Hen phế quản và thuốc lá
Hầu hết các nước đã phát triển có khoảng 25% người trưởng thành bị hen phế quản đang hút thuốc
lá. Sự tương tác giữa hen và việc hút thuốc lá chủ động gây ra nhiều triệu chứng nặng nề, làm chức
năng phổi xấu đi và đáp ứng ngắn hạn của điều trị bằng corticoid bị giảm sút.
Hút thuốc lá có thể làm biến đổi hiện tượng viêm có liên quan đến hen phế quản mặc dù đến nay
chưa có nhiều các dữ liệu được công bố về giải phẫu bệnh đường thở ở người hút thuốc bị hen. Đến
nay, có các bằng chứng cho thấy sự kết hợp cả sự tăng lên hay giảm với đáp ứng viêm ở bệnh nhân
hen hút thuốc lá so với bệnh hen nhưng không hút thuốc lá.
Bạn đang xem tài liệu "Hen phế quản và thuốc lá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hen phế quản và thuốc lá
75 Hô hấp số 16/2018 Vào giữa thế kỷ thứ XVI, Sir Walter Raleigh đã đưa thuốc lá về Vương quốc Anh, sau đó việc hút thuốc được khuyến cáo trong điều trị nhiều bệnh lý, bao gồm cả bệnh lý hô hấp. Việc hút cả lá và rễ của cây Datura (cà độc dược), vốn chứa các thành phần kháng cholinergic, lần đầu tiên được áp dụng trong điều trị hen vào thế kỷ XVII (1). Việc điều trị bằng phương pháp hút cho bệnh hen tiếp tục phổ biến đến khi có mặt của adrenaline và những năm 1930. Trong suốt nửa thế kỷ sau của thế kỷ XX, ngày càng có các ghi nhận về tác hại của khói thuốc lá trong môi trường trên trẻ em và người lớn hút thuốc lá, các tác dụng có hại này được ghi nhận trên sự tiến triển của bệnh hen và gia tăng các đợt cấp (2-5). Gần đây hơn nữa, các tương tác quan trọng giữa việc hút thuốc lá chủ động và hen đã được xác định, như tác động lên bệnh tật, đáp ứng điều trị bằng corticoid và trên cơ chế bệnh sinh (hình 1) (6). Bài tổng quan này nhằm tóm tắt các dữ liệu đã được xuất bản về mối liên quan giữa việc hút thuốc lá chủ động và hen, các giả thuyết về cơ chế sinh học có thể giải thích những mối liên quan trên và các thuốc có tiềm năng cho điều trị bệnh nhân hít thuốc lá bị hen phế quản. Tần suất của việc hút thuốc lá: Tổ chức Y tế Thế giới ước tính trên thế giới Dịch: HEN PHẾ QUẢN VÀ THUỐC LÁ N.C. Thomson, R. Chaudhuri, E. Livingston. Asthma and cigarette smoking. Eur Respir J 2004; 24: 822–833 ThS.BS Huỳnh Anh Tuấn: dịch Tóm tắt: Hầu hết các nước đã phát triển có khoảng 25% người trưởng thành bị hen phế quản đang hút thuốc lá. Sự tương tác giữa hen và việc hút thuốc lá chủ động gây ra nhiều triệu chứng nặng nề, làm chức năng phổi xấu đi và đáp ứng ngắn hạn của điều trị bằng corticoid bị giảm sút. Hút thuốc lá có thể làm biến đổi hiện tượng viêm có liên quan đến hen phế quản mặc dù đến nay chưa có nhiều các dữ liệu được công bố về giải phẫu bệnh đường thở ở người hút thuốc bị hen. Đến nay, có các bằng chứng cho thấy sự kết hợp cả sự tăng lên hay giảm với đáp ứng viêm ở bệnh nhân hen hút thuốc lá so với bệnh hen nhưng không hút thuốc lá. Các cơ chế của việc kháng corticoid ở những bệnh nhân hen hút thuốc lá chưa được giải thích nhưng nó có thể là hậu quả do sự thay đổi của các kiểu hình tế bào viêm ở đường thở (ví dụ. tăng bạch cầu đa nhân trung tính hay giảm bạch cầu ái toan), thay đổi tỉ số của các thụ thể corticoid GR α và β (ví dụ, bộc lộ quá mức các thụ thế GR β và giảm hoạt hóa các yếu tố sao chép các chất tiền viêm (ví dụ yếu tố nhân -kB) hay giảm hoạt động với histone deacetylase. Tóm lại, cần thực hiện tất cả những nỗ lực nhằm khuyến khích bệnh nhân hen cai thuốc lá, mặc dù tác động của việc cai thuốc lá dựa trên tác động bất lợi của khói thuốc trong kiểm soát hen, đáp ứng điều trị với corticoid và giải phẫu bệnh đường thở đến nay vẫn chưa được hiểu biết một cách trọn vẹn. Các phương pháp điều trị thay thế hay hỗ trợ với corticoid hít là cần thiết cho bệnh nhân hen mà không thể cai được thuốc lá. Dịch 76 Hô hấp số 16/2018 có khoảng 1,25 tỉ người hút, 2/3 trong số đó sống tại các nước đang phát triển. Ở nhiều nước đã phát triển có ít nhất 1 trong 4 người trưởng thành hút thuốc. Tần suất hút thuốc lá của nam giới ở Mỹ là 26% và Vương quốc Anh là 27%, với nữ là 21% ở Mỹ và 25% ở Vương quốc Anh (7,8). Tỉ lệ người hút thuốc lá khác nhau giữa các nước ở Châu Âu, ví dụ ở Đức là 38%, Pháp là 30% Ý 29% và Thụy Điển 18%. Tần suất hút thuốc lá cao hơn ở các nước có thu nhập thấp và trong số những người trưởng thành trẻ tuổi, đặc biệt là phụ nữ (8). Tỉ lệ hút thuốc nói chung cao hơn nhiều ở các nước chưa phát triển. Những người đã từng hút thuốc có tỉ lệ 27% nam giới và 21% nữ giới trong dân sư tại Vương quốc Anh (8). Các thông tin về tỉ lệ hút thuốc lá ở bệnh nhân hen trưởng thành, nhưng việc hút thuốc lá chủ động là phổ biến, với tần suất tương tự với cộng đồng dân số chung. Tỉ lệ hút thuốc hiện hành ở những bệnh nhân hen ở Mỹ và Vương quốc Anh thay đổi từ 17–35% (9-15). Tại Mỹ, các bệnh nhân hen trưởng thành phải nhập viện tại khoa cấp cứu có tỉ lệ hút thuốc đặc biệt cao (12). Thêm vào số lượng bệnh nhân hen trưởng thành đã từng hút thuốc, tần suất thay đổi từ 22–43% (9,10). Do đó, ở hầu hết các nước đã phát triển có ít nhất phân nửa dân số bệnh nhân hen trưởng thành có thể đang hút thuốc hay đã từng hút thuốc. Sự tiến triển của bệnh hen ở người hút thuốc lá: Mối liên quan giữa hút thuốc lá chủ động và tiến triển của hen phế quản đươc ghi nhận trong một số nghiên cứu (16-19), nhưng không được thấy trong tất cả các nghiên cứu khác (20,21). Ở những thiếu niên không triệu chứng, tiến triển của triệu chứng giống hen qua 6 năm nghiên cứu liên quan độc lập với việc hút thuốc lá chủ động (tỉ số chênh (OR) (95% khoảng tin cậy) (OR=2.1, 95%C1:2–3.8)), cũng như cơ địa và tăng tính nhạy cảm của phế quản với methacholine (17). Trong một nghiên cứu hồi cứu với nhóm dân cư lấy ngẫu nhiên với số lượng là 15,813 người trưởng thành đã được tầm soát qua bản câu hỏi khảo sát về hô hấp, số người hút thuốc có tỉ lệ về tần suất bệnh mới mắc cao, tỉ số chênh (95% CI) là 1.6 (95% CI=1.1–2.2) so với người không hút thuốc lá xét về sự khởi phát hen ở người lớn trong nhóm nữ giới nhưng không thấy trong nhóm là nam giới (19). Nghiên cứu cho thấy hút thuốc lá có liên quan rõ nét với việc khởi phát bệnh hen trong nhóm người không thuộc nhóm cơ địa (OR=5.7 (95% CI: 1.7–19.2)) (16), và thuốc lá là yếu tố nguy cơ với bệnh hen ở nhóm người trưởng thành lớn tuổi hơn (OR=4.8 (95% CI: 2.3– 10.1)) (18). Tính đa hình về gien của thụ thể β2- adrenergic, kiểu gien arginine-14, làm cho nguy cơ hen tăng lên (OR=7.8 , 95% CI: 2.07–29.5) ở những người từng hút thuốc so với người chưa bao giờ hút thuốc có đồng hợp tử glycine-16 (22). Hình 1. Tương tác giữa hen và hút thuốc lá. Dịch 77 Hô hấp số 16/2018 Sự khác biệt về kiểu hình hen có thể có liên quan đến từ thời điểm ban đầu hút thuốc lá (23). Trong một nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ liên quan đến hen và thời điểm khởi đầu của hút thuốc lá, hen phế quản hình thành trước khi bắt đầu hút có liên quan đến cơ địa, trong khi hen tiến triển sau khi bắt đầu hút thuốc lá có liên quan đến thể tích khí khi thở ra gắng sức trong 1 giây (FEV 1 ) thấp hơn (23). Đặc điểm lâm sàng: Tầm soát hen và mức độ nặng Cả mức độ bệnh tật và tử vong từ bệnh hen đều tăng ở những người hút thuốc so với người không bao giờ hút thuốc. Bệnh nhân hen hút thuốc có các triệu chứng hen nặng hơn [9, 10], có nhu cầu sử dụng thuốc cắt cơn cao hơn (24) và chỉ số sức khỏe chung kém hơn nếu so với người không bao giờ hút thuốc lá (11,24). Hút một điếu thuốc lá có thể gây cơn co thắt phế quản cấp, mặc dù khói thuốc lá không tác động như một chất kích ứng cấp tính với tất cả các bệnh nhân (25). Chỉ số FEV 1 ban đầu có liên quan trực tiếp đến đáp ứng tức thì với việc hít vào khói thuốc lá (26), điều này gợi ý rằng bệnh nhân hen hút thuốc lá với chức năng phổi kém hơn có thể có sự nhạy cảm đặc biệt với tác động cấp tính của khói thuốc lá. Những người hút thuốc lá nếu so với người không hút thuốc lá bị hen cơ địa có đáp ứng kém hơn khi hít adenosine, điều này có thể hướng đến sự khác biệt trong viêm đường thở (27). Việc nhập khoa Cấp cứu là hậu quả của đợt cấp hen phế quản xảy ra thường xuyên hơn ở những bệnh nhân hút thuốc lá nhiều bị hen ở những ngày mà nồng độ ozone trong không khí ô nhiễm tăng cao (28). Tỉ lệ hút thuốc hiện hành không khác biệt ở những bệnh nhân có các đợt cấp hen phế quản nặng vào khoa cấp cứu, trong nhóm có triệu chứng biểu hiện trong 3 giờ hay khởi phát chậm hơn (29). Tỉ lệ nhập bệnh viện hay tại các trung tâm y tế của bệnh hen tăng ở những người hút thuốc lá (11,30), tuy có thể không xảy ra với những bệnh nhân trưởng thành trẻ tuổi (31). Có bằng chứng trái ngược với việc đang hút thuốc là yếu tố nguy cơ cho hen suýt tử vong hay hen gây tử vong (13, 32-34) . Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong qua 6 năm ở những người hút thuốc cao hơn những người không hút thuốc tiếp sau các cơn kịch phát làm bệnh nhân suýt tử vong, với tỉ số chênh đã được điều chỉnh theo tuổi OR: 3.6; 95% CI: 2–6.2 (35). Sự sụt giảm chức năng phổi Hút thuốc lá và bệnh hen đồng thời làm chức năng phổi suy giảm nhanh hơn nếu so với một yếu tố đơn độc (15,36). Nghiên cứu Copenhagen City Heart về việc đo lường FEV 1 qua một thời gian kéo dài trên 15 năm đã cho thấy sự suy giảm quân bình về FEV 1 ở những bệnh nhân hen hút thuốc lá hơn là không hút thuốc (36). Sự sụt giảm quân bình cho mỗi năm của FEV 1 ở bệnh nhân hen nam giới có độ tuổi từ 40–59 là 33 mL ở với bệnh nhân không hút thuốc (n=36) và 58 mL ở những người hút thuốc (n=150; p< 0.001) (36). Sự tồn tại của việc tăng tiết nhầy mạn tính và việc hút thuốc lá có liên quan đến sự sụt giảm FEV 1 (36). Một nghiên cứu trên 4,000 người có độ tuổi từ 18–30, được theo dõi trên 10 năm có đo hô hấp ký hàng loạt cho thấy sự sụt giảm của FEV 1 là 8.5% ở những người chưa bao giờ hút thuốc lá và không bị hen (n=2,393), 10.1% ở những người không hút thuốc lá nhưng bị hen (n=437) và 11.1% ở những người vừa hút thuốc lá lại bị hen (n=514). Bệnh hen và hút thuốc lá ≥15 điếu-ngày có tác dụng đồng vận lên sự suy giảm chức năng phổi, làm cho FEV 1 giảm 17.8% qua 10 năm (15). Đáp ứng điều trị với corticoid Các tài liệu hướng dẫn quốc tế về quản lý bệnh hen nhấn mạnh đến corticoid hít là điều trị kháng viêm hiệu quả nhất với hen mạn tính (37). Chứng cứ cho khuyến cáo này dựa trên các nghiên cứu lâm sàng được thực hiện rộng rãi trên những bệnh nhân hen chưa bao giờ hút thuốc hay đã ngừng hút. Nhiều nghiên cứu gợi ý hiệu quả của corticoid bị giảm đi ở bệnh nhân hen nhưng đang hút thuốc lá (38-41) , mặc dù kết luận này không được củng cố từ nghiên cứu khác (42). Năm 1993, KERSTJENS và cs. (38) báo cáo kết quả của nghiên cứu lâm sàng Dịch 78 Hô hấp số 16/2018 đối chứng ngẫu nhiên ở bệnh nhân bị tắc nghẽn đường thở có mức độ từ nhẹ đến trung bình nặng (hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính) với mục đích thiết kế nhằm xác định các yếu tố tiên lượng cho đáp ứng điều trị bằng corticoid hít. Tiền sử đang hút thuốc lá dự đoán sự suy giảm FEV 1 đáp ứng với beclomethasone hít có liều 800 µg mỗi ngày vào thời điểm 3 tháng là 382 mL so với bệnh nhân không hút thuốc lá. Tuy nhiên, không có sự rõ ràng nếu bệnh nhân hen hút thuốc, bệnh nhân COPD hay cả hai nhóm đó kháng với corticoid hít. Phân tích post-hoc của một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên thiết kế để nghiên cứu các dụng kéo dài của budesonide hít (400 µg mỗi ngày hay 1,600 µg mỗi ngày) hoặc theophylline (600 mg mỗi ngày) trên các chất chỉ điểm viêm trong máu và chức năng phổi cho thấy hiệu quả của budesonide hít hiện diện ở bệnh nhân hen không hút thuốc nhưng không thấy ở bệnh nhân hen có hút thuốc (39). Không có sự cải thiện nào về chức năng phổi hay chất chỉ điểm là bạch cầu ái toan ở bệnh nhân hút thuốc, ngay cả sau khi đã sử dụng budesonide liều cao được 9 tháng. Hiệu quả của việc điều trị bằng fluticasone propionate hít (1,000 µg mỗi ngày) hoặc placebo đươc nghiên cứu trong 3 tuần bằng phương pháp lâm sàng ngẫu nhiên chéo và đối chứng với placebo cho bệnh nhân hen trưởng thành không dùng corticoid (40). Tất cả những bệnh nhân tham gia bị hen kèm bằng chứng của tăng tính nhạy cảm của phế quản. Những người không hút thuốc lá có sự cải thiện có ý nghĩa trên giá trị trung bình lưu lượng đỉnh vào buổi sáng (PEF, hình. 2), giá trị trung bình của FEV 1 và hình ảnh về nồng độ trung bình của methacholine gây sụt giảm 20% giá trị FEV 1 (PC20), và sự giảm một cách có ý nghĩa về bạch cầu ái toan trong đàm sau khi sử dụng fluticasone khi so với nhóm placebo. Những kết quả đo lường này cho thấy ở bệnh nhân hen hút thuốc lá không có sự thay đổi có ý nghĩa. Một nghiên cứu với nhóm ngẫu nhiên dùng fluticasone propionate hít (2,000 µg mỗi ngày) hoặc placebo trong 6 tuần nhằm xem xét hiệu quả của đáp ứng đường thở với methacholine trên 52 bệnh nhân hen trưởng thành chưa điều trị, trong số đó có khoảng phân nửa đang hút thuốc lá (42). Hình 2. Lưu lượng đỉnh trung bình (CI 95%) thay đổi (PEF l/ mn) ở bệnh nhân không hút thuốc lá và hút thuốc lá bị hen sau khi điều trị với placebo hít (h) hoặc fluticasone propionate (u; 1,000 µg/day1). #: p=0.016, cao hơn nhóm không hút thuốc sau placebo; ***: p=0.001, cao hơn ở người hút thuốc sau khi dùng fluticasone. Thông tin với sự cho phép (40). Việc hít fluticasone làm giảm hình ảnh của PC20 trung bình của methacholine khi so với placebo (1.9 lần PC20). Nhiều phân tích hồi quy tuyến tính cho thấy việc đang hút thuốc lá không ảnh hưởng đến tầm quan trọng của tác dụng fluticasone hít trên PC20 với methacholine. Hiệu quả của việc điều trị bằng corticoid uống ngắn hạn bị suy giảm ở bệnh nhân hen mạn tính có hút thuốc lá (41). Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên chéo đã nghiên cứu về hiệu quả của prednisolone 40 mg mỗi ngày hoặc placebo trong 2 tuần trên bệnh nhân hen đang hút thuốc, đã ngừng hút và chưa bao giờ hút. Tất cả những bệnh nhân này có triệu chứng lâm sàng của hen kèm bằng chứng của sự hồi phục của FEV 1 sau khi dùng salbutamol hít ≥ 15% và giá trị trung bình của FEV 1 dự đoán sau nghiệm pháp giãn phế quản >80%. Nhóm dùng prednisolone uống cải thiện đáng kể so với nhóm placebo trên các chỉ số FEV 1 , PEF buổi sáng và chỉ số kiểm soát hen trên bệnh nhân hen không bao giờ hút thuốc lá, nhưng với nhóm hen hút thuốc lá không có sự thay đổi (hình 3). Tình trạng đang hút thuốc lá là yếu tố dự đoán cho việc suy giảm đáp ứng với việc điều trị bằng corticoid hít hay uống, qua sự đánh giá về việc cải thiện trên FEV 1 nhưng không có sự thay đổi trên PC20 hay chất lượng cuộc sống của bệnh Dịch 79 Hô hấp số 16/2018 hen ở những bệnh nhân hen nhẹ nhưng không ổn định (43). Thú vị là ở bệnh nhân COPD, việc đang hút thuốc lá là yếu tố mạnh nhất liên quan đến sự sụt giảm thay đổi FEV 1 sau khi dùng prednisolone (44). Khi xem xét toàn thể, các kết quả của những nghiên cứu lâm sàng này gợi ý rằng những người hút thuốc lá nhưng bị hen có thể kháng lại với tác dụng có lợi trong điều trị của corticoid. Có nhiều yếu tố lâm sàng có thể ảnh hưởng đến đáp ứng với corticoid ở bệnh nhân hen hút thuốc. Đó là: Chẩn đoán Hút thuốc lá là yếu tố quan trọng trong việc làm cho bệnh COPD tiến triển. Ở những bệnh nhân hen hút thuốc lá trong những nghiên cứu này có nhiều đặc điểm lâm sàng khác biệt với COPD (40,41), họ trẻ hơn những người có triệu chứng điển hình liên quan đến COPD (40,41) và có bệnh sử bị hen lâu ngày. Hơn nữa, những bệnh nhân có các bằng chứng về tăng tính phản ứng phế quản với methacholine (40) hay hồi phục sau khi sử dụng salbutamol ≥15% (41). Hình 3. Khác biệt ... của niêm mạc đường thở (41). Tác động của việc hút thuốc lá trên sự thanh thải của corticoid uống ở bệnh nhân hen chưa được biết đến, nhưng có lẽ là bình thường, do việc hút thuốc không làm thay đổi dược động học của prednisolone, prednisone và dexamethasone ở người đàn ông trưởng thành khỏe mạnh (46,103). Bảng 1. Các giả thuyết về cơ chế kháng corticoid ở bệnh nhân hen hút thuốc lá Dược động học của corticoid Tăng tính thấm của chất nhầy đường thở Tăng tiết phế quản Corticosteroid và sự tương tác thụ thể β2 Điều hòa ngược chức năng của thụ thể β2- adrenergic Các kiểu hình tế bào viêm Tăng bạch cầu đa nhân trung tính đường thở hay số lượng lympho bào CD8+ Giảm số lượng bạch cầu ái toan đường thở Nồng đồ Cytokine và chất trung gian Tăng sản sinh IL-4, IL-8, TNF-α Giảm sản sinh IL-10 Nitrosative stress GR Bộc lộ quá mức GR-b Giảm bộc lộ GR-a Hoạt hóa yếu tố sao chép tiền viêm Bộc lộ quá mức NF-kB Bộc lộ quá mức chất kích hoạt protein-1 Bộc lộ quá mức yếu tố tín hiệu tải nạp được hoạt hóa Hệ thống tín hiệu tế bào corticoid Giảm hoạt động men histone deacetylase Tăng hoạt động men p38 mitogen-activated protein kinase IL: interleukin; TNF: yếu tố họa tử mô; GR: thụ thể glucocorticoid; NF: yếu tố nhân Sự tương tác giữa Corticosteroid và thụ thể đồng vận β2. Ghi nhận việc hút thuốc là làm giảm mật độ của các thụ thể β2 trên các lympho bào, làm giảm phối Dịch 85 Hô hấp số 16/2018 tử kết hợp với thụ thể β2 adrenergic và làm giảm việc hình thành các adenosine monophosphate vòng (104). Các tác động này hồi phục sau 8 tuần khi ngừng thuốc lá (104,105). Mức độ của điều hòa ngược việc gây ra hút thuốc của thụ thể β2 adrenergic có thể thay đổi giữa các cá thể tùy theo sự đa dạng của các kiểu thụ thể β2 adrenergic (22) [22]. Đồng vận β2 có thể có khả năng tác động đến hoạt động của corticoid bằng các định vị nhân của GRs (106). Vì thế ở những người hút thuốc lá bị hen, cơ chế điều hòa ngược của chức năng thụ thể β2 adrenergic không những có thể làm giảm đáp ứng lâm sàng với đồng vận β2 mà còn có hiệu quả có lợi ích của corticoid. Các kiểu hình của tế bào viêm Hút thuốc lá làm thay đổi cả số lượng và chức năng của các tế bào viêm đường thở (107,108) . Số lượng tế bào bạch cầu ái toan giảm trong đàm được phát hiện ở bệnh nhân hen những người hút thuốc lá nhiều năm so với bệnh nhân hen không hút thuốc lá (40,45) có thể làm suy giảm sự đáp ứng với corticoid ở người hút thuốc. Tương tự, sự tăng về số lượng bach cầu đa nhân trung tính giảm trong đàm ở bệnh nhân hút thuốc bị hen có thể làm kém đi đáp ứng với corticoid (109). Tuy nhiên, có các dữ liệu trái ngược về tác động của corticoid trên hiện tượng viêm tăng bạch cầu đa nhân trung tính ở hen (110). Sự ức chế từ corticosteroids của sự tăng sinh lympho bào T của các tế bào đơn nhân trong máu ngoại biên bị suy giảm ở bệnh nhân hen kháng corticoid so với bệnh nhân hen còn nhạy cảm corticoid (111). Những người hút thuốc lá có chức năng phổi bình thường có số lượng lmpho bào T CD8 + tăng lên trong dịch rửa phế quản, vốn có liên quan thuận với số lượng gói thuốc-năm đã hút (112). Có lẽ số lượng hay hoạt động của các lympho bào CD8+ tăng ở bệnh nhân hen hút thuốc góp phần gây kháng corticoid vì sự tăng các lympho bào T cũng được tìm thấy ở bệnh nhân COPD (113) vốn đáp ứng kém với corticosteroids. Cytokines và các chất trung giam viêm Phơi nhiễm thuốc lá, dù là in vitro hay vivo, đều làm tăng sự sản xuất các cytokine tiền viêm, đó là IL-4 (114), IL-8 (115) và yếu tố hoại tử mô (TNF)-a (115,116). Những cytokines này liên quan đến sự kháng corticoid mặc dù các cơ chế chính xác vẫn chưa biết một cách chính xác. Sự kết hợp giữa IL-2 và IL-4, khi cho lympho bào T thêm vào in vito, gây ra sự giảm đáp ứng với corticosteroids (117) TNF-α gây kháng corticosteroid ở tế bào đơn nhân của người in vitro, có thể qua sự hoạt động của yếu tố nhân –kB nuclear factor-kB (NF-kB) (118). Sự khiếm khuyết trong tổng hợp corticoid từ lympho bào T của các cytokin kháng viêm IL-10 có liên quan đến hen kháng corticoid (119). Nồng độ IL-10 trong đàm giảm ở người bình thường hút thuốc lá so với người khỏe mạnh không hút thuốc lá (120). Khả năng corticosteroid tạo ra sự phóng thích IL-10 bị suy giảm in vitro do sự kết hợp của IL-2 với IL-4 (121). Tổng thể, những kết quả này gợi ý rằng việc ức chế sự tạo ra IL-10 từ lympho bào T của bệnh nhân hen hút thuốc có thể làm mất sự nhạy cảm với corticoid. Khí NO có mặt với nồng độ cao trong khói thuốc lá (122), và in vitro, làm giảm ái tính gắn kết GR-phối tử (123). Điều này gợi ý rằng các stress hoạt hóa nitro nội sinh (endogenous-generated “nitrosative stress) có thể gây ra đáp ứng kém với corticoid ở hen (124), và cơ chế tương tự có thể xảy ra trong bệnh nhân hen hút thuốc lá như là hậu quả của các stress nitro ngoại sinh và nội sinh gây ra từ khói thuốc lá. Số lượng thụ thể Glucocorticoid hay khả năng gắn kết Có hai dạng đồng phân của thụ thể glucocorticoid GR ở dạng tự nhiên: GR-α là thụ thể chức năng, GR-β vốn không kết nối với phối tử (ligand) và hiện diện chiếm ưu thế trong nhân và không thể hoạt hóa chéo các gien nhạy cảm corticoid. Có lẽ sự biểu hiện quá mức của GR-β làm suy giảm đáp ứng corticoid từ sự ức chế của thụ thể GR-α được hoạt hóa phối tử (97,125-128). Tương tự, số lượng GR-α giảm cũng bị tác động như là cơ chế của sự kháng corticoid (129). Sự bộc lộ GR-β Dịch 86 Hô hấp số 16/2018 tăng lên trong các loại tế bào khác nhau sau khi phơi nhiễm với các cytokine tiền viêm và các chất trung gian bị tăng lên sau khi phơi nhiễm với khói thuốc lá. Khi IL-2 và IL-4 kết hợp nhau, mà không phải trong trường hợp của từng cytokine riêng rẽ, làm tăng số lượng GR-β lympho bào (130). IL-8 làm cho bạch cầu đa nhân trung tính tăng biểu hiện GR-β (131), và việc này có thể giải thích cho việc các tế bào đáp ứng kém với corticoid TNF-α gia tăng một cách không đồng bộ trong sự bộc lộ GR-β vượt quá GR-α trong các tế bào Helen Lake S3 carcinoma cổ tử cung người (132). Ái tính gắn kết với GR bị giảm có thể đưa đến sự kháng corticoid ở người hút thuốc lá. Các tế bào biểu mô người hút thuốc lá được nuôi cấy so sánh với người không hút thuốc chiếm hữu GRs giảm ái tính gắn kết, mặc dù không có sự khác biệt về số lượng của các vị trí gắn kết (133). Ái tính gắn kết GR-phối tử bị giảm do sự kết hợp IL-2 và IL-4 trong các tế bào đơn nhân trong máu ngoại biên (117,121), do NO trong các nguyên bào sợi của chuột (123), và do IL-13 trong các monocytes ở máu ngoại biên (111). Vẫn chưa biết được nếu sự thay đổi về tỉ lệ GR-α với -β hay ái tính gắn kết GR có thể đưa đến sự kháng corticoid ở người hút thuốc lá hay không. Hoạt hóa yếu tố sao chép tiền viêm Có thể có nhiều thành phần trong khói thuốc, bao gồm lipopolysaccharide của vi trùng (LPS), có thể có khả năng hoạt hóa NF-kB (134). NF-kB có liên quan đến sự tạo thành nhiều cytokine viêm, bao gồm TNF-α và IL-8. So với người không hút thuốc lá, những người hút thuốc lá có chức năng phổi bình thường có các biểu hiện p65 tăng lên, đây là phân nhóm chính của NF-kB trong biểu mô phế quản (135). GRs có thể chặn các tín hiệu NF- kB nhưng trái lại, NF-kB có thể ức chế cả chức năng GR-α bằng sự phosphoryl hóa GR lẫn khả năng của GR để gắn với DNA [96]. NF-kB có liên quan đến việc không đáp ứng với corticoid trên bệnh Crohn (136), và có lẽ cơ chế tương tự tồn tại ở những người hút thuốc bị hen có tình trạng mất cân bằng giữa chức năng GR-α hoạt động NF-kB tăng lên tương tác gây nên sự kháng corticoid. Có lẽ các yếu tố sao chéo tiền viêm khác, bao gồm chất hoạt hóa protein-1 và yếu tố signal transduction-activated transcription, được biểu hiện quá mức trong các tế bào của những người hút thuốc (137) , và chúng có thể đưa đến tình trạng kháng corticoid ở những người hút thuốc bị hen. Hệ thống phát tín hiệu tế bào corticoid Corticoid cần hoạt động men histone deacetylase (HDAC) nhằm ức chế tối đa sự tạo cytokine (138). Những người hút thuốc lá giảm hoạt động của HDAC 2 trong các đại thực bào phế nang, có thể là kết quả của “nitrosative stress”, điều này dẫn đến tăng các biểu hiện của gen viêm và giảm tính nhạy cảm với corticoid (139). Con đường đi này đã công nhận và vận hành cho sự kháng corticoid ở bệnh COPD (140). Sự hoạt hóa của men p38 mitogen-activated protein kinase (MAPK) xảy ra nhanh hơn trong các tế bào phế quản phế nang khi được kích hoạt bằng LPS ở những người bình thường hút thuốc lá so với người không hút (141), và men p38 MAPK phosphorin hóa GRs, làm giảm ái tính với corticoid và chuyển dịch nhân corticoid cảm ứng (corticosteroid-induced nuclear translocation) của GRs (121). Vì thế đường đi này men p38 MAPK có thể được hoạt hóa ở người hút thuốc lá bị hen và đưa đến việc mất tính nhạy cảm với corticoid. Các thuốc tiềm năng cho điều trị người hút thuốc bị hen phế quản: Các điều trị thay thế hay hỗ trợ cho corticoid hít có thể cần thiết cho bệnh nhân hen không thể ngừng thuốc hay có triệu chứng dai dẳng sau khi cai thuốc. Không có các thử nghiệm lâm sàng được công bố về điều trị không chứa corticoid ở bệnh nhân hút thuốc bị hen, tuy nhiên lại có nhiều thuốc gần đây được cấp phép và có các thuốc mới đang thử nghiệm, có thể cho thấy hiệu quả trong nhóm bệnh nhân này (bảng 2). Sự kết hợp giữa đồng vận thụ thể β2 tác dụng kéo dài và corticoid hít có hiệu quả cao trong điều trị hen, có tác dụng kém hơn trong COPD (142,143). Hai thứ thuốc này có thể tương tác để có khả Dịch 87 Hô hấp số 16/2018 năng ức chế viêm liên quan đến các điều kiện trên (106,144). Do đó, có thể sự kết hợp của chúng mang lợi ích trong điều trị bệnh nhân hen hút thuốc lá. Theophylin với liều thấp hoạt hóa HDAC, là chất vốn được huy động để ức chế viêm (145). Theophylline làm đảo ngược tác dụng ức chế của khói thuốc lá trên HDAC in vitro (146), do đó có khả năng phục hồi tính nhạy cảm của corticoid cho bệnh nhân hen có hút thuốc lá. Hiệu quả điều trị của ức chế men phosphodiesterase-4 chọn lọc như cilomilast và roflumilast trong điều trị COPD (147) cũng như tác động ức chế của chúng trên chức năng bạch cầu gợi ý rằng chúng có thể có hiệu quả ở bệnh nhân hen hút thuốc lá. Bảng 2. Thuốc có tiềm năng cho điều trị cho bệnh nhân hen hút thuốc lá Đồng vận β2 tác dụng kéo dài Dùng phối hợp với corticoid hít Theophylin Đồng vận thụ thể corticoid mới Ức chế men phosphodiesterase-4 chọn lọc Đối vận các chất trung gian Đối vận thụ thể Leukotriene Đối vận thụ thể Histamine-H1 Chặn thụ thể IL-2 Đối vận TNF-α, LTB4, hoặc IL-8 Các liệu pháp điều trị kháng viêm khác IFN-α Đồng vận IL-10 Ức chế mitogen-activated protein kinases Ức chế NF-kB Các kháng sinh Macrolide Chặn nitric oxide cảm ứng Các chất chống oxy hóa IL: interleukin; TNF: tumour necrosis factor; LTB4: leukotriene B4; IFN: interferon; NF: nuclear factor. Nhiều đồng vận GR chọn lọc hiện nay đang được phát triển có nhiều tiềm năng hơn in vitro trong việc tạo ra bất hoạt chéo các gien gây viêm hơn là hoạt hóa chéo các gien, có liên quan nhiều hơn với tác dụng phụ do corticoid gây ra (148). Các đặc điểm phân ly của các chất này làm cho chúng ít có tiềm năng gây ra tác dụng phụ, nhưng vẫn chưa biết được liệu những thành phần này sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của chúng khi sự hiện diện của sự kháng corticoid. Việc hút thuốc lá gây sự tăng liên quan đến liều trong sự tạo ra cysteinyl leukotriene E4 trong nước tiểu (149), và hoạt động của các đồng phân 15-lipoxygenase tăng lên trong đường thở người khỏe mạnh hút thuốc (150). Các kết quả được phát hiện này có thể chỉ ra vai trò của đối kháng thụ thể leukotriene ở bệnh nhân hen hút thuốc. Các đối vận thụ thể Histamine-H1, như cetirizine và azelastine, làm giảm hoạt động của NF-kB (151), và qua tác động này có thể ức chế các phản ứng bất lợi tiềm tàng của NF-kB lên tính nhạy cảm của glucocorticoid trên bệnh nhân hen hút thuốc. Các kết quả sơ khởi gợi ý rằng sự ngăn chặn thụ thể IL-2 có thể tạo ra sự thuyên giảm trong bệnh lý viêm loét đại tràng có tình trạng kháng corticoid (152). Các thuốc ngăn chặn tác dụng của chất trung gian liên quan đến tình trạng viêm đường thở do khói thuốc lá gây ra, như TNF-α, LTB4, IL-8, chất oxy hóa, NO cảm ứng và nhiều chemokine khác, có tiềm năng như tác nhân kháng hen trong điều trị cho người hút thuốc lá bị hen (148,153). Các liệu pháp kháng viêm khác đang trong quá trình phát triển cho điều trị hen kháng corticoid có thể có ích cho điều trị bệnh nhân hen hút thuốc lá. Điều trị bằng interferon- α cải thiện chức năng phổi và cũng làm tăng tính nhạy cảm của corticoid ở bệnh nhân hen kháng corticoid (154,155). Khiếm khuyết trong sự tổng hợp tạo ra corticosteroid từ lympho bào T từ các cytokine kháng viêm IL-10 có liên quan đến hen kháng corticoid (119), và đồng vận IL-10 có thể được điều trị trong tương lai cho bệnh nhân nhóm này. Các ức chế p38 MAPK có thể có vai trò trong điều trị hen kháng corticoid vì chúng và các MAPK khác là giảm hoạt hóa của GR từ corticoid (121,156). Các thuốc điều trị đích bằng cách ức chế NF-kB, là chất được hoạt hóa trên những người hút thuốc, các chất chống oxy hóa có tác dụng ngăn cản stress oxy hóa, hay các kháng sinh macrolide có tác dụng điều hòa ngược cho sự sản xuất IL 8 có thể có giá trị trong điều trị bệnh lý đường thở liên quan đến khói thuốc (148,153). Dịch 88 Hô hấp số 16/2018 Hướng nghiên cứu trong tương lai: Còn nhiều câu hỏi trong nghiên cứu về sự tương tác giữa hen và thuốc lá cần được trả lời, bao gồm: 1) Kháng corticoid ở bệnh nhân hút thuốc lá là phản ứng toàn thân hay chỉ khu trú tại phổi? 2) Các yếu tố nào ảnh hưởng đến đáp ứng điều trị với corticoid ở bệnh nhân hen hút thuốc lá, bao gồm thời gian hay liều lượng corticoid hít, các kết cục dùng để đánh giá hiệu quả điều trị, thời gian hoặc số lượng thuốc lá đã được sử dụng, hay thời gian bị hen phế quản? 3) Liệu corticoid toàn thân có hiệu quả trong điều trị đợt cấp hen phế quản ở người hút thuốc lá? 4), Giải phẫu bệnh đường thở ra sao ở những bệnh nhân hen hút thuốc lá? 5) Cơ chế kháng corticoid ở bệnh nhân hen hút thuốc lá là gì? 6) Việc cai thuốc lá có làm cải thiện việc kiểm soát hen và đáp ứng điều trị với corticoid không? 7) Liệu điều trị thay thế hay hỗ trợ cho corticoid hít có hiệu quả ở bệnh nhân hen vốn là những người không thể bỏ thuốc lá hay vẫn còn triệu chứng dai dẳng sau khi cai thuốc lá? Lời cám ơn Các tác giả xin cám ơn về những hỗ trợ của Ban giáo dục sức khỏe quốc gia của Scotland, văn phòng Chief Scientists và Hen của Vương quốc Anh. Các tác giả cũng mong muốn cảm ơn bà K. McFall (Dept of Medical Illustration, Gartnavel General Hospital, Glasgow, UK) về sự giúp đỡ của bà. (TCHH: Tài liệu tham khảo, xin xem từ bản gốc)
File đính kèm:
hen_phe_quan_va_thuoc_la.pdf

