủ trước và sau điều trị
Triệu chứng
Nhóm điện châm 
(n = 33)
 D0 D21(1)
Nhóm cấy chỉ 
(n = 33)
D0 D21(2)
p1-2
 n % n % n % n %
Chất lượng giấc ngủ 
Tốt 0 0 3 9,1 0 0 2 6,1
p > 0,05
Khá 0 0 22 66,7 0 0 25 75,7
Trung bình 2 6,1 8 24,2 3 9,1 6 18,2
Kém 31 93,9 0 0 30 90,9 0 0
pD0-D21 < 0,05 < 0,05
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
70 TCNCYH 126 (2) - 2020
Triệu chứng
Nhóm điện châm 
(n = 33)
 D0 D21(1)
Nhóm cấy chỉ 
(n = 33)
D0 D21(2)
p1-2
 n % n % n % n %
Thời lượng giấc ngủ 
Tốt 0 0 0 0 0 0 01 3,0
p > 0,05
Khá 0 0 1 3,0 0 0 04 12,1
Trung bình 01 3,0 20 60,6 02 6,1 22 66,7
Kém 32 97,0 12 36,4 31 93,9 06 18,2
pD0-D21 < 0,05 < 0,05
Chất lượng giấc ngủ thể hiện sự đánh giá chủ quan cũng như sự hài lòng của bệnh nhân về chính 
giấc ngủ của mình. Trước điều trị tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều có chất lượng và thời lượng 
giấc ngủ ở mức trung bình và kém. Sau điều trị, mức độ cải thiện chất lượng giấc ngủ và thời lượng 
giấc ngủ của từng nhóm tại thời điểm sau 21 ngày điều trị đều cải thiện có ý nghĩa thống kê so với 
trước điều trị. (Bảng 2).
Bảng 3. Hiệu quả điều trị theo PSQI của 2 nhóm trước và sau điều trị
PSQI 
( X ± SD)
Nhóm điện châm (1)
(n = 33)
Nhóm cấy chỉ (2)
(n = 33)
p1-2
Trước điều trị (a) 18,3 ± 1,3 18,1 ± 1,8
> 0,05
Sau điều trị (b) 10,6 ± 2,4 9,8 ± 3,4
Điểm chênh trung bình 7,7 ± 1,8 8,3 ± 2,8 > 0,05
pa-b < 0,05 < 0,05
Điểm PSQI trung bình sau điều trị 21 ngày ở hai nhóm đều giảm có ý nghĩa thống kê so với trước 
điều trị (p < 0,05). Điểm PSQI trung bình và điểm chênh trung bình ở các thời điểm điều trị của hai 
nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. (Bảng 3).
Bảng 4. Các triệu chứng thứ phát sau mất ngủ
Triệu chứng thứ phát
sau mất ngủ
Nhóm chứng 
(n = 33)
Nhóm nghiên cứu
(n = 33)
pa-bD0 D21(a) D0 D21(b)
n % n % n % n %
Mệt mỏi 31 93,9 19 57,6 32 96,9 15 45,5
> 0,05
Giảm tập trung chú ý 22 66,7 11 33,3 19 57,6 10 30,3
Lo lắng 12 36,4 2 6,1 11 33,3 3 3,0
Hay quên 20 60,6 10 30,3 23 69,7 10 30,3
Hoa mắt, chóng mặt 16 48,5 9 27,3 18 54,6 10 30,3
pD0-D21 < 0,05 < 0,05
 Bảng 4 thể hiện sự cải thiện các triệu chứng thứ phát sau mất ngủ trước và sau điều trị ở cả 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
71TCNCYH 126 (2) - 2020
hai nhóm. Trong nghiên cứu thường gặp nhiều 
nhất các triệu chứng mệt mỏi, giảm tập trung 
chú ý, hay quên. Sau điều trị, các triệu chứng 
này đều cải thiện có ý nghĩa thống kê so với 
trước điều trị ở cả hai nhóm với p < 0,05.
3. Tác dụng không mong muốn
Sau 21 ngày điều trị theo dõi trên lâm sàng 
chưa phát hiện các triệu chứng như chảy máu, 
sẩn ngứa, lộ đầu chỉ, vựng châm, nhiễm trùng 
tại chỗ châm ở cả hai nhóm.
IV. BÀN LUẬN
 Hiệu quả cải thiện chất lượng, thời lượng 
giấc ngủ và tần suất mất ngủ trong tuần ở mỗi 
nhóm sau điều trị khác biệt có ý nghĩa thống kê 
so với trước điều trị (p < 0,05). Kết quả phù hợp 
với hiệu quả mà điện châm và cấy chỉ mang lại 
trong điều trị mất ngủ không thực tổn trong một 
số nghiên cứu.7,8 Sự khác biệt về hiệu quả cải 
thiện chất lượng và số lượng giấc ngủ giữa hai 
nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. 
Như vậy, việc điều trị mất ngủ không thực tổn 
bằng điện châm hay cấy chỉ đều mang lại hiệu 
quả tốt. 
 Tần suất mất ngủ là số lần mất ngủ trong 
một tuần. Trước điều trị, đa số các bệnh nhân 
trong nghiên cứu đều mất ngủ nhiều hơn ba lần 
trong một tuần. Sau điều trị, nhóm cấy chỉgiảm 
số lần mất ngủ trong tuầnhơn nhóm điện châm 
(sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05). 
Hiệu suất giảm điểm PSQI trung bình hai 
nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê với 
p > 0,05. Nhóm cấy chỉ có xu hướng hiệu suất 
giảm điểm nhiều hơn so với nhóm điện châm. 
Chất lượng giấc ngủ, thời lượng giấc ngủ cải 
thiện khiến các rối loạn ban ngày như ăn uống, 
lái xe, làm việc được giảm đi. Kết quả này cũng 
tương tự với nghiên cứu tại Trung Quốc.9
 Cấy chỉ thông qua cơ chế thần kinh và thể 
dịch tương tự như châm cứu mang lại hiệu 
quả cải thiện giấc ngủ cho bệnh nhân. Căng 
thẳng là một trong những nguyên nhân gây mất 
ngủ. Đối với những người bị căng thẳng mạn 
tính, hạch hạnh nhân (amygdala) kích hoạt, 
trục vùng dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng 
thận (HPA) sẽ được kích hoạt, làm tăng bài tiết 
cortisol. Sau đó, nồng độ ACTH và cortisol sẽ 
tăng lên, dẫn đến hiệu quả thức tỉnh. Do đó, 
mất ngủ có liên quan chặt chẽ với rối loạn chức 
năng của trục HPA. Các thí nghiệm trên động 
vật xác nhận rằng châm cứu có hiệu quả trong 
việc điều chỉnh mức độ hormone liên quan đến 
trục HPA. Người ta đã chứng minh được rằng 
có sự tăng β - endorphin, encephalin, serotonin 
và endomorphin-1 trong não và trong huyết 
tương trong quá trình châm cứu. Các chất này 
làm tăng interleukin – 2, interferon γ tác dụng 
chống trầm cảm, lo âu, tạo sự dễ chịu, cân 
bằng vận động. Điện châm cũng như cấy chỉ 
làm tăng hoạt động đồng bộ nơron, tăng chỉ số 
và biên độ sóng alpha, giảm sóng nhanh beta 
dẫn đến bệnh nhân có thể vào giấc nhanh hơn, 
giảm lo âu, căng thẳng.10
 Nhóm huyệt Nội quan, Thần môn, Tam 
âm giao có tác dụng: định Tâm, an thần, ích 
thận thủy, giao tế được thủy hỏa, quân bình 
âm dương trong đó Nội quan để thanh phần 
trên, Tam âm giao để tư bổ phần dưới. Huyệt 
An miên 2 điều trị mất ngủ, tâm thần phân liệt, 
hysteria. Huyệt Thận du có tác dụng ích thận 
thủy, định thần, thanh thần chí, giúp bệnh nhân 
được tư âm tiềm dương điều trị mất ngủ . 
Cấy chỉ đã góp phần làm giảm gánh nặng 
cho ngành y tế đặc biệt mang lại lợi ích đối với 
các bệnh nhân mắc bệnh mạn tính, kéo dài. 
Việc phải tới bệnh viện hàng ngày hay nằm nội 
trú tại bệnh viện càng làm cho bệnh nhân mất 
ngủ trở nên lo lắng và mất ngủ trầm trọng hơn.
Tiến hành theo dõi những tác dụng không 
mong muốn trong suốt quá trình nghiên cứu 
nhận thấy không có bệnh nhân nào có các triệu 
chứng vựng châm, chảy máu, sẩn ngứa, lộ đầu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
72 TCNCYH 126 (2) - 2020
chỉ, nhiễm trùng. Điều này cho thấy việc sử 
dụng cấy chỉ công thức huyệt trên điều trị bệnh 
nhân mất ngủ không thực tổn an toàn và có thể 
áp dụng được ở tuyến y tế cơ sở.
V. KẾT LUẬN
Hiệu quả của phương pháp cấy chỉ catgut 
vào huyệt trong điều trị mất ngủ không thực tổn:
+ Chất lượng giấc ngủ, thời lượng giấc ngủ, 
triệu chứng thứ phát sau mất ngủ ở mỗi nhóm 
sau điều trị cải thiện tốt hơn so với trước điều 
trị. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 
0,05 . Sự khác biệt giữa nhóm cấy chỉ và nhóm 
điện châm không có ý nghĩa thống kê với p > 
0,05.
+ Tần suất mất ngủ nhóm cấy chỉ cải thiện 
có ý nghĩa thống kê so với nhóm điện châm với 
p < 0,05.
+ Điểm trung bình và hiệu suất chênh theo 
thang điểm PSQI sau điều trị ở cả 2 nhóm cải 
thiện có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị. 
PSQI ở nhóm cấy chỉ có xu hướng giảm thấp 
hơn so với nhóm điện châm.
Chưa thấy tác dụng không mong muốn của 
phương pháp cấy chỉ trong điều trị mất ngủ 
không thực tổn.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin chân 
thành cảm ơn Khoa Y học cổ truyền -Trường 
Đại học Y Hà Nội và tập thể y bác sĩ Khoa Y học 
dân tộc - Bệnh viện Đa khoa Xanh pôn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kessler RC, Berglund PA, Coulouvrat 
C, et al. Insomnia and the performance of US 
workers: results from the America insomnia 
survey. Sleep. 2011;34(9):1161-1171. 
2. Kim K, Uchiyama M, Okawa M, Liu X, 
Ogihara R. An epidemiological study of insomnia 
among the Japanese general population. Sleep. 
2000;23(1):41-47.
3. Xiang Y-T, Ma X, Cai Z-J, et al. The 
Prevalence of Insomnia, Its Sociodemographic 
and Clinical Correlates, and Treatment in 
Rural and Urban Regions of Beijing, China: 
A General Population-Based Survey. Sleep. 
2008;31(12):1655-1662.
4. Riemann D, Perlis ML. The treatments of 
chronic insomnia: a review of benzodiazepine 
receptor agonists and psychological and 
behavioral therapies. Sleep Med Rev. 
2009;13(3):205-214. 
5. Hoàng Bảo Châu. Nội Khoa Y Học Cổ 
Truyền. Hà Nội: Nhà xuất bản Y học; 2006:122-
135.
6. Lê Thúy Oanh. Cấy Chỉ (Chôn Chỉ Catgut 
Vào Huyệt Châm Cứu). Hà Nội: Nhà xuất bản Y 
học; 2010:43-44.
7. Xu F, Xuan L-H, Zhou H-J, et al. Acupoint 
Catgut Embedding Alleviates Insomnia in 
Different Chinese Medicine Syndrome Types: 
A Randomized Controlled Trial. Chin J Integr 
Med. 2019;25(7):543-549. 
8.Guo J, Wang L-P, Liu C-Z, et al. Efficacy 
of acupuncture for primary insomnia: a 
randomized controlled clinical trial. Evid Based 
Complement Alternat Med. 2013;2013:163850. 
9.Yao H-F, Zhang H-F, Chen X-L. Observation 
on therapeutic effect of scalp-acupoint catgut 
embedding for 33 cases of insomnia patients. 
Zhen Ci Yan Jiu. 2012;37(5):394-397.
10. Xiao X, Wei J, Li W, et al. Mechanism 
Analysis of the Antidepressant Effect of 
Acupuncture by Regulating the HPA Axis. 
Shanghai Journal of Acupuncture and 
Moxibustion. 2016;35(6):758-760.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
73TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
EFFECTS OF ELECTROACUPUNCTURE AND 
ACUPOINT CATGUT EMBEDDING THERAPY FOR INSOMNIA
Insomnia is an increasing common condition in the modern society. The prevalence of insomnia 
of Vietnamese adults is 30 – 45% according to some recent studies. This research was conducted to 
evaluate the efficacy of electroacupuncture and acupoint catgut embedding therapy in the treatment 
for insomnia not due to a substance or known physiological condition. 66 patients aged 18 years old 
and over who were diagnosed with insomnia not due to a substance or known physiological condition 
were enrolled in the research. Subjects were divided into two groups: electroacupuncture group and 
catgut embedding group. The results revealed that the quality and quantity of sleep, the mean PSQI, 
the secondary symtomps improved after treatment comparing to those figures at the baseline, but the 
difference between two groups was not statistically significant (p > 0.05). The frequency of insomnia 
in the catgut embedding group decreased more significantly than the acupuncture (p < 0.05). In 
conclusion, acupoint catgut embedding and electroacupuncture showed good effects in improving the 
quality and quantity of sleep, but catgut embedding therapy posed promising better improvement of 
insomnia frequency. We haven’t found yet any side effect on treament of insomnia by catgut implantation.
Keywords: acupoint catgut embedding, insomnia, electroacupuncture

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_phuong_phap_cay_chi_catgut_vao_huyet_trong_dieu.pdf