Hiệu quả của budesonide khí dung trong phối hợp điều trị cơn hen cấp ở trẻ em

Sử dụng corticosteroid khí dung trong điều trị cơn hen cấp còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu nhằm đánh

giá hiệu quả của budesonide khí dung so với methylprednisolon tĩnh mạch trong phối hợp điều trị cơn hen

cấp ở trẻ em. Đây là nghiên cứu tiến cứu cắt ngang trên trẻ từ 2 - 17 tuổi vào viện vì cơn hen cấp. Đánh

giá hiệu quả dựa trên mức độ giảm triệu chứng lâm sàng ở các thời điểm 30 phút, 1 giờ và 4 giờ sau khi

bắt đầu điều trị. Trong 82 trẻ nhập viện, ở trẻ có cơn hen mức độ trung bình, nhóm sử dụng budesonide có

triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt so với nhóm sử dụng methylprednisolon ở mọi thời điểm. Ở trẻ có cơn

hen mức độ nặng, triệu chứng lâm sàng cải thiện tại thời điểm 30 phút ở nhóm budesonide cao hơn nhóm

methylprednisolon (p = 0,028). Tuy nhiên, nhóm methylprednisolon cải thiện triệu chứng lâm sàng tốt hơn tại

thời điểm 4 giờ (p < 0,001).="" như="" vậy,="" budesonide="" khí="" dung="" có="" tác="" dụng="" cải="" thiện="" nhanh="" triệu="" chứng="" lâm="" sàng="">

hen cấp so với methylprednisolon nhưng methyprednisolon có hiệu quả duy trì tình trạng chống viêm kéo dài

pdf 7 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của budesonide khí dung trong phối hợp điều trị cơn hen cấp ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của budesonide khí dung trong phối hợp điều trị cơn hen cấp ở trẻ em

Hiệu quả của budesonide khí dung trong phối hợp điều trị cơn hen cấp ở trẻ em
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 201998
HIỆU QUẢ CỦA BUDESONIDE KHÍ DUNG TRONG PHỐI HỢP 
ĐIỀU TRỊ CƠN HEN CẤP Ở TRẺ EM
Trần Thị Minh Trang và Nguyễn Thị Diệu Thúy
Trường Đại học Y Hà Nội
Sử dụng corticosteroid khí dung trong điều trị cơn hen cấp còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu nhằm đánh 
giá hiệu quả của budesonide khí dung so với methylprednisolon tĩnh mạch trong phối hợp điều trị cơn hen 
cấp ở trẻ em. Đây là nghiên cứu tiến cứu cắt ngang trên trẻ từ 2 - 17 tuổi vào viện vì cơn hen cấp. Đánh 
giá hiệu quả dựa trên mức độ giảm triệu chứng lâm sàng ở các thời điểm 30 phút, 1 giờ và 4 giờ sau khi 
bắt đầu điều trị. Trong 82 trẻ nhập viện, ở trẻ có cơn hen mức độ trung bình, nhóm sử dụng budesonide có 
triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt so với nhóm sử dụng methylprednisolon ở mọi thời điểm. Ở trẻ có cơn 
hen mức độ nặng, triệu chứng lâm sàng cải thiện tại thời điểm 30 phút ở nhóm budesonide cao hơn nhóm 
methylprednisolon (p = 0,028). Tuy nhiên, nhóm methylprednisolon cải thiện triệu chứng lâm sàng tốt hơn tại 
thời điểm 4 giờ (p < 0,001). Như vậy, Budesonide khí dung có tác dụng cải thiện nhanh triệu chứng lâm sàng cơn 
hen cấp so với methylprednisolon nhưng methyprednisolon có hiệu quả duy trì tình trạng chống viêm kéo dài.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Cơn hen cấp, budesonide, corticosteroid khí dung, methylprednisolon
Hen phế quản là bệnh viêm mạn tính đường 
thở thường gặp ở trẻ em, với tỷ lệ mắc xu 
hướng ngày càng gia tăng ở các nước đang 
phát triển [1].Cơn hen phế quản cấp là một trong 
những nguyên nhân thường gặp nhất làm bệnh 
nhân phải vào khoa cấp cứu và nhập viện, đặc 
biệt là ở trẻ em. Corticosteroid là thuốc chống 
viêm được sử dụng thường xuyên trong điều 
trị cơn hen cấp cũng như dự phòng hen phế 
quản [2]. Corticosteroid được biết đến với vai 
trò bất hoạt các chất trung gian gây viêm, giảm 
xuất tiết chất nhầy đường thở, tăng số lượng và 
hoạt hóa receptor β adrenergic đường thở [3; 
4]. Corticosteroid đường toàn thân (Sytsemic 
Corticosteroid - SCS) hiện nay được khuyến 
cáo là thuốc có vai trò quan trọng phối hợp với 
thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh trong điều 
trị cơn hen cấp, làm giảm mức độ nặng của cơn 
hen, giảm tỷ lệ nhập viện, cải thiện chức năng hô 
hấp và giảm tỷ lệ tái phát [2 - 4]. Corticosteroid 
đường toàn thân có 2 dạng chính: đường tiêm 
và đường uống. Thuốc dùng đường tĩnh mạch 
giúp đưa thuốc vào cơ thể nhanh, tuy nhiên cần 
thời gian lấy ven, đôi khi rất khó ở trẻ nhỏ và 
thường gây đau cho trẻ. Thuốc dùng đường 
uống thường khá đắng, trẻ khó uống trong cơn 
hen cấp, dễ gây nôn cho trẻ dẫn đến trì hoãn 
điều trị. Ngược lại, corticosteroid đường khí 
dung thường có tác dụng tại chỗ (đường hô 
hấp), tác dụng nhanh hơn so với đường uống, 
khả năng chống viêm tại chỗ cao, ít tác dụng 
toàn thân và dễ sử dụng. Rodrigo tổng hợp 17 
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên ở trẻ em (từ 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Diệu Thúy, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 07/08/2019
Ngày được chấp nhận: 10/09/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 99
6 tháng đến 17 tuổi) và người lớn (> 18 tuổi) 
với cơn hen cấp điều trị tại khoa hồi sức cấp 
cứu. Bệnh nhân được chia làm 3 nhóm, nhóm 
được sử dụng corticosteroid khí dung, nhóm sử 
dụng corticosteroid đường toàn thân và nhóm 
dùng giả dược kết hợp với thuốc giãn phế 
quản. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm dùng 
corticosteroid khí dung đa liều giảm tỷ lệ nhập 
viện sau 2 - 4 giờ so với nhóm dùng giả dược. 
Bệnh nhân nhóm dùng corticosteroid khí dung 
cải thiện triệu chứng lâm sàng nhanh hơn so 
với nhóm giả dược và nhóm dùng corticosteroid 
đường toàn thân, khả năng xuất viện cũng sớm 
hơn [5]. Tuy nhiên, việc sử dụng corticosteroid 
khí dung trong điều trị cơn hen cấp ở trẻ em 
còn nhiều tranh cãi [6]. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của 
corticosteroid khí dung (budesonide) so với 
methylprednisolon tĩnh mạch trong phối hợp 
với thuốc giãn phế quản điều trị cơn hen cấp 
ở trẻ em.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
82 trẻ trong cơn hen cấp điều trị nội trú tại 
bệnh viện Nhi Trung ương được mời tham gia 
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân có cơn hen phế quản cấp theo 
tiêu chuẩn của GINA 2018 [7].
- Bệnh nhân tuổi từ 2 - 17 tuổi.
- Bệnh nhân và gia đình đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân đã sử dụng corticosteroid 
đường toàn thân hoặc đường khí dung trong 
vòng 72 giờ trước khi nhập viện.
- Bệnh nhân có tiền sử mắc các bệnh phổi 
mạn (loạn sản phế quản phổi, xơ nang), suy 
gan, suy thận, tim bẩm sinh, thiếu máu hồng 
cầu to.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiến cứu cắt ngang, 
so sánh đáp ứng điều trị của corticosteroid 
đường khí dung và đường tĩnh mạch phối hợp 
thuốc giãn phế quản trong điều trị cơn hen 
cấp ở trẻ em. 
Trẻ từ 2-17 tuổi nhập viện vì cơn hen cấp 
tại Bệnh viện nhi Trung ương từ tháng 7/2018 
đến tháng 6/2019 có đủ tiêu chuẩn được 
chọn vào nghiên cứu sẽ trải qua một quy trình 
chung như sau:
- Bác sỹ trực tiếp hỏi bệnh sử, tiền sử, 
khám lâm sàng, đánh giá mức độ nặng của 
cơn hen cấp theo thang điểm PAS (pediatric 
asthma score) -Thời điểm T0 [8]. Thang điểm 
PAS dựa vào năm tiêu chí là nhịp thở, SpO2, 
thông khí phổi, rút lõm cơ hô hấp, tiếng nói 
để đánh giá mức độ nặng cơn hen cấp. Tổng 
điểm từ 5 - 7 là cơn hen cấp nhẹ, từ 8 - 11 là 
cơn hen trung bình và từ 12 trở lên là cơn hen 
nặng.
- Những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn 
vào nghiên cứu được chia vào nhóm sử 
dụng corticosteroid khí dung (budesonide) 
hay sử dụng corticosteroid đường toàn thân 
(methylprednislon tĩnh mạch).
 + Nhóm budesonide
Ventolin (salbutamol) khí dung 0,15 mg/kg/
liều x 3 liều cách nhau 20 phút.
Budesonide khí dung: 500 mcg/liều x 3 liều 
cách nhau 20 phút.
Đánh giá lại thang điểm PAS tại các thời 
điểmT1: 30 phút sau khi bắt đầu điều trị, T2: 1 
giờ sau khi bắt đầu điều trị, T3: 4 giờ sau khi 
bắt đầu điều trị.
+ Nhóm methylprednislon
Ventolin (salbutamol) khí dung 0,15 mg/kg/
liều x 3 liều cách nhau 20 phút.
Methylprednisolon 2mg/kg/ liều tiêm tĩnh 
mạch chậm.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019100
Đánh giá lại thang điểm PAS tại các thời 
điểm như nhóm budesonide.
3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Mọi bệnh nhân trong cơn hen cấp đều 
được điều trị theo phác đồ hướng dẫn của bộ 
Y tế và GINA 2018 [7]. Nghiên cứu không làm 
ảnh hưởng đến quy trình điều trị thông thường 
của bệnh nhân. Nghiên cứu được thông qua 
Hội đồng Đạo đức trong Nghiên cứu Y sinh 
học của Bệnh viện Nhi Trung ương số 2006/
BVNTW-VNCSKTE. 
III. KẾT QUẢ 
82 trẻ trong cơn hen phế quản cấp đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được chia ngẫu nhiên 
thành hai nhóm: 45 bệnh nhân (54,9%) thuộc nhóm budesonide và 37 bệnh nhân (45,1%) thuộc 
nhóm methylprednisolon.
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung
Budesonide
n (%)
Methylprednisolon
n (%)
p
Tuổi trung vị
Dưới 5 tuổi
Trên 5 tuổi
7,0
17 (37,8)
28 (62,2)
6,0
14 (37,8)
23 (62,2)
0,46
0,99
Giới nữ 13 (28,9) 11 (29,7) 0,93
Tiền sử hen gia đình
Bố mẹ 
Anh chị em 
13 (28,9)
3 (6,7)
8 (21,6)
3 (8,1)
0,45
0,56
Có người hút thuốc lá trong gia đình 27 (60,0) 21 (56,8) 0,77
Tiền sử dị ứng bản thân 30 (66,7) 25 (67,6) 0,93
Tiền sử
Nhập viện/ điều trị tích cực
Vào cấp cứu trong 1 năm qua
21 (46,7)
5 (11,1)
20 (54,1)
5 (13,5)
0,51
0,75
Điểm PAS tại thời điểm nhập viện 10,2 10,7 0,10
Hai nhóm nghiên cứu có các đặc điểm chung như nhau tại thời điểm nhập viện. Không có sự 
khác biệt về độ nặng cơn hen cấp (điểm PAS) giữa hai nhóm tại thời điểm vào viện. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 101
2. Hiệu quả của corticosteroid trong phối hợp điều trị cơn hen cấp ở trẻ em
Biểu đồ 1. Thay đổi điểm PAS so với thời điểm nhập viện của các nhóm nghiên cứu 
theo thời gian
Tốc độ giảm điểm PAS tại thời điểm T1 và T2 của nhóm budesonide cao hơn nhóm methyl 
prednisolon. Tại thời điểm T1, tốc độ giảm điểm PAS của nhóm budesonide và methylprednisolon lần 
lượt là - 1,7 và - 1,0; p < 0,001. Tại thời điểm T2, nhóm budesonide có tốc độ giảm điểm là - 3,4 so 
với - 2,6 của nhóm methylprednisolon; p < 0,001. Tại thời điểm T3, hai nhóm có tốc độ giảm điểm PAS 
lần lượt là - 3,8 và - 4,0; sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,186.
Biểu đồ 2. Thay đổi điểm PAS tại thời điểm 4 giờ sau khi bắt đầu điều trị so với thời điểm 
nhập viện theo mức độ nặng của cơn hen cấp
Tại thời điểm sau 4 giờ điều trị, trong nhóm có cơn hen cấp nặng, nhóm methylprednisolon có 
sự thay đổi điểm PAS cao hơn so với nhóm budesonide. Tốc độ giảm điểm của nhóm budesonide 
và methylprednisolon lần lượt là - 2,9 và - 4,7; p < 0,001. Tuy nhiên ở nhóm bệnh nhân vào viện với 
cơn hen cấp mức độ trung bình, sự thay đổi điểm PAS ở thời điểm T3 ở nhóm budesonide cao hơn 
nhóm methylprednisolonvới p = 0,016 < 0,05.
Biểu đồ 3. Tiến triển sự thay đổi 
điểm PAS theo thời gian ở bệnh nhân 
có cơn hen cấp nặng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019102
Đối với bệnh nhân vào viện trong tình trạng 
cơn hen cấp mức độ nặng, nhóm budesonide 
có sự giảm điểm PAS ở thời điểm T1 cao 
hơn nhóm methylprednisolon (p = 0,028). Tuy 
nhiên, tại thời điểm T2, sự thay đổi điểm PAS 
của hai nhóm là tương đương nhau (p = 0,161). 
Ở thời điểm T3, điểm PAS giảm rõ rệt ở nhóm 
methylprednisolon so với nhóm budesonide (p 
< 0,001).
IV. BÀN LUẬN
Trong 82 trẻ trong cơn hen cấp nhập viện, 
nghiên cứu chỉ ra mức độ đáp ứng với điều trị 
bằng corticosteroid đường khí dung hay đường 
toàn thân cũng khác nhau tùy theo mức độ nặng 
của cơn hen và thời điểm đánh giá. Devidayal 
và cộng sự [9 ] tiến hành đánh giá hiệu quả của 
budesonide khí dung so với prednisolon đường 
uống trong điều trị cơn hen cấp tại khoa cấp cứu 
tại Ấn Độ. 80 trẻ trong độ tuổi từ 2 - 12 tuổi vào 
viện với cơn hen cấp mức độ trung bình được 
chia làm hai nhóm: nhóm 1 nhận prednisolon 
đường uống và nhóm 2 được điều trị khí dung 
budesonide, cả hai nhóm đều kết hợp với 
salbutamol khí dung. Đặc điểm ban đầu của hai 
nhóm là tương đương nhau, tuy nhiên sau ba 
liều khí dung cách nhau 20 phút, các chỉ số như 
nhịp thở, co kéo cơ hô hấp, điểm suy hô hấp 
đều được cải thiện rõ rệt ở nhóm budesonide 
so với nhóm prednisolon (p < 0,05). Kết quả 
2 giờ sau khí dung liều thứ 3, tỷ lệ bệnh nhân 
xuất viện ở nhóm khí dung cao hơn nhóm uống 
corticosteroid (54% so với 18%; p < 0,001). Một 
thử nghiệm lâm sàng khác trên 80 trẻ có cơn 
hen cấp mức độ trung bình từ 1-18 tuổi, tất cả 
các trẻ này đều được khí dung 3 liều salbutamol 
(0,15 mg/kg/lần). Nhóm một gồm 37 trẻ được 
khí dung budesonide 800mcg mỗi giờ trong 3 
giờ và nhóm hai gồm 43 bệnh nhân được dùng 
prednisolon 2 mg/kg/ngày. Kết quả nghiên cứu 
chỉ ra nhóm được khí dung budesonide có cải 
thiện các chỉ số hô hấp sau 1giờ, 2 giờ và 6 giờ 
điều trị so với nhóm prednisolon (p < 0,001), 
mặc dù sau 12 giờ, các chỉ số hô hấp của hai 
nhóm là tương đương nhau [10].
Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi. Tại thời điểm 30 phút và 1 giờ sau khi 
bắt đầu điều trị, tốc độ giảm điểm PAS ở nhóm 
budesonide cao hơn nhóm methylprednisolon. 
Sau khi bắt đầu điều trị 30 phút, tốc độ giảm điểm 
của nhóm budesonide và methylprednisolon lần 
lượt là - 1,7 và - 1,0; sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (95% CI[- 0,96; - 0,42]; p < 0,001). Ở thời điểm 
1 giờ, nhóm budesonide có tốc độ giảm điểm là 
- 3,0 so với - 2,6 của nhóm methylprednisolon; 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (95% CI[- 1,18; 
- 0,48]; p < 0,001). Điều này có thể lý giải do thời 
gian và cách thức tác dụng của corticosteroid 
đường khí dung. Thuốc dùng theo con đường 
này tác động qua cơ chế non-gen nên khởi phát 
tác dụng và đạt đỉnh nhanh hơn, thuốc có hiệu 
quả chống co thắt và phù nề phế quản sau 10 
-30 phút, vì thế góp phần làm giảm triệu chứng 
lâm sàng nhanh hơn, tuy nhiên thuốc thường 
hết tác dụng nhanh. Ngược lại, corticosteroid 
đường toàn thân có tác dụng chống viêm qua 
đường tổng hợp protein kháng viêm, vì thế thời 
gian tác dụng chống viêm chậm hơn (sau 2 - 4 
giờ), nhưng hiệu quả chống viêm được duy trì 
dài hơn [11]. Lý giải này phù hợp với nghiên cứu 
của chúng tôi. Tại thời điểm sau 4 giờ, hai nhóm 
nghiên cứu có tốc độ giảm điểm PAS như nhau 
(p = 0,186). 
Ở nhóm bệnh nhân với cơn hen cấp mức 
độ nặng, tại thời điểm 1 giờ sau khi bắt đầu 
điều trị, mức độ giảm điểm PAS là như nhau 
giữa hai nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên nhóm 
methylprednisolon có sự thay đổi điểm PAS 
tại thời điểm 4 giờ cao hơn nhóm budesonide. 
Tốc độ giảm điểm của nhóm budesonide và 
methylprednisolon lần lượt là - 2,9 và - 4,7; 95% 
CI[1,22;2,42]; p < 0,001. Điều này có thể do ở 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 103
thời điểm 4 giờ, methylprednisolon đạt đỉnh tác 
dụng nhưng cùng thời điểm đó budesonide lại 
giảm tác dụng.
V. KẾT LUẬN
 Tóm lại, corticosteroid có tác dụng phối 
với thuốc giãn phế quản trong điều trị cơn hen 
cấp ở trẻ em. Corticosteroid khí dung có tác 
dụng nhanh hơn corticosteroid đường toàn 
thân trong khi corticosteroid đường toàn thân 
có vai trò duy trì tác dụng chống viêm kéo dài.
Corticosteroid có vai trò quan trọng trong 
điều trị cơn hen cấp ở trẻ em. Tùy vào mức 
độ nặng của cơn hen cấp, thầy thuốc lâm 
sàng lựa chọn con đường sử dụng thuốc phù 
hợp. Đối với cơn hen cấp nặng, cần phối hợp 
thuticosteroid có vai trò quan trọng trong điều 
trị cơn hen cấp ở trẻ em. Tùy vào mức độ 
nặng của cơn hen cấp, thầy thuốc lâm sàng 
lựa chọn.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến 
ban lãnh đạo và các cán bộ nhân viên khoa 
Miễn dịch – Dị ứng – Khớp và khoa Cấp cứu – 
Chống độc - Bệnh viện Nhi Trung ương đã giúp 
đỡ trong quá trình thu thập số liệu và hoàn thiện 
nghiên cứu này. Đặc biệt, chúng tôi xin gửi lời 
cảm ơn sâu sắc đến các bệnh nhân, gia đình 
bệnh nhân đã phối hợp tham gia trong suốt quá 
trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pearce N., Aït-Khaled N., Beasley 
R., et al (2007). Worldwide trends in the 
prevalence of asthma symptoms: phase III of 
the International Study of Asthma and Allergies 
in Childhood (ISAAC). Thorax, 62(9), 758–766.
2. Global Initiative for Asthma (GINA) 
(2019). Pocket Guide for Asthma Management 
and Prevention.
3. Barnes N.C. (1992). Effects of 
corticosteroids in acute severe asthma. 
Thorax, 47(8), 582.
4. Rowe B.H., Keller J.L., and Oxman 
A.D. (1992). Effectiveness of steroid therapy 
in acute exacerbations of asthma: a meta-
analysis. Am J Emerg Med, 10(4), 301–310.
5. Rodrigo GJ (2006). Rapid effects of 
inhaled corticosteroids in acute asthma: an 
evidence-based evaluation. Chest.130, 1301-
1311.
6. Alangari AA (2014). Corticosteroids in 
the treatment of acute asthma. Ann Thorac 
Med, 9(4): 187-192
7. Global Initiative for Asthma (GINA) 
(2018). Pocket Guide for Asthma Management 
and Prevention.
8. Kelly C.S., Andersen C.L., Pestian 
J.P., et al (2000). Improved outcomes for 
hospitalized asthmatic children using a clinical 
pathway. Ann Allergy, Asthma Immunol, 84(5), 
509–516.
9. Devidayal, Singhi S., Kumar L., et 
al(1999). Efficacy of nebulized budesonide 
compared to oral prednisolone in acute 
bronchial asthma. Acta Paediatr Int J Paediatr. 
88, 835-840.
10. Sharma S, Harish R, Dutt N, Digra K. 
(2017). To evaluate the efficacy of nebulized 
budesonide compared to oral prednisolone in 
the management of moderate exacerbation 
of acute asthma. International Journal of 
Contemporary Pediatrics; 4(4), 1278-1283.
11. Szefler S.J. (1999). Pharmacodynamics 
and pharmacokinetics of budesonide: A 
new nebulized corticosteroid. J Allergy Clin 
Immunol, 104(4), 175–183.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019104
Summary
THE EFFICACY OF NEBULIZED BUDESONIDE IN THE 
TREATMENT OF ACUTE ASTHMA EXACERBATIONS 
IN CHILDREN
Inhaled corticosteroids are known to be effective as a treatment of asthma exacerbations. The 
purpose ot this study is to compare nebulized budesonide with intravenous methylprednisolone in 
combination with bronchodilators in the treatment od acute asthma in children. This is a prospective, 
cross-sectional study in 82 children aged between 2 - 17 years old with acute asthma, admitted at 
the Vietnam National Children Hospital. Children were divided in two groups: one group treated 
with nebulized budesonide and the other group with intravenous methylprednisolone. Clinical 
signs were evaluated at 30 minutes, 1 hour and 4 hours after the initial therapy. In children with 
moderate asthma exacerbation, the nebulized budesonide group showed significant improvement in 
clinical signs at any time in comparison with the intravenous methylprednisolone group. In children 
with severe asthma exacerbation, clinical signs were improved at 30 minutes in the budesonide 
group compared to the methylprednisolone group (p = 0.028). However, the methylprednisolone 
group was significantly improved at 4 hours (p < 0.001). We conclude that Nebulized 
budesonide quickly improves the clinical signs in children with acute asthma in comparison 
with methylprednisolone but methylprednisolone can sustain airway anti-inflammatory process. 
Keywords: Acute asthma exacebation, nebulized budesonide, intravenous 
methylprednisolone

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_budesonide_khi_dung_trong_phoi_hop_dieu_tri_con.pdf