Hen nặng khó điều trị và một số đề xuất thực hành ở Việt Nam
Trong các tài liệu hướng dẫn hiện nay hen nặng khó điều trị (SRA) chưa được chú ý và xác
định lộ trình xử trí đúng mức. Bệnh học hen rất đa dạng và SRA là tình trạng thể hiện rõ
nhất đặc điểm này. Tiếp cận thực hành xử trí nhóm bệnh nhân SRA cần hướng tới xác định
kiểu hình (hay phenotype) của từng bệnh nhân. Việc này cần thực hiện sớm ngay khi nghi
ngờ không đáp ứng tốt với trị liệu chuẩn với liều thấp - trung bình. Phân tuyến chức năng
là đề xuất của chuyên khoa Lao và Bệnh phổi Việt Nam không đồng nghĩa hoàn toàn với
tuyến quản lý y tế. Đơn vị y tế nào có đủ năng lực kỹ thuật chuyên khoa ở mức nào thì nên
triển khai tuyến chức năng ở mức đó. Hoạt động tuyến chức năng chỉ có ý nghĩa và có hiệu
quả khi có sự gắn kết trách nhiệm của tất cả các thành viên trong hệ thống tuyến.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hen nặng khó điều trị và một số đề xuất thực hành ở Việt Nam
TỔNG QUAN 11 Hô hấp số 14/2018 HEN NẶNG KHÓ ĐIỀU TRỊ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THỰC HÀNH Ở VIỆT NAM TS. BS NGUYỄN VĂN THÀNH PCT Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam E-mail: [email protected] Tóm tắt: Trong các tài liệu hướng dẫn hiện nay hen nặng khó điều trị (SRA) chưa được chú ý và xác định lộ trình xử trí đúng mức. Bệnh học hen rất đa dạng và SRA là tình trạng thể hiện rõ nhất đặc điểm này. Tiếp cận thực hành xử trí nhóm bệnh nhân SRA cần hướng tới xác định kiểu hình (hay phenotype) của từng bệnh nhân. Việc này cần thực hiện sớm ngay khi nghi ngờ không đáp ứng tốt với trị liệu chuẩn với liều thấp - trung bình. Phân tuyến chức năng là đề xuất của chuyên khoa Lao và Bệnh phổi Việt Nam không đồng nghĩa hoàn toàn với tuyến quản lý y tế. Đơn vị y tế nào có đủ năng lực kỹ thuật chuyên khoa ở mức nào thì nên triển khai tuyến chức năng ở mức đó. Hoạt động tuyến chức năng chỉ có ý nghĩa và có hiệu quả khi có sự gắn kết trách nhiệm của tất cả các thành viên trong hệ thống tuyến. Abstract: SEVERE REFRACTORY ASTHMA AND SOME PROPOSALS PRACTICAL ISSUES IN VIETNAM In the current severe refractory asthma (SRA) guidelines, attention has not been paid and a proper management path has not been identified. Asthma pathology is very diverse and SRA is the most clearly expressed condition of this trait. Practical approach to the management of the SRA patient group needs to be directed toward determining the phenotype of each patient. This should be done as soon as it is suspected of not responding well to standard low to moderate dose therapy. Functional assignment is a proposal by the VATLD, which is not synonymous with system of health management. A medical setting at which level of technical competence is required will have to do at this level of functional assignment. Functional linearization is only meaningful and effective when there is a coherent responsibility of all members in the system of functional assignment. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hen là bệnh đường thở mạn tính có biểu hiện lâm sàng rất khác nhau từ rất nhẹ tới rất nặng. Với trị liệu theo các hướng dẫn (guideline) như hiện nay, trong đa số các trường hợp, bệnh nhân đạt hiệu quả tốt (hay gọi là kiểm soát tốt). Tuy nhiên, có một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân không đạt được tình trạng kiểm soát (còn triệu chứng, nhiều đợt cấp và giảm chức năng hô hấp), còn được gọi là “khó điều trị”. TỔNG QUAN 12 Hô hấp số 14/2018 Trong khoảng 1 thập niên vừa qua, y văn thông báo về tỷ lệ hen khó điều trị không nhiều do thiếu nhất quán trong định nghĩa. Chúng ta cùng điểm qua các thuật ngữ được đề xuất trong các tài liệu có tầm quốc tế. Năm 2000, ATS (American thoracic society) (1) trong một hội thảo đồng thuận đã đề nghị sử dụng thuật ngữ “hen kháng điều trị” (refractory asthma) với ý nghĩa không bao hàm tính chất nguy cơ tử vong mà để mô tả một nhóm bệnh nhân có các tính chất nặng (severe), không đáp ứng tốt với trị liệu corticosteroid (steroid resistant), khó kiểm soát (difficult to control, poorly controled, brittle, irreversible). Năm 2014, ATS kết hợp với ERS (European Respiratory Society) (2) đã đề nghị sử dụng thuật ngữ hen nặng (severe asthma) cho một nhóm bệnh nhân đã được chẩn đoán hen xác định, có xem xét khả năng có tác động của các bệnh đồng mắc, phải điều trị corticosteroid đường hít (ICS) liều cao kết hợp với một thuốc kiểm soát khác (có hay không corticosteroid đường uống - OCS) để kiểm soát hoặc thậm chí vẫn không đạt được kiểm soát. Như vậy theo khuyến cáo của hội nghị đồng thuận này, thuật ngữ “hen nặng” được dành cho một nhóm bệnh nhân hen khó điều trị và những người có các bệnh đi kèm (như viêm xoang, béo phì) chưa được giải quyết tốt. Tài liệu hướng dẫn của BTS (British thoracic society), bản cập nhật năm 2016 (3) sử dụng thuật ngữ “hen khó” (difficult asthma) để chỉ một nhóm bệnh nhân vẫn còn triệu chứng và/hoặc nhiều đợt cấp mặc dù đã điều trị thuốc liều cao hoặc phải dùng thường xuyên hay liên tục OCS mà nguyên nhân có thể do kém tuân thủ điều trị, do bệnh lý đồng mắc hoặc do bản chất bệnh học khó điều trị. Còn hướng dẫn GINA (bản cập nhật 2016) (4) đã sử dụng thuật ngữ “hen khó điều trị” và “hen nặng” (“difficult-to- treat” and “severe asthma”) trong một chương riêng: Những tình huống đặc biệt và có bệnh đồng mắc. Trong đó GINA cũng muốn phân biệt các thuật ngữ: Hen khó trị (difficult-to- treat) là những trường hợp nói chung đang có các yếu tố tác động làm hen không đạt được kiểm soát, Hen kháng trị (“treatment resistant” hoặc “refractory” asthma) để chỉ những trường hợp giống như hen nặng mà ATS/ERS guideline năm 2014 đã nêu (2). Như vậy, chúng ta cần phân biệt các thuật ngữ tiếng Anh với ít nhiều chồng lấp, không thật rõ ở trên bằng ba tình huống như sau: 1) Hen không tuân thủ: mặc dù đã điều trị thuốc kiểm soát liều cao nhưng do bệnh nhân không tuân thủ (thí dụ sử dụng thuốc, tránh phơi nhiễm) nên không đạt yêu cầu kiểm soát; 2) Hen khó kiểm soát: mặc dù đã điều trị thuốc kiểm soát liều cao nhưng do có các bệnh đồng mắc (thí dụ béo phì, viêm xoang, GERD) làm cho không đạt yêu cầu kiểm soát và 3) Hen nặng khó điều trị: đã loại trừ các khả năng tác động tới kiểm soát, kể cả bệnh đồng mắc nhưng vẫn không đạt được kiểm soát. Tình huống thứ 3 hướng tới một nhóm bệnh nhân có nền tảng bệnh học đặc biệt mà cả trong BTS guideline và GINA đều không đề cập sâu. Năm 2013, Reinier R.L và cs (5) đã đề cập đến thuật ngữ :“hen nặng-khó điều trị” (severe refractory asthma). Trong bài viết kể trên các tác giả cho rằng cần làm rõ nhóm bệnh nhân có kiểu hình hen nặng khó điều trị bởi vì chúng ta cần có cách tiếp cận điều trị đặc biệt, mới, dựa trên nền tảng bệnh học của bệnh nhân mà với những thuật ngữ “không hay khó kiểm soát” như trên không xác định được cụ thể nhóm bệnh nhân này. Hình 1 mô tả minh họa cách phân loại những trường hợp hen có triệu chứng nặng theo D.R. Taylor và cs (năm 2008) (6) với quan niệm như trên. TỔNG QUAN 13 Hô hấp số 14/2018 Hình 1. Cách phân loại khái niệm hen nặng dựa theo D.R. Taylor và cs (6) (tác giả bài viết này thay đổi mầu để làm rõ nội dung trình bày). Năm 2011, một cuộc họp đồng thuận quốc tế (được gọi là sáng kiến y học - Innovative Medicine Initiative, IMI) đã đăng một biên bản trong đó có đề xuất định nghĩa về hen nặng khó điều trị (7). Một trường hợp hen nặng khó điều trị theo biên bản đồng thuận của cuộc họp này có nghĩa: 1) Bệnh nhân bị hen không kiểm soát và/hoặc có ≥ 2 đợt cấp trong năm trước; 2) Bệnh nhân đã được điều trị liều cao ICS có hay không kèm theo OCS [liều cao ICS được xác định bằng: ≥1000 mcg/ ngày fluticasone hoặc thuốc tương đương kết hợp LABA hoặc thuốc kiểm soát khác (với người lớn); ≥500mcg/ngày fluticasone hoặc thuốc tương đương (với trẻ tuổi học đường), ≥400 mcg/ngày budesonide hoặc thuốc tương đương và kháng leukotriene uống (với trẻ tuổi tiền học đường); 3) Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định hen; 4) Bệnh nhân đã được tư vấn tốt và biết cách sử dụng đúng dụng cụ hít; 5) Bệnh nhân tuân thủ điều trị hen; 6) Bệnh nhân không có các bệnh tiên phát khác có thể chồng lấp về triệu chứng lâm sàng; 7) Bệnh nhân không còn bị phơi nhiễm; 8) Đã được ngưng các thuốc có khả năng kích thích co thắt phế quản; 9) Các bệnh đồng mắc đã được kiểm soát tốt; 10) Bệnh nhân đã được theo dõi và đánh giá ít nhất trong 6 tháng. Có thể nói đây nên được xem là các bước cần xem xét và thực hiện trước khi xác định bệnh nhân bị hen nặng khó điều trị. Thuật ngữ “hen nặng khó điều trị” như vậy bao gồm hai tiêu chuẩn: hen nặng (định nghĩa lâm sàng và/hoặc chức năng hô hấp) và không đáp ứng với điều trị bằng thuốc kiểm soát liều cao. Để chẩn đoán hen nặng khó điều trị nên được theo dõi xác định trong môi trường chuyên khoa trong thời gian 6 tháng (7). Hen nặng khó điều trị (severe refractory asthma, SRA) được xem là chỉ chiếm khoảng 5-10% trên tổng số bệnh nhân hen (8,9), thậm chí có tác giả còn cho rằng thấp hơn, 3,6% (10). Tuy nhiên nhóm bệnh này lại được cho là chiếm đến 50% tổng chi phí điều trị hen (8,11). Tiếp cận xử trí SRA phải là các bác sỹ chuyên khoa hen, có kinh nghiệm xử trí hen nặng và chỉ định các điều trị chuyên biệt (12). Tuy nhiên, từ các tài liệu hướng dẫn quốc tế cũng như trong nước, vấn đề này chưa được chú ý nhấn mạnh và lộ trình tiếp cận nhóm bệnh nhân này cũng chưa được đặt ra một cách cụ thể thay vì chỉ với hướng dẫn tăng bậc (step- up) khi không kiểm soát. Hen là bệnh không đồng nhất các kiểu hình (phenotype) do có nền tảng bệnh học không giống nhau, điều này thể hiện đặc biệt rõ ở nhóm SRA (13-15). Việc xác định bản chất bệnh học và chỉ định điều trị chuyên biệt là rất cần thiết và điều này cần được lưu ý ngay cả trong phác đồ điều trị thường quy (3,12). Hướng dẫn cách tiếp cận cụ thể trên nhóm bệnh nhân SRA sẽ giúp cho các thầy thuốc đa khoa cũng như chuyên khoa hô hấp không chuyên hen dễ dàng hơn trong thực hành và tạo ra được sự kết nối xử trí có tính phân tuyến chức năng. TỔNG QUAN 14 Hô hấp số 14/2018 2. BỆNH HỌC, PHENOTYPE VÀ TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN SRA Câu hỏi cần được đặt ra đầu tiên rằng SRA là một bệnh hay là một nhóm bệnh. Bệnh hen được chúng ta chẩn đoán bằng triệu chứng lâm sàng và chức năng mà thông thường không dựa trên nền tảng sinh học/bệnh học. Với cách tiếp cận như vậy, thuật ngữ hen mà chúng ta thường dùng (tắc nghẽn đường thở thì thở ra, hồi phục khi sử dụng thuốc dãn phế quản, tăng phản ứng đường thở) là không đặc hiệu. Nhiều bằng chứng cho rằng hen không phải là một bệnh (16). Với đặc điểm triệu chứng chung nặng (triệu chứng hô hấp tồn tại liên tục, hoạt động thể lực hạn chế, nhiều đợt cấp, nhiều triệu chứng về đêm, giảm FEV 1 <60% và mức độ giao động PEF>30%) nhưng có thể xảy ra trên một người đã mang tình trạng này ngay từ đầu và suốt cuộc đời, hoặc khởi đầu nhẹ nhưng bệnh tiến triển tăng dần đến nặng, hoặc thậm chí khởi phát muộn, ở một thời điểm nào đó khi đã trưởng thành mới xuất hiện. Với tính chất dị ứng cũng vậy. Một số SRA được xác định là hen atopy, số khác cho thấy liên quan đến dị ứng không rõ ràng. Nhiều bệnh nhân khởi phát muộn khi trưởng thành thậm chí rất khó để xác định có hay không sự tham gia của yếu tố dị ứng trong sinh bệnh học hen của họ (16). Tình trạng tăng tiết mạn tính và tắc nghẽn mạn tính là hai đặc điểm bệnh học quan trọng cho thấy có sự khác biệt trong nhóm SRA. Trong nhóm bệnh này, có thể thấy tăng tiết mạn tính và tắc nghẽn nặng mạn tính trong khi nhóm kia không có tăng tiết và tình trạng tắc nghẽn rất thay đổi (1,17). Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân hen nặng không đáp ứng với corticosteroid (CRS) cho thấy có hai nhóm khác nhau về bệnh học, chức năng hô hấp và lâm sàng trên nền tảng viêm tăng bạch cầu ái toan (BCAT) hay không (hình 2) (18). Như vậy với bệnh cảnh lâm sàng nặng không đáp ứng với CRS, có hai dạng viêm tăng hay không tăng BCAT và hoàn toàn có thể đây là nền tảng của hình ảnh bệnh học với các biến đổi mạn tính (remodeling) được ghi nhận khác nhau trên đường thở (18,19). Hình 2. Nhuộm kháng thể collagen 1 từ mô một người hen nặng BCAT (+) (A), 1 người BCAT (-) (B) và 1 người bình thường chứng (C) (Wenzel SE et al. Evidence that severe asthma can be divided pathologically into two inflammatory subtypes with distinct physiologic and clinical characteristics. Am J Respir Crit Care Med 1999;160:1001-8). Song, nếu nhìn từ biểu hiện lâm sàng (kiểu hình hay phenotype) hen nặng, chúng ta sẽ thấy được gì từ khái niệm phân loại ở nhóm bệnh nhân này. Hãy cùng điểm qua những nghiên cứu và kết luận quan trọng trong khoảng trên dưới một thập niên gần đây về phenotype hen nặng. Năm 2003, một nhóm các nhà lâm sàng chuyên khoa ở 9 nước châu Âu cùng tập trung phân tích trong một hệ thống để tìm hiểu về cơ chế hình thành hen nặng (gọi là TỔNG QUAN 15 Hô hấp số 14/2018 ENFUMOSA, European countries formed a European Network For Understanding Mechanisms Of Severe Asthma) (20) . Hình 3. Số lượng tế bào trong đàm khác nhau ở bệnh nhân hen nặng (hình cột kẻ chéo, n=99) so với những bệnh nhân hen kiểm soát tốt (hình cột trắng, n=89). Số liệu tính theo tỷ lệ %± SEM. Không có sự khác biệt tổng số tế bào giữa nhóm hen kiểm soát tốt (4,6±0,5 triệu tế bào/gram) so với nhóm hen nặng (5,6±0,6 triệu tế bào/gram). Có sự khác biệt (p<0,05) tỷ lệ tế bào Macrophage và BCĐNTT giữa hai nhóm. Trên cơ sở so sánh với nhóm hen nhẹ, nghiên cứu ghi nhận ở nhóm hen nặng, mặc dù đã được điều trị bằng các thuốc kiểm soát và triệu chứng với liều cao liên tục nhưng vẫn có biểu hiện tắc nghẽn không hồi phục, viêm tăng bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT), đại thực bào (hình 3) và ít kết hợp với tạng atopy hơn. Đã có tác giả sau đó (21) cho rằng có vai trò của tình trạng nhiễm trùng kích hoạt hệ thống miễn dịch bẩm sinh (innate immune). Hiện tượng duy trì tình trạng hoạt hóa hệ thống miễn dịch bẩm sinh như vậy là cơ sở để giải thích các biến đổi viêm thấy trong hen nặng và sự xuất hiện nhiều hơn các đợt cấp mặc dù vẫn sử dụng kháng viêm steroid, kháng bạch cầu ái toan (BCAT). Hình 4 mô tả sự kết nối giữa hai hệ thống viêm có bản chất miễn dịch thu được (adaptive immune) và bẩm sinh (innate immune) mà trong y văn kinh điển chúng ta đã mô tả như là hen “ngoại sinh” và hen “nội sinh”. Với hiểu biết như hiện nay, tính “ngoại sinh” và “nội sinh” đang dần xóa ranh giới, nhất là trên những trường hợp hen dai dẳng, hen nặng khó điều trị. Khái niệm nội sinh đang được dần hiểu như là tác động của mội trường bên trong (“airway microenvirontment”) (22). Hình 4. Đáp ứng viêm và tái tạo (remodeling) trong hen với sự hoạt hóa của tầng mô nuôi trung gian (mesenchymal trophic unit): Tổn thương biểu mô làm phá hủy sự toàn vẹn hình thành điểm giao thương giữa biểu mô phế quản và các tế bào trung mô tầng dưới niêm mạc, dẫn đến hoạt hóa các tế bào cơ non (myofibroblast), gia tăng thể tích tầng mô nuôi trung gian và dẫn đến các thay đổi cấu trúc toàn bộ cấu trúc vách đường thở. (Holgate ST et al. The mechanisms, diagnosis, and management of severe asthma in adults. The Lancet, 2006. 368, 780–93). Hướng tới việc nhận định về ý nghĩa của BCAT cũng như các biomarker trong hen nặng, nghiên cứu BIOAIR (Longitudinal Assessment of Clinical Course and BIOmarkers in Severe Chronic AIRway Disease) (năm 2014) (23) đã theo dõi các biến số lâm sàng (chức năng phổi, độ hồi phục phế quản, tuổi khởi phát) và các biomarker (BCAT, BCĐNTT trong đàm) trong 12 tháng trên 3 nhóm bệnh nhân: hen nhẹ, hen nặng và COPD. Trong 12 tháng theo dõi, nghiên cứu nhận định các biến số có thay đổi theo thời TỔNG QUAN 16 Hô hấp số 14/2018 gian nhưng các biến lâm sàng ổn định hơn so với các biến biomarker. Trên nhóm hen nặng, biến lâm sàng thay đổi 30% so với các biến ... A.T., Li, X., Li, H., Busse, W.W., Jarjour, N.N. et al. (2014) Sputum Neutrophil Counts Are Associated with More Severe Asthma Phenotypes Using Cluster Analysis. J Allergy Clin Immunol 133: 1557-1563. 52. Brooks CR, van Dale CJ, Zacharasiewicz A, et al. Absence of airway inflammation in a large proportion of adolescents with asthma. Respirology (2016) 21, 460–466 53. Neil C Thomson. Novel approaches to the management of noneosinophilic asthma. Ther Adv Respir Dis 2016, Vol. 10(3) 211–234 54. Futosi, K., Fodor, S., and Mocsai, A. (2013) Neutrophil Cell Surface Receptors and Their Intracellular Signal Transduction Pathways. Internat Immunopharmacol 17: 1185-1197. 55. Saffar, A., Ashdown, H. and Gounni, A. (2011) The molecular mechanisms of glucocorticoids- mediated neutrophil survival. Curr Drug Targets 12: 556–562. 56. Cowan, D., Cowan, J., Palmay, R., Williamson, A. and Taylor, D. (2010) Effects of steroid therapy on inflammatory cell subtypes in asthma. Thorax 65: 384–390. 57. Choy, D., Hart, K., Borthwick, L., Shikotra, A., Nagarkar, D., Siddiqui, S. et al. (2015) Th2 and Th17 inflammatory pathways are reciprocally regulated in asthma. Sci Transl Med 7: 301ra129– 301ra129 58. Uddin, M., Lau, L., Seumois, G., Vijayanand, P., Staples, K., Bagmane, D. et al. (2013) EGF- induced bronchial epithelial cells drive neutrophil chemotactic and anti-apoptotic activity in asthma. PLoS ONE 8: e72502. 59. Uddin, M., Nong, G., Ward, J., Seumois, G., Prince, L., Wilson, S. et al. (2010) Prosurvival activity for airway neutrophils in severe asthma. Thorax 65: 684–689. 60. Shaw, D., Berry, M., Hargadon, B., Mckenna, S., Shelley, M., Green, R. et al. (2007) Association between neutrophilic airway inflammation and airflow limitation in adults with asthma. Chest 132: 1871– 1875 TỔNG QUAN 30 Hô hấp số 14/2018 61. Newby, C., Agbetile, J., Hargadon, B., Monteiro, W., Green, R., Pavord, I. et al. (2014) Lung function decline and variable airway inflammatory pattern: longitudinal analysis of severe asthma. J Allergy Clin Immunol 134: 287–294 62. Berry, M., Morgan, A., Shaw, D., Parker, D., Green, R., Brightling, C. et al. (2007) Pathological features and inhaled corticosteroid response of eosinophilic and noneosinophilic asthma. Thorax 62: 1043–1049. 63. McGrath, K., Icitovic, N., Boushey, H., Lazarus, S., Sutherland, E., Chinchilli, V. et al. (2012) A large subgroup of mild-to-moderate asthma is persistently noneosinophilic. Am J Respir Crit Care Med 185: 612–619 64. Chalmers, G., Macleod, K., Little, S., Thomson, L., Mcsharry, C. and Thomson, N. (2002) Influence of cigarette smoking on inhaled corticosteroid treatment in mild asthma. Thorax 57: 226–230. 65. Boulet, L., Lemiere, C., Archambault, F., Carrier, G., Descary, M. and Deschesnes, F. (2006) Smoking and asthma: clinical and radiologic features, lung function, and airway inflammation. Chest 129: 661–668. 66. Thomson, N., Chaudhuri, R., Heaney, L., Bucknall, C., Niven, R., Brightling, C. et al. (2013) Clinical outcomes and inflammatory biomarkers in current smokers and exsmokers with severe asthma. J Allergy Clin Immunol 131: 1008–1016. 67. Simpson, J. L., Baines, K. J., Ryan, N., Gibson, P. G. (2014) Neutrophilic asthma is characterised by increased rhinosinusitis with sleep disturbance and GERD. Asian Pac. J. Allergy Immunol. 32, 66–74. 68. Dweik RA, Boggs PB, Erzurum SC, et al. An official ATS clinical practice guideline: interpretation of exhaled nitric oxide levels (FENO) for clinical applications. Am J Respir Crit Care Med. 2011;184(5):602–615 69. SE Harnan, M Essat, T Gomersall et al. Exhaled nitric oxide in the diagnosis of asthma in aldult: a systematic review. Experimental allergy. 2017 (00) 1-20 (on line) 70. British guideline on the management of asthma (Revised September 2016) 71. Kelly HW. Inhaled corticosteroid dosing: double for nothing? J Allergy Clin Immunol. 2011;128:278- 281. 72. Chauhan BF, Ducharme FM. Addition to inhaled corticosteroids of long-acting beta2- agonists versus anti- leukotrienes for chronic asthma. Cochrane Database Syst Rev. 2014;1:CD003137 73. Kerstjens HA, Casale TB, Bleecker ER, et al. Tiotropium or salmeterol as add-on therapy to inhaled corticosteroids for patients with moderate symptomatic asthma: two replicate, double- blind, placebo-controlled, parallel-group, active- comparator, randomised trials. Lancet Respir Med. 2015;3:367-376. 74. Bateman ED, Kornmann O, Schmidt P, Pivovarova A, Engel M, Fabbri LM. Tiotropium is noninferior to salmeterol in maintaining improved lung function in B16-Arg/Arg patients with asthma. J Allergy Clin Immunol. 2011;128: 315-322. 75. Wechsler ME, Yawn BP, Fuhlbrigge AL, et al. Anticholinergic vs long-acting b-agonist in combination with inhaled corticosteroids in black adults with asthma: the BELT randomized clinical trial. JAMA. 2015;314:1720-1730. 76. Peters SP, Kunselman SJ, Icitovic N, et al. Tiotropium bromide step-up therapy for adults with uncontrolled asthma. N Engl J Med. 2010;363:1715-1726. 77. Kerstjens HA, Engel M, Dahl R, et al. Tiotropium in asthma poorly controlled with standard combination therapy. N Engl J Med. 2012;367:1198e1207 78. Kerstjens HA, Casale TB, Bleecker ER, et al. Tiotropium or salmeterol as add-on therapy to inhaled corticosteroids for patients with moderate symptomatic asthma: two replicate, double- blind, placebo-controlled, parallel-group, active- comparator, randomised trials. Lancet Respir Med. 2015;3:367-376. 79. Fitzpatrick Anne M., Gaston Benjamin M., Erzurum Serpil C., Teague W. Gerald, for the National Institutes of Health/National Heart, Lung, and Blood Institute Severe Asthma Research Program, Features of severe asthma in school-age children: Atopy and increased exhaled nitric oxide, J Allergy Clin Immunol, vol.118, no.6, dec 2006. 80. Fitzpatrick Anne M., Teague W. Gerald, Meyers Deborah A., Peters Stephen P., Li Xingnan, Li Huashi, Wenzel Sally E., Aujla Shean, Castro Mario, Bacharier Leonard B., Gaston Benjamin M., Bleecker Eugene R., Moore Wendy C., for the National Institutes of Health/National Heart, Lung, and Blood Institute Severe Asthma Research Program, Heterogeneity of severe asthma in childhood: Confirmation by cluster analysis of children in the National Institutes of Health/National Heart, Lung, and Blood Institute Severe Asthma Research Program, J Allergy Clin Immunol, vol.127, nr.2, feb 2011 TỔNG QUAN 31 Hô hấp số 14/2018 81. Schatz Michael, Hsu Jin-Wen Y., Zeiger Robert S., Chen Wansu, Dorenbaum Alejandro, Chipps Bradley E., Haselkorn Tmirah, Phenotypes determined by cluster analysis in severe or difficult-to-treat asthma, J Allergy Clim Immunol, vol.133, no.6 , june 2014 82. Jang Won-Nyung, Park In-Su, Choi Chang-Hee, Bauer Siegfried, Harmin Samuel, Sung Chul Seo, Choi Ic Sun, Choung Ji Tae, Yoo Young, Relationships Between Exhaled Nitric Oxide and Atopy Profi les in Children With Asthma, Allergy Asthma Immunol Res. 2013 May; 5(3): 155-161. 83. Mikalsen Ingvild Bruun, Halvorsen Thomas Oymar Knut, Exhaled nitric oxide is related to atopy, but not asthma in adolescents with bronchiolitis in infancy, Mikalsen et al. BMC Pulmonary Medicine 2013, 13:66. 84. Romero Karina M., Robinson Colin L., Baumann Lauren M., Gilman Robert H., Hamilton Robert G., Hansel Nadia N., Checkley William and PURA Study Investigators, Role of exhaled nitric oxide as a predictor of Atopy, Romero et al. Respiratory Research 2013, 14:48 85. Hanh Nguyen-Thi-Bich, Huong Duong-Thi-Ly, Vu Thi Thom và cs. Study of the correlations between fractional exhaled nitric oxide in exhaled breath and atopic status, blood eosinophils, FCER2 mutation, and asthma control in Vietnamese children. Journal of Asthma and Allergy 2016:9 163–170 86. Green RH, Brightling CE, McKenna S, et al. Asthma exacerbations and sputum eosinophil counts: a randomised controlled trial. Lancet 2002; 360: 1715–1721. 87. Pavord ID, Brightling CE, Woltmann G, et al. Non- eosinophilic corticosteroid unresponsive asthma. Lancet 1999; 353: 2213–2214. 88. Woodruff PG, Modrek B, Choy DF, et al. T-helper type 2-driven inflammation defines major subphenotypes of asthma. Am J Respir Crit Care Med 2009; 180: 388–395. 89. Horn BR, Robin ED, Theodore J, et al. Total eosinophil counts in the management of bronchial asthma. N Engl J Med 1975; 292: 1152–1155 90. Miranda C, Busacker A, Balzar S, et al. Distinguishing severe asthma phenotypes: role of age at onset and eosinophilic inflammation. J Allergy Clin Immunol 2004; 113: 101–108. 91. Moffatt MF, Gut IG, Demenais F, et al. A large- scale, consortium-based genomewide association study of asthma. N Engl J Med 2010; 363: 1211– 1221. 92. ten Brinke A, Zwinderman AH, Sterk PJ, et al. Factors associated with persistent airflow limitation in severe asthma. Am J Respir Crit Care Med 2001; 164: 744–748. 93. ten Brinke A, van Dissel JT, Sterk PJ, et al. Persistent airflow limitation in adult-onset nonatopic asthma is associated with serologic evidence of Chlamydia pneumoniae infection. J Allergy Clin Immunol 2001; 107: 449–454. 94. Stern DA, Morgan WJ, Halonen M, et al. Wheezing and bronchial hyper-responsiveness in early childhood as predictors of newly diagnosed asthma in early adulthood: a longitudinal birth- cohort study. Lancet 2008; 372: 1058–1064. 95. Ten Brinke A, Zwinderman AH, Sterk PJ, et al. Factors associated with persistent airflow limitation in severe asthma. Am J Respir Crit Care Med 2001;164:744-8. 96. Wenzel SE, Schwartz LB, Langmack EL, et al. Evidence that severe asthma can be divided pathologically into two inflammatory subtypes with distinct physiologic and clinical characteristics. Am J Respir Crit Care Med 1999;160:1001-8. 97. van Veen I, ten Brinke A, Gauw SA, et al. Consistency of sputum eosinophilia in difficult-to- treat asthma: a 5-year follow-up study. J Allergy Clin Immunol 2009;124:615-17 98. Green RH, Brightling CE, McKenna S, et al. Asthma exacerbations and sputum eosinophil counts: a randomised controlled trial. Lancet 2002;360:1715-21. 99. Haldar P, Brightling CE, Hargadon B, et al. Mepolizumab and exacerbations of refractory eosinophilic asthma. N Engl J Med 2009;360:973- 84. 100. Flood-Page P, Menzies-Gow A, Phipps S, et al. Anti-IL-5 treatment reduces deposition of ECM proteins in the bronchial subepithelial basement membrane of mild atopic asthmatics. J Clin Invest 2003;112:1029-36 101. Pavord ID, Brighting CE, Woltmann G, et al. Non- eosinophilic corticosteroid unresponsive asthma. Lancet 1999;353:2213-14. 102. den Otter I, Silva LF, Carvalho AL et al. High- affinity immunoglobulin E receptor expression is increased in large and small airways in fatal asthma. Clin Exp Allergy 2010; 40:1473–81. 103. Strunk RC, Bloomberg GR. Omalizumab for asthma. N Engl J Med 2006; 354:2689–95. 104. Busse W, Corren J, Lanier BQ et al. Omalizumab, anti-IgE recombinant humanized monoclonal antibody, for the treatment of severe allergic asthma. J Allergy Clin Immunol 2001; 108:184–90. TỔNG QUAN 32 Hô hấp số 14/2018 105. Rodrigo GJ, Neffen H, Castro-Rodriguez JA. Efficacy and safety of subcutaneous omalizumab vs placebo as add-on therapy to corticosteroids for children and adults with asthma: a systematic review. Chest 2011; 139: 28–35. 106. Soler M, Matz J, Townley R et al. The anti-IgE antibody omalizumab reduces exacerbations and steroid requirement in allergic asthmatics. Eur Respir J 2001; 18:254–61. 107. Corren J, Lemanske RF, Hanania NA et al. Lebrikizumab treatment in adults with asthma. N Engl J Med 2011; 365:1088–98. Epub 2011 Aug 3. 108. Rackemann FM. A working classification of asthma. Am J Med 1947; 3:601–6. 109. Hashimoto S, Bel EH. Current treatment of severe asthma. Clin Exp Allergy 2012;42:693-705. 110. Ragab S, Scadding GK, Lund VJ, Saleh H. Treatment of chronic rhinosinusitis and its effects on asthma. Eur Respir J 2006; 28:68–74. 111. Dahlen B. Treatment of aspirin-intolerant asthma with antileukotrienes. Am J Respir Crit Care Med 2000; 161:S137–41. 112. Dahlen SE, Malmstrom K, Nizankowska E et al. Improvement of aspirin-intolerant asthma by montelukast, a leukotriene antagonist: a randomized, double-blind, placebocontrolled trial. Am J Respir Crit Care Med 2002; 165:9–14. 113. Barnes PJ. Theophylline: new perspectives for an old drug. Am J Respir Crit Care Med 2003; 167:813–8. 114. Romagnoli I, Laveneziana P, Clini EM et al. Role of hyperinflation vs. Deflation on dyspnoea in severely to extremely obese subjects. Acta Physiol (Oxf) 2008; 193:393–402. 115. 164 Shore SA. Obesity, airway hyperresponsiveness, and inflammation. J Appl Physiol 2010; 108:735–43. 116. Sabate JM, Jouet P, Merrouche M et al. Gastroesophageal reflux in patients with morbid obesity: a role of obstructive sleep apnea syndrome? Obes Surg 2008; 18:1479–84. 117. Little SA, MacLeod KJ, Chalmers GW, Love JG, McSharry C, Thomson NC. Association of forced expiratory volume with disease duration and sputum neutrophils in chronic asthma. Am J Med 2002; 112:446–52. 118. Busacker A, Newell JD Jr, Keefe T et al. A multivariate analysis of risk factors for the air- trapping asthmatic phenotype as measured by quantitative CT analysis. Chest 2009; 135:48–56. 119. Gupta S, Siddiqui S, Haldar P et al. Qualitative analysis of high-resolution CT scans in severe asthma. Chest 2009; 136:1521–8. 120. Johnston SL, Martin RJ. Chlamydophila pneumoniae and Mycoplasma pneumoniae: a role in asthma pathogenesis? Am J Respir Crit Care Med 2005; 172:1078–89. 121. Reiter J, Demirel N, Mendy A, et al. Macrolides for the long-term management of asthma: a meta- analysis of randomized clinical trials. Allergy. 2013;68: 1040-1049. 122. Wong EHC, Porter JD, Edwards MR, Johnston SL. The role of macrolides in asthma: current evidence and future directions. Lancet Respir Med. 2014;2: 657-670. 123. Kraft M, Cassell GH, Pak J, Martin RJ. Mycoplasma pneumoniae and Chlamydia pneumoniae in asthma: effect of clarithromycin. Chest. 2002;121: 1782-1788. 124. Richeldi L, Ferrara G, Fabbri LM, Lasserson TJ, Gibson PG. Macrolides for chronic asthma. Cochrane Database Syst Rev. 2005;4:CD002997 125. Simpson, J. L., H. Powell, M. J. Boyle, R. J. Scott, and P. G. Gibson. 2008. Clarithromycin targets neutrophilic airway inflammation in refractory asthma. Am. J. Respir. Crit. Care Med. 177:148– 155. 126. Mohamed S. Al-Hajjaj. Difficult-to-treat asthma, is it really difficult? Ann Thorac Med. 2011 Jan-Mar; 6(1): 1–2. 127. N.J. Roberts, D.S. Robinson, M.R. Partridge. How is difficult asthma managed?. Eur Respir J 2006; 28: 968–973
File đính kèm:
hen_nang_kho_dieu_tri_va_mot_so_de_xuat_thuc_hanh_o_viet_nam.pdf

