Hiệu quả can thiệp dinh dưỡng bằng khẩu phần ăn giàu chất xơ trên bệnh nhân đái tháo đường type 2
Yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2 bao gồm tuổi, gia đình, dân tộc, lối sống, béo phì, chế độ ăn
và hoạt động thể lực. Chúng tôi nhận thấy rằng yếu tố quan trọng đối với bệnh nhân đái tháo đường type 2 ở
Việt Nam không phải là béo phì mà liên quan đến chất xơ trong khẩu phần. Nghiên cứu thực hiện nhằm
đánh giá hiệu quả của can thiệp dinh dưỡng bằng khẩu phần ăn tăng lượng chất xơ từ rau và bã đậu nành
trên bệnh nhân đái tháo đường type 2. Sàng lọc 300 đối tượng từ 2500 bệnh nhân đái tháo đường type 2
điều trị ngoại trú tại bệnh viện, 90 đối tượng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. Khẩu phần ăn tăng rau và bã đậu
nành giúp cải thiện Fructosamine máu của bệnh nhân có ý nghĩa thống kê. Khẩu phần rau và chất xơ đã
được tiêu thụ lần lượt khoảng 450g và 12,1g/ngày ở nhóm can thiệp 1 và nhóm can thiệp 2 tiêu thụ chất xơ
12,6g/ngày cao hơn so với nhóm chứng là 300g rau và 8,1g chất xơ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả can thiệp dinh dưỡng bằng khẩu phần ăn giàu chất xơ trên bệnh nhân đái tháo đường type 2

68 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thùy Linh, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 12/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 HIỆU QUẢ CAN THIỆP DINH DƯỠNG BẰNG KHẨU PHẦN ĂN GIÀU CHẤT XƠ TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 Nguyễn Thùy Linh1, Trần Phương Thảo2, Nguyễn Bích Vân 1Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội 2Trung Tâm nghiên cứu Dinh dưỡng và văn hóa thực phẩm Châu Á - Trường Đại học Jumonji - Nhật Bản Yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2 bao gồm tuổi, gia đình, dân tộc, lối sống, béo phì, chế độ ăn và hoạt động thể lực. Chúng tôi nhận thấy rằng yếu tố quan trọng đối với bệnh nhân đái tháo đường type 2 ở Việt Nam không phải là béo phì mà liên quan đến chất xơ trong khẩu phần. Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của can thiệp dinh dưỡng bằng khẩu phần ăn tăng lượng chất xơ từ rau và bã đậu nành trên bệnh nhân đái tháo đường type 2. Sàng lọc 300 đối tượng từ 2500 bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện, 90 đối tượng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. Khẩu phần ăn tăng rau và bã đậu nành giúp cải thiện Fructosamine máu của bệnh nhân có ý nghĩa thống kê. Khẩu phần rau và chất xơ đã được tiêu thụ lần lượt khoảng 450g và 12,1g/ngày ở nhóm can thiệp 1 và nhóm can thiệp 2 tiêu thụ chất xơ 12,6g/ngày cao hơn so với nhóm chứng là 300g rau và 8,1g chất xơ. Từ khóa: đái tháo đường type 2, rau xanh, bã đậu nành, chất xơ, fructosamine, Việt Nam I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường type 2 đã và đang tăng cao trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam. Trong suốt thập kỷ qua, cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và đô thị hóa, lối sống và thói quen ăn uống của người Việt Nam đã thay đổi [1]. Nhiều nghiên cứu đã gợi ý rằng yếu tố nguy cơ cho đái tháo đường type 2 ở Việt Nam là khẩu phần ăn nhiều gạo trắng và lối sống tĩnh tại [2 - 4]. Trên thế giới, chỉ số BMI của bệnh nhân Đái tháo đường type 2 thường cao (> 25 kg/ m2), nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy BMI của bệnh nhân đái tháo đường type 2 Việt Nam thường không cao (< 25 kg/m2) [2; 4]. Việt Nam đang đối mặt với vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ chuyển tiếp, bao gồm thay đổi chế độ ăn uống, cấu trúc bữa ăn như tăng thịt và mỡ, giảm lượng tiêu thụ rau [5]. Do đó, bên cạnh thuốc và hoạt động thể lực, chế độ ăn đóng vai trò quan trọng. Chế độ ăn giảm carbonhydrate, tăng cường rau và chất xơ được khuyến cáo. Các nghiên cứu phân tích tổng hợp cho thấy khẩu phần ăn giàu chất xơ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 làm giảm HbA1c và nồng độ đường huyết lúc đói [6]. Nghiên cứu của Bùi Thị Nhung cho thấy tăng khẩu phần chất xơ (từ 6,7g/ngày lên 13,1g/ngày) với gạo lứt chưa nảy mầm có hiệu quả trong kiểm soát nồng độ đường huyết và lipid máu cũng như BMI ở những người tiêu thụ gạo như một thực phẩm chính [7]. Gạo trắng có chỉ số đường huyết cao hơn và ít chất xơ hơn gạo lứt. Hơn nữa, lượng chất xơ được khuyến cáo 20 - 22g/ ngày đối với người trưởng thành, nhưng thực tế điều tra khẩu phần người Việt nam tiêu thụ trung bình 6 - 7g/ngày. Vậy có thể chất xơ có TCNCYH 113 (4) - 2018 69 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC hiệu quả trong kiểm soát chỉ số đường huyết. Nguồn chất xơ chủ yếu từ thực phẩm Việt Nam là rau. Việt Nam có thể sản xuất rau quanh năm, miền Bắc là 60 - 80 loại vào mùa đông và mùa xuân, 20 - 30 loại vào mùa hè [8]. Tuy nhiên, theo một cuộc khảo sát toàn quốc năm 2010, lượng tiêu thụ trung bình là khoảng 190g/ người/ ngày [5]. Số liệu này thấp hơn lượng khuyến nghị hằng ngày của người trưởng thành Việt Nam (300g/ngày) và thấp hơn hướng dẫn điều trị lâm sàng của Việt Nam cho bệnh nhân Đái tháo đường type 2 (300 - 500g/ ngày) [9]. Tương tự, lượng chất xơ được khuyến cáo 20 - 22g/ngày đối với người trưởng thành, nhưng thực tế điều tra khẩu phần người Việt nam tiêu thụ trung bình 6 - 7g/ngày. Ngày nay, khoa học về thực phẩm phát triển, văn hóa ẩm thực ngày càng đa dạng với nhiều cách chế biến thực phẩm, giúp tăng cường rau và chất xơ. Do đó, nghiên cứu của chúng tôi hướng dẫn người bệnh sử dụng một số loại nước xốt với các phương pháp chế biến khác nhau giúp tăng cường lượng rau. Lượng chất xơ trong những loại rau phổ biến của Việt Nam khá thấp (trung bình ít hơn 2g xơ/100g rau). Nên có chút khó khăn cho bệnh nhân tiêu thụ một lượng lớn rau mỗi ngày để đảm bảo đủ lượng chất xơ. Bởi vậy, trong nghiên cứu này nhóm nghiên cứu đã lựa chọn bã đậu nành. 100 g bã đậu chứa 9.7g chất xơ, nhiều hơn nhiều loại rau. Bã đậu nành là sản phẩm còn lại sau khi lọc đậu nành và đậu phụ chứa một lượng lớn chất xơ. Bã đậu được sử dụng như thức ăn cho gia súc ở Việt Nam nhưng nó lại là món ăn hàng ngày phổ biến tại Nhật. Do đó, nhóm nghiên cứu muốn tận dụng nguồn bã đậu dồi dào này để tạo nên những món ăn mới, giúp tăng lượng chất xơ của bệnh nhân đái tháo đường. Nghiên cứu sử dụng chỉ số fructosamine thay vì HbA1c vì thời gian ngắn hơn chỉ trong hai tuần và cũng đem lại kết quả đáng tin cậy [10]. Do đó, nghiên cứu được tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá hiệu quả tăng lượng chất xơ trong khẩu phần ăn từ rau và bã đậu nành đến kiểm soát đường huyết của bệnh nhân Đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đống Đa năm 2017. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Bệnh nhân mắc đái tháo đường type 2 từ 2 - 5 năm, điều trị ngoại trú, tuổi từ 45 - 65, sống tại Hà Nội. Bệnh nhân chỉ dùng thuốc uống và điều trị thuốc ổn định trong vòng 3 tháng, BMI từ 18,5 - 25 kg/m2. Đường huyết lúc đói của bệnh nhân từ 7 - 9 mmol/L và 6,5% < HbA1c < 8,5%. 2. Phương pháp Thời gian nghiên cứu: từ tháng 4/2017 đến tháng 4/2018. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, có nhóm đối chứng. Đánh giá trước sau cùng một nhóm và có so sánh giữa 2 nhóm trước và sau can thiệp. Cỡ mẫu và chọn mẫu * Cỡ mẫu: Ước tính cỡ mẫu cho so sánh hai giá trị trung bình (ba nhóm): + Nhóm 1 là nhóm can thiệp 1: can thiệp bằng tăng lượng rau xanh trong khẩu phần ăn hàng ngày. + Nhóm 2 là nhóm can thiệp 2: can thiệp bằng tăng chất xơ trong khẩu phần ăn hàng ngày. + Nhóm 3 là nhóm đối chứng. 70 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tiêu chí để đánh giá hiệu quả của can thiệp là Fructosamine. Số liệu từ một nghiên cứu cho thấy giá trị trung bình của Fructosa- mine đầu đợt can thiệp là 3,8, với độ lệch chuẩn là 0,2. Với mong muốn là sau can thiệp, Fructosamine trung bình ở nhóm can thiệp giảm 4,7% so với Fructosamine trung bình ở nhóm chứng. Gọi trị số trung bình của nhóm đối chứng là µ2 và nhóm can thiệp là µ1; µ2 = 3,8 - 3,8 * 4,7% = 3,62; Chúng ta có: ∆ = µ1 - µ2 = 3,62 - 3,8 = - 0,18. Độ lệch chuẩn là σ = 0.2. Chọn power = 0,05 và α = 0,1, hằng số C = 10,5. Dự kiến 15% bệnh nhân bỏ cuộc trong quá trình can thiệp, cỡ mẫu được tính là 30 bệnh nhân cho mỗi nhóm nghiên cứu. Chọn mẫu: phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn: Giai đoạn 1: Chọn mẫu chủ đích: - Từ danh sách 2500 bệnh nhân ngoại trú được quản lý Đái tháo đường type 2 tại bệnh viện Đống Đa, bệnh nhân nằm trong tiêu chuẩn nghiên cứu sẽ được chọn vào nghiên cứu can thiệp. Giai đoạn 2: Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn. Ghép cặp đối tượng theo tuổi, giới, BMI và năm mắc đái tháo đường type 2. Sau đó, phân bổ ngẫu nhiên các bệnh nhân đã ghép cặp vào ba nhóm: nhóm chứng, nhóm can thiệp 1 và nhóm can thiệp 2. 3. Phương pháp Một tuần trước ngày can thiệp, tất cả bệnh nhân được tập hợp để giới thiệu về nghiên cứu và ký đơn cam kết, hướng dẫn cách ghi nhật ký khẩu phần ăn bằng phương pháp cân đong. Trong tuần tiếp đó, đối tượng ghi lại toàn bộ tất cả các thực phẩm đã tiêu thụ trong ba ngày. Sau khi thu thập nhật ký khẩu phần, cả ba nhóm được giáo dục dinh dưỡng về chế độ ăn cho bệnh nhân đái tháo đường type 2. Chỉ nhóm can thiệp 1 nhận được thêm hướng dẫn về sử dụng nước xốt để tăng lượng rau tiêu thụ. Và chỉ nhóm can thiệp 2 nhận thêm hướng dẫn cách chế biến các món ăn từ bã đậu nành. Sau đó, hai nhóm can thiệp được ăn thử và có những phản hồi tích cực. Đối tượng trong nhóm can thiệp sẽ sử dụng các thực đơn mà nhóm nghiên cứu hướng dẫn hàng ngày. Nhóm can thiệp 1 được phát nước xốt mang về nhà dùng và sổ tay hướng dẫn gồm hơn 25 thực đơn và nhóm can thiệp 2 được hướng dẫn sử dụng bã đậu nành với 20 thực đơn được chế biến từ bã đậu nành. Tại thời điểm ban đầu, cả 3 nhóm đều được đo nhân trắc, xét nghiệm hóa sinh máu. Bệnh nhân được phát 01 cân thực phẩm và được hướng dẫn ghi nhật ký khẩu phần ăn tại nhà 3 ngày không tiên tiếp trong 2 tuần. Trong thời gian tiến hành nghiên cứu, điều tra viên thường xuyên gọi điện cho đối tượng để kiểm tra quá trình thực hiện ghi khẩu phần và khuyến khích bệnh nhân theo đúng tiến trình nghiên cứu. 4. Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin Sau 2 tuần, tất cả đối tượng được tập hợp để thu thập kết quả về chỉ số nhân trắc, hóa sinh máu và nhật ký khẩu phần ăn. Nghiên cứu áp dụng kỹ thuật thu thập thông tin của bệnh nhân bằng bảng câu hỏi, đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng chỉ tiêu nhân trắc và xét nghiệm một số chỉ tiêu hóa sinh (Glucose máu, Fructosamine); điều tra n = Z2(α.β) 2s2 ∆2 = 26 TCNCYH 113 (4) - 2018 71 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC khẩu phần bằng tự ghi nhật ký 3 ngày không liên tiếp. Chỉ tiêu nhân trắc: cân nặng, chiều cao, vòng eo, vòng hông, phân trăm mỡ cơ thể được đo hai lần vào lúc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu. Cân sử dụng loại cân Tanita BC-526-WH (Tanita, Tokyo, Japan). Chỉ số hóa sinh máu: Đường máu lúc đói tĩnh mạch được thu thập vào buổi sáng tại thời điểm ban đầu và kết thúc sau 2 tuần. Xét nghiệm máu được thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Điều tra khẩu phần: Điều tra khẩu phần trong 3 ngày không liên tục bằng phương pháp cân đong. Mỗi bệnh nhân được phát một cái cân để cân tất cả các thực phẩm đã ăn và ghi lại nhật ký. Năng lượng và chất dinh dưỡng được tính theo bảng thành phần thực phẩm Việt Nam 2007 [8]. 5. Xử lý số liệu: Nghiên cứu sử dụng phần mềm Stata phiên bản 12.0. 6. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu đã được chấp nhận bởi Hội đồng Đạo đức trong Nghiên cứu Y sinh học của Trường Đại học Y Hà Nội theo giấy chấp thuận số 65, ngày 28 tháng 3 năm 2017. III. KẾT QUẢ Nghiên cứu tiến hành trên 90 đối tượng chia làm 3 nhóm: 30 bệnh nhân nhóm chứng, 30 bệnh nhân nhóm can thiệp 1 và 30 bệnh nhân nhóm can thiệp 2. Một số trường hợp bỏ cuộc trong quá trình nghiên cứu, 02 bệnh nhân ăn sáng trước khi lấy máu. Ghi lại khẩu phần ăn bằng phương pháp cân đong là khó khăn đối với một số bệnh nhân, 6 bệnh nhân khác cũng không ghi lại chế độ ăn hoặc ghi lại chế độ ăn một cách sơ sài do đó các dữ liệu đó bị loại khỏi nghiên cứu. Cuối can thiệp chúng tôi có 25 bệnh nhân nhóm chứng, 29 bệnh nhân nhóm can thiệp 1 và 23 bệnh nhân nhóm can thiệp 2. Bảng 1. Đặc điểm nhân trắc và một số chỉ số hóa sinh của đối tượng nghiên cứu, trước và sau 2 tuần can thiệp Nhóm đối chứng (n = 25) Nhóm can thiệp 1 (n=29) Nhóm can thiệp 2 (n=23) Ban đầu Sau 2 tuần Ban đầu Sau 2 tuần Ban đầu Sau 2 tuần Nam (n = 8) Nữ (n = 7) Nam (n = 8) Nữ (n = 17) Nam (n = 10) Nữ (n = 19) Nam (n = 10) Nữ (n = 19) Nam (n = 6) Nữ (n = 17) Nam (n = 6) Nữ (n = 17) Tuổi (năm) 61,4 ± 7,7 64,1 ± 4,8 61,4 ± 7,7 64,1 ± 4,8 63,1 ± 6,3 61,4 ± 6,4 63,1 ± 6,3 61,4 ± 6,4 62,8 ± 3,7 61,3 ± 8,5 62,8 ± 3,7 61,3 ± 8,5 BMI (kg/ m2) 24,1 ± 2,7 23,4 ± 3,4 24,1 ± 2,6 23,4 ± 3,4 24,4 ± 2,2 23,8 ± 3,0 24,4 ± 2,2 23,7 ± 2,9 22,6 ± 4,3 23,1 ± 2,2 22,7 ± 4,2 23,1 ± 2,3 FBG (mmol /L) 7,1 ± 1,7 7,2 ± 2,5 7,0 ± 2,4 6,7 ± 1,5 6,1 ± 1,8 6,8 ± 1,6 5,7± 1,6 6,9 ± 2,1 5,4 ± 1,5 6,5 ±,1,6 5,3 ± 2,1 5,7 ± 1,5* Tổng 7,2 ± 2,2 6,8 ± 1,8 6,5 ± 1,7 6,5 ± 2,0 6,3 ± 1,6 5,4 ± 1,5 Fruc- tosam ine (µmol/ L) 312 ± 46 309 ± 39 318 ± 47 310 ± 48 316 ± 55 316 ± 34 300 ± 26* 301 ± 28* 331 ± 18 315 ± 23 301 ± 22* 301 ± 32* Tổng 310 ± 40 312 ± 47 316 ± 41 301 ± 27+ 320 ± 24,6 300 ± 29+ 72 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC * Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trước – sau can thiệp theo giới trong cùng nhóm (p < 0,05). + Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp sau 2 tuần (p < 0,05). Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. Sử dụng t-test ghép cặp. Bảng 1 cho thấy chỉ số fructosamine của cả hai giới tính đã giảm đáng kể sau can thiệp 2 tuần ở cả 2 nhóm can thiệp. Glucose máu của nữ ở nhóm can thiệp 2 giảm có ý nghĩa sau 2 tuần can thiệp (p < 0,05), tuy nhiên số liệu này thay đổi không có ý nghĩa thống kê ở nhóm can thiệp 1. Chỉ số BMI trung bình của tất cả các nhóm ở mức bình thường là 23,7 - 24,4 kg/m2. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chỉ số khác như tuổi, chỉ số BMI, giữa nhóm chứng và 2 nhóm can thiệp (p > 0,05). Bảng 2. Năng lượng và chất dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp Nhóm đối chứng (n = 25) Nhóm can thiệp 1 (n = 29) Nhóm can thiệp 2 (n = 23) Ban đầu Sau 2 tuần Ban đầu Sau 2 tuần Ban đầu Sau 2 tuần Nam (n = 8) Nữ (n = 17) Nam (n = 8) Nữ (n = 17) Nam (n = 10) Nữ (n = 19) Nam (n = 10) Nữ (n = 19) Nam (n = 6) Nữ (n = 17) Nam (n = 6) Nữ (n = 17) Năng lượng (kcal) 1673 ± 411 1270 ± 242 1765 ± 738 1316 ± 318 1532 ± 321 1344 ± 377 1634 ± 294 1337 ± 302 1630 ± 254 1338 ± 214 1524 ± 303 1409 ± 216 Tổng 1399 ± 353 1460 ± 521 1409 ± 364 1440 ± 327 1413 ± 255 1439 ± 240 Pro- tein (g/d) 73,5 ± 25,6 66,2 ± 51,3 93,0 ± 46,7 60,7 ± 15,8 74,8 ± 25,4 61,8 ± 23,3 94,7 ± 40,7 68,0 ± 36,7 81,4 ± 13,2 66,3 ±,11,0 83,9 ± 24,3 68,2 ± 14,3 Tổng 68,5 ± 44,3 71,0 ± 32,2 66,3 ± 24,4 77,2 ± 39,6 70,2 ± 13,2 72,3 ± 18,3 Lipid (g/d) 60,8 ± 25,2 38,1 ± 12,0 53,6 ± 38,6 33,8 ± 10,8 46,2 ± 20,7 34,5 ± 15,8 44,8 ± 17,2 38,8 ± 16,5 39,4 ± 22,4 24,8 ± 9,0 42,4 ± 22,1 28,9 ± 8,3 Tổng 45,3 ± 19,9 40,1 ± 24,6 38,5 ± 18,2 40,9 ± 16,7 28,6 ± 14,7 32,4 ± 14,0 Car- bohy drate (g/d) 241 ± 75 176 ± 40 227 ± 97 191 ± 58 209 ± 49 202 ± 58 233 ± 62 186 ± 31 237 ± 20 212 ± 52 202 ± 47 219 ± 42 Tổng 196,5 ± 60,3 202,3 ± 72,5 204,5 ± 54,1 202,4 ± 48,9 218,9 ± 46,6 214,7 ± 43 Chất xơ khẩu phần (g/d) 5,8 ± 1,7 7,0 ± 4,2 8,3 ± 3,2 7,9 ± 5,0 8,3 ± 4,4 10,2 ± 6,1 12,4 ± 5,6** 11,9 ± 5,6 7,9 ± 5,0 7,4 ± 3,3 11,4 ± 2,3** 13,1 ± 2,9** Tổng 6,6 ± 3,6 8,1 ± 4,5 9,5,± 5,6 12,1 ±,5,5+ 6,9 ± 3,0 12,6 ± 2,8+ ** Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trước – sau can thiệp theo giới trong cùng nhóm (p < 0,01); + Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp sau 2 tuần (p < 0,05). Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. Sử dụng t-test ghép cặp TCNCYH 113 (4) - 2018 73 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2 cho thấy năng lượng và các chất dinh dưỡng tiêu thụ của cả ba nhóm ở thời điểm ban đầu và kết thúc can thiệp không khác biệt ngoại trừ chất xơ. Lượng chất xơ tiêu thụ của cả ba nhóm tăng lên. Với nhóm can thiệp 1 và 2 lượng chất xơ tăng đáng kể có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Biểu đồ 1. Lượng rau tiêu thụ trong giai đoạn kết thúc can thiệp theo phương pháp cân đo trong 3 ngày của nhóm đối chứng và nhóm can thiệp 1 Biểu đồ 1 cho thấy lượng rau tiêu thụ trung bình ở nhóm chứng là 300g và nhóm can thiệp 1 là 450g/ngày. Theo như liên hệ với đối tượng, lượng rau tăng lên được duy trì hàng ngày trong suốt thời gian nghiên cứu. y = -0,0605x + 7,288 R² = 0,0869, P < 0,05 -100 -80 -60 -40 -20 0 20 40 60 -300 -200 -100 0 100 200 300 400 500 T h ay đ ổ i fr u ct o sa m in e Thay đổi lượng rau ăn vào Hình 2. Mối liên quan giữa lượng rau ăn vào và nồng độ fructosamine máu 305 455 0 100 200 300 400 500 600 Nhóm chứng Nhóm can thiệp 1 74 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Fructosamine Hình 3. Mối liên quan giữa lượng chất xơ và nồng độ fructosamine máu Hình 2 và hình 3 chỉ ra mối liên quan giữa thay đổi lượng chất xơ từ rau và bã đậu nành tiêu thụ với thay đổi Fructosemine máu. Có sự tương quan nghịch giữa lượng rau và chất xơ với lượng Fructosamine máu (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu can thiệp trong 2 tuần này cho thấy việc tiêu thụ chất xơ từ rau và bã đậu nành tăng lên rất hữu ích trong việc kiểm soát nồng độ fructosamine máu ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Fructosamine đã giảm rõ rệt ở cả 2 nhóm can thiệp nhưng không thay đổi trong nhóm chứng. Thêm vào đó, chúng tôi đã quan sát thấy mối tương quan nghịch giữa lượng rau ăn và chất xơ ăn vào và nồng độ fructosamine trong máu. Điều này chứng tỏ rằng một khẩu phần ăn tăng rau và chất xơ có liên quan đến sự giảm nồng độ fructosamine trong máu. Khẩu phần ăn ít rau cũng như chất xơ trong bữa ăn của người Việt Nam là một vấn đề cần được quan tâm. Phương pháp nấu ăn sử dụng đa dạng các loại thịt ngày càng tăng nhưng những phương pháp chế biến rau thì vẫn đơn điệu. Ba phương pháp nấu rau phổ biến trong ẩm thực Việt Nam là: luộc (rau luộc được chấm với nước mắm), xào (với dầu, tỏi, vv) và canh (với muối và gia vị). Chúng tôi đã phân tích các phương pháp nấu rau ở nhiều quốc gia khác nhau và nhận thấy rằng sự khác biệt chủ yếu giữa các phương pháp của các nước và các phương pháp của Việt Nam là sử dụng gia vị và mayonnaise. Trong nghiên cứu này, tại thời điểm ban đầu, lượng rau ăn vào của bệnh nhân dao động từ 200 - 300g. Lượng chất xơ dao động 5,4 - 7,4g/ngày. Hầu hết các bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu này quan tâm đến chế độ ăn đối với bệnh Đái tháo đường type 2 và đã có một số kiến thức về dinh dưỡng. Tuy nhiên bệnh nhân quan tâm nhiều đến vai trò của rau hơn là chất xơ. Điều đó là dễ hiểu khi họ tiêu thụ nhiều rau hơn người bình thường (khoảng 190g rau/ngày) [3]. Mặc dù vậy, lượng rau vẫn chưa đủ so với hướng dẫn điều trị lâm sàng của Việt Nam đối với bệnh nhân Đái tháo đường type 2 (300 - 500g rau/ngày), lượng chất xơ khuyến nghị là 20 - 22g/ngày hoặc hướng dẫn điều trị của Nhật cho bệnh tiểu đường năm 2013 (> 350g rau/ngày) [9; 12]. Nghiên cứu cho thấy nhóm chứng và nhóm can thiệp 1 tiêu thụ lần lượt tương ứng TCNCYH 113 (4) - 2018 75 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC khoảng 300g và 450g rau. Từ tiếp xúc hàng ngày của chúng tôi với các đối tượng nghiên cứu, hầu hết trong số họ duy trì lượng rau này trong suốt quá trình. Nhóm chứng tiêu thụ khoảng 300g rau (đạt khuyến nghị [9; 13]); đây có thể do vai trò của giáo dục dinh dưỡng. Việc tăng lượng rau ăn vào trong nhóm can thiệp so với nhóm chứng có thể là từ ảnh hưởng sâu hơn của việc sử dụng nước sốt và sốt mayonnaise. Năng lượng tiêu thụ được tính bằng phương pháp cân đo trong 3 ngày, mặc dù là phức tạp cho các đối tượng nhưng mang lại kết quả đáng tin cậy về tiêu thụ năng lượng thực tế của bệnh nhân. Chúng tôi nhận thấy rằng năng lượng tại thời điểm ban đầu ở ba nhóm đã đạt được tiêu chuẩn theo nhu cầu khuyến nghị cho bệnh nhân đái tháo đường Việt Nam [9]. Vì BMI của tất cả các nhóm đều từ 23,7 đến 24,4, cân nặng của họ gần tương đương với các giá trị chuẩn. Tỷ lệ Protein: Lipid: Carbohydrate là khoảng 20%: 25%: 55% (đạt khuyến nghị của người Việt Nam [9]). Do đó, bệnh nhân đái tháo đường nên duy trì mức năng lượng và tỷ lệ dinh dưỡng hiện tại, ngoại trừ chất xơ. Khẩu phần chất xơ lúc ban đầu là rất thấp (dưới 8g/ngày) so với khuyến nghị [9]. Trong nhóm can thiệp 2, lượng chất xơ tăng khoảng hơn 5g, cho thấy rằng bã đậu nành góp phần tăng cường chất xơ, hiệu quả trong việc kiểm soát đường máu. Bã đậu nành chứa 3 chất hữu ích: chất xơ, -conglycinin và isoflavones có hiệu quả trong kiểm soát đường huyết [11; 12]. Tuy nhiên, bã đậu nành chứa chỉ một lượng nhỏ -conglycinin và isofla- vones nên nhóm nghiên cứu nghĩ rằng chất xơ đóng vai trò chính khi con người tiêu thụ bã đậu nành. Bên cạnh những nghiên cứu thành công trên chuột, chất xơ từ bã đậu nành đã đem lại những hiệu quả bước đầu trên người. Bã đậu nành cũng được chế biến thành thực phẩm chức năng vì lượng chất xơ cao [13]. Hiệu quả của nghiên cứu này đến từ phương pháp chế biến món ăn ngon. Nhóm nghiên cứu đã phát triển 20 thực đơn và làm nghiên cứu thử nghiệm để đánh giá độ ngon món ăn. Thực đơn với bã đậu nành như cơm rang, chả lá lốt, trứng ốp lết bã đậu... Sau hai tuần can thiệp can thiệp nhóm nghiên cứu đã lấy ý kiến đánh giá của bệnh nhân về các món ăn từ bã đậu nành. Nhiều hơn 90% đối tượng thích những thực đơn mới này. Hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là đã ghép cặp theo giới tính, tuổi, chỉ số BMI và số năm mắc đái tháo đường nhưng không ghép cặp lượng fructosamine hoặc rau ăn vào, vì đo lường fructosamine và ghi lại chế độ ăn chỉ được thực hiện sau khi ba nhóm được lựa chọn. Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian ngắn nên hiệu quả có thể không bền vững. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng thông qua nghiên cứu này, văn hoá ẩm thực Việt Nam về rau và sử dụng chất xơ từ bã đậu nành sẽ đa dạng hơn; bệnh nhân tiêu thụ nhiều rau và chất xơ hơn để góp phần hỗ trợ tích cực trong điều trị và dự phòng đái tháo đường. V. KẾT LUẬN Dùng nước xốt chế biến rau trong 2 tuần giúp bệnh nhân Đái tháo đường type 2 cải thiện đáng kể lượng rau và chất xơ tiêu thụ, góp phần cải thiện Fructosamine máu có ý nghĩa thống kê. Phương pháp chế biến thực phẩm mới bằng sử dụng bã đậu nành, giúp bệnh nhân Đái tháo đường type 2 tăng lượng chất xơ trong khẩu phần đồng thời cải thiện 76 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC đáng kể Fructosamine máu (từ khoảng 320 µmol/L xuống 300 µmol/L) có ý nghĩa thống kê. Lời cảm ơn Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của Trường Đại học Jumonji - Nhật bản, công ty Kewpie Nhật Bản. Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự hỗ trợ của các thành viên nhóm nghiên cứu từ Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Đống Đa, phòng khám tư vấn Dinh dưỡng - Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội, sinh viên Cử nhân Dinh dưỡng và các bệnh nhân tình nguyện tham gia nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Shigeru Yamamoto, Nguyen Duc Son, et al (2013). Vietnamese may develop type 2 diabetes with smaller increases in body mass index and waist circumference than Taiwan- ese. Int J Diabetol Vasc Dis Res, 1, 1 - 5. 2. Khue NT (2015). Diabetes in Vietnam. Ann Glob Health 2015; 81, 870 - 873. 3. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2010). Tổng điều tra dinh dưỡng 2009 - 2010. Nhà xuất bản y học. 4. Duc Son LNT, Hanh TTM, Kusama K, Kunii D, Sakai T, Hung NTK et al (2005). Anthropometric Characteristics, Dietary Pat- terns and Risk of Type 2 Diabetes Mellitus in Vietnam. J Am Coll Nutr; 24, 229 - 234. 5. Silva FM, Kramer CK, de Almeida JC, Steemburgo T et al (2013). Fiber intake and glycemic control in patients with type 2 diabe- tes mellitus: a systematic review with meta- analysis of randomized controlled trials. Nutr Rev, 71, 790 – 801. 6. Post RE, Mainous AG, King DE, Simp- son KN (2012). Dietary fiber for the treatment of type 2 diabetes mellitus: a meta-analysis. J Am Board Fam Med, 25, 16 – 23. 7. Nhung BT (2014). Pre-Germinated brown rice reduced both blood glucose con- centration and body weight in Vietnamese women with impaired glucose tolerance. J Nutr Sci Vitaminol, 60, 183 – 187. 8. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2007). Bảng thành phần hóa học thức ăn Việt Nam. Nhà xuất bản y học. 9. Nguyễn Quốc Anh (2015). Hướng dẫn điều trị lâm sàng. Nhà xuât bản y học. 10. Nansseu JRN, Fokom-Domgue J, Noubiap JJN et al (2015). Fructosamine measurement for diabetes mellitus diagnosis and monitoring: a systematic review and meta- analysis protocol. BMJ Open, 5, e007689. 11. Hosokawa M, Katsukawa M, Tanaka H, Fukuda H et al (2016). Okara ameliorates glucose tolerance in GK rats. J. Clin. Biochem. Nutr, 58, 216 - 222. 12. Ismaiel M, Yang H & Cui M (2017). Evaluation of High Fibers Okara and Soybean Bran as Functional Supplements for Mice with Experimentally Induced Type 2 Diabetes. Pol. J. Food Nutr, Sci. 67. Summary EFFECT OF NUTRITIONAL INTERVENTION BY THE HIGH FIBER DIET OF TYPE 2 DIABETES MELLITUS PATIENTS The risk factors of type 2 diabetes mellitus (DM) include age, family history, ethnicity, lifestyle, obesity, diet and physical activity. We noticed that the major factor that impacts type 2 DM patients in Vietnam was not obesity but fiber intake. This current study aimed at evaluating the TCNCYH 113 (4) - 2018 77 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC effect of nutritional intervention by increasing the vegetable and fiber intake in the diet of type 2 DM patients. After screening 300 out of 2500 type 2 DM outpatients in one hospital, we select 90 subjects who are qualified to take part in the study. The increase of vegetable and soy bean fiber in type 2 DM patients’ diet improved their blood Fructosamine. This improvement was statistically significant. Vegetable and fiber intake were about 450g and 12.1g/day respectively in the intervention group 1 and intervention group 2 consumed 12.6g fiber higher than control group (300g vegetable and 8.1g fiber). Keyword: type 2 diabetes mellitus, vegetable, soy bean fiber, fiber, fructosamine, Vietnam
File đính kèm:
hieu_qua_can_thiep_dinh_duong_bang_khau_phan_an_giau_chat_xo.pdf