Hen không dị ứng ở trẻ em

Hen, bệnh lý mạn tính thường gặp nhất ở trẻ em, là tình trạng viêm mạn tính của đường thở. Từ lâu, hen được xem như là bệnh dị ứng nhưng từ năm 1918, Francis Rackemann đã nhận xét thấy rằng hầu hết bệnh nhân của ông không phải là dị ứng. Ông đã đề nghị chia thành hen ngoại sinh (hen dị ứng) và hen nội tại (hen không dị ứng).

- Hen ngoại sinh: F. Rackemann mô tả các bệnh nhân hen gây ra do hít hay nuốt phải chất “lạ” (sau này gọi là “dị nguyên”) từ “bên ngoài cơ thể”. Một số chất này có trong không khí như lông ngựa, phấn hoa của cây, long thú, và một số có trong thức ăn như trứng, cá, ngũ cốc, quả,

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Hen không dị ứng ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hen không dị ứng ở trẻ em

Hen không dị ứng ở trẻ em
 Tổng quan
31
Hô hấp số 16/2018
MỞ ĐẦU
Hen, bệnh lý mạn tính thường gặp nhất ở trẻ em, 
là tình trạng viêm mạn tính của đường thở. Từ 
lâu, hen được xem như là bệnh dị ứng nhưng từ 
năm 1918, Francis Rackemann đã nhận xét thấy 
rằng hầu hết bệnh nhân của ông không phải là dị 
ứng. Ông đã đề nghị chia thành hen ngoại sinh 
(hen dị ứng) và hen nội tại (hen không dị ứng).
- Hen ngoại sinh: F. Rackemann mô tả các 
bệnh nhân hen gây ra do hít hay nuốt phải chất 
“lạ” (sau này gọi là “dị nguyên”) từ “bên ngoài 
cơ thể”. Một số chất này có trong không khí như 
lông ngựa, phấn hoa của cây, long thú, và một số 
có trong thức ăn như trứng, cá, ngũ cốc, quả, 
- Hen nội sinh: được F. Rackemann mô tả 
như hen gây ra bởi các chất có từ “bên trong cơ 
thể”. Các bệnh nhân này thường có test dị ứng âm 
tính và do đó không phải là dị ứng và không có lợi 
khi điều trị bằng các thuốc chống dị ứng. 
Hiện nay, hen được phân loại thành hen dị 
ứng (atopic asthma) và hen không dị ứng (non-
atopic asthma), tuy nhiên, vẫn có sự trùng lắp 
giữa 2 kiểu hình này. Qua nhiều nghiên cứu dịch 
tễ, cơ địa dị ứng vẫn được xem là yếu tố nguy cơ 
của hen, tuy nhiên tỷ lệ hen dị ứng ở trẻ em chỉ 
được ước tính vào khoảng 38%, thay đổi từ 25-
63%. Như vậy, hen không dị ứng chiếm một tỷ lệ 
không nhỏ và là một kiểu hình hen cần được đánh 
giá, xử trí phù hợp. 
HEN DỊ ỨNG VÀ HEN KHÔNG DỊ ỨNG
Cơ địa dị ứng: 
Cơ địa dị ứng (atopy) là danh từ có nguồn gốc 
từ thuật ngữ Hy Lạp “atopia”, có nghĩa là từ bên 
ngoài. Hiện nay, người ta xem cơ địa dị ứng là 
tình trạng mẫn cảm di truyền gây ra phản ứng 
dị ứng (hen, viêm mũi - kết mạc dị ứng, chàm) 
và sản xuất lượng IgE cao khi phơi nhiễm với dị 
nguyên môi trường, đặc biệt là qua đường hít hay 
đường tiêu hóa. Cơ địa dị ứng được xác định bởi 
test lẩy da dương tính (nghĩa là bất kỳ test lẩy da 
có đường kính vùng phản ứng ≥3 mm) hay IgE 
đặc hiệu (IgEs) dương tính. 
Nhiều nghiên cứu dịch tễ cho thấy có sự kết 
hợp chặt chẽ giữa cơ địa dị ứng và khò khè /hen ở 
trẻ em, trong đó cơ địa dị ứng được xem là yếu tố 
nguy cơ của hen. Theo kết quả của một theo dõi 
trong một quần thể lớn, ở những người từ 6 đến 
59 tuổi, của Third National Health and Nutrition 
Examination Survey – Hoa Kỳ, 56.3% các trường 
hợp hen ở Hoa Kỳ là do dị ứng. Một nghiên cứu 
đoàn hệ từ lúc sinh dựa trên cộng đồng trong 14 
năm của Australia cho thấy tỷ lệ hen kết hợp với 
cơ địa dị ứng là khoảng 52% (2). Các nghiên cứu 
đoàn hệ đã mang lại những bằng chứng của 3 kiểu 
hình khò khè ở trẻ em cũng như vai trò của cơ địa 
dị ứng trong hen trẻ em (1,3,4) : 1) Khò khè thoáng 
qua có kết hợp với suy giảm chức năng phổi trong 
giai đoạn đầu đời và nhiễm trùng hô hấp dưới, và 
có thể phục hồi lúc 6 tuổi. 2) Khò khè không có 
cơ địa dị ứng xảy ra trong 3 năm đầu đời, có kết 
hợp với nhiễm trùng hô hấp dưới, có thể dai dẳng 
khi trẻ quá 6 tuổi và không kết hợp với cơ địa dị 
ứng. 3) Khò khè có cơ địa dị ứng khởi phát trước 
6 tuổi, có thể dai dẳng đến tuổi người lớn, kết hợp 
chặt chẽ với cơ địa dị ứng và có diễn tiến lâm 
sàng nặng hơn. 
Hen dị ứng và hen không dị ứng (2,7,9,10,13,18): 
Hen dị ứng hay hen không dị ứng được xác định 
dựa trên có hay không cơ địa dị ứng. Hen dị ứng 
được định nghĩa là hen có kết hợp với cơ địa dị 
HEN KHÔNG DỊ ỨNG Ở TRẺ EM
TS.BS TRẦN ANH TUẤN
BV Nhi Đồng 1, TP HCM
PCT Hội Hô hấp TP HCM
 Tổng quan
32
Hô hấp số 16/2018
ứng, tính mẫn cảm di truyền với dị nguyên, và với 
hiện tượng tăng tính phản ứng phế quản, dai dẳng 
đến tuổi người lớn. Hen dị ứng đặc trưng bởi hiện 
tượng viêm đường thở liên quan với eosinophil 
kết hợp với hiện tượng mẫn cảm qua trung gian 
IgE với các dị nguyên khác nhau. Trên thực hành 
lâm sàng, hen dị ứng được phát hiện bằng test 
lẩy da dương tính hay định lượng IgEs. Đây là 
kiểu hình hen thường gặp nhất ở trẻ em, thường 
có khởi phát sớm (trước 6 tuổi). 
Hen không dị ứng được định nghĩa như tình 
trạng tắc nghẽn đường dẫn khí tái phát, bắt đầu 
trong 2-3 năm đầu đời, theo sau bệnh lý đường hô 
hấp dưới gây ra bởi sự lan tràn của các tác nhân 
nhiễm trùng, hầu hết hồi phục khi trẻ đến 13 tuổi. 
Trên thực hành lâm sàng, xem là hen không dị 
ứng khi test lẩy da, định lượng IgEs âm tính. Hen 
không dị ứng có khởi phát trễ hơn so với hen dị 
ứng.
Tỷ lệ hen dị ứng ở trẻ em được ước tính 
vào khoảng 38% (từ 25-63%), hen không dị ứng 
vào khoảng 62% (từ 37-75%). Theo nghiên cứu 
ISSAC phase II, tỷ lệ hen dị ứng thay đổi tùy theo 
mức độ phát triển kinh tế của một nước, 40.7% ở 
các nước giàu và 20.3% ở các nước không giàu. 
Ở châu Mỹ Latin, hen không dị ứng là kiểu hình 
phổ biến nhất ở trẻ em, trong khi hen dị ứng chỉ 
chiếm tỷ lệ 11% (10) . 
NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ HEN KHÔNG DỊ 
ỨNG
Nguyên nhân: 
Trước đây, F. Rackemann tin rằng nguyên nhân 
thường gặp của hen không dị ứng là nhiễm lạnh 
và điều trị chỉ đơn giản là tránh nhiễm lạnh. Ngoài 
ra, ông còn gợi ý là nhiễm trùng xoang, viêm 
xoang mạn tính, nhiễm trùng răng, nướu răng, 
và nhiễm trùng họng có thể là nguyên nhân gây 
ra hen. Các nguyên nhân có thể khác gồm polyp 
mũi, kích thích dạ dày ruột, yếu tố thần kinh. 
Hiện nay hen không dị ứng thường được xem 
là hen gây ra bởi các nguyên nhân khác dị nguyên, 
và bao gồm các yếu tố bên ngoài như hóa chất có 
trong thuốc lá, khói gỗ, độ ẩm cao, khí lạnh, chất 
có mùi nồng, virus và vi khuẩn, cũng như các yếu 
tố nội tại như trào ngược dạ dày – thực quản, cảm 
xúc mạnh (khóc và cười), gắng sức, lo âu, stress. 
Các nguyên nhân khác được kể đến là hen tiền 
kinh nguyệt, hen nhạy cảm aspirin, hen dạng ho, 
hen ở bệnh nhân béo phì, hen do viêm mũi thúc 
đẩy, hen liên quan với thiếu vitamin D, hen nghề 
nghiệp, hen do yếu tố tâm thần thúc đẩy, 
Giải phẫu bệnh - cơ chế bệnh sinh (5,7,9,14,15,19): 
Về phương diện giải phẫu bệnh học, tuy có một số 
khác biệt nhưng nói chung tổn thương đường dẫn 
khí điển hình của hen không dị ứng cũng tương 
tự như hen dị ứng. Một số nghiên cứu khác ghi 
nhận số lượng eosinophil ở bệnh nhân hen dị ứng 
tăng cao hơn hen không dị ứng khi nghiên cứu 
bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Eosinophil 
hoạt hóa cũng nhiều hơn ở bệnh nhân hen dị 
ứng. Tuy nhiên, có các nghiên cứu khác lại ghi 
nhận eosinophil ở niêm mạc phế quản của bệnh 
nhân hen không dị ứng nhiều hơn hen dị ứng và 
điều này có liên quan với mức độ nặng của bệnh. 
Một nghiên cứu khác lại ghi nhận sự gia tăng 
của neutrophil ở biểu mô đường hô hấp ở bệnh 
nhân hen không dị ứng khi so sánh với bệnh nhân 
hen dị ứng và nhóm chứng không mắc bệnh hen. 
Nhiều đặc điểm trong cơ chế bệnh sinh của hen 
không dị ứng vẫn chưa hoàn toàn được biết rõ, 
đặc biệt là vai trò của IgE. 
Tăng phản ứng đường thở được xem là chỉ 
điểm của hen, cũng được quan sát thấy trong hen 
không dị ứng và độc lập với cơ địa dị ứng. Tình 
trạng tăng phản ứng đường thở này có thể dẫn 
đến các triệu chứng và bằng chứng lâm sàng của 
hen không dị ứng ở trẻ em. Tuy nhiên, trong hen 
không dị ứng, viêm và co thắt phế quản không 
do phơi nhiễm với dị nguyên mà liên quan với 
các điều kiện khác như nhiễm virus, lo âu, stress, 
không khí khô, không khí lạnh, tăng thông khí, 
gắng sức, ô nhiễm, khói thuốc lá, hít phải hóa 
chất. Khi không có cơ địa dị ứng, các dị nguyên 
cũng có thể kích hoạt sản xuất IgE tại chỗ. Các dị 
nguyên như thế, cũng tương tự như trong hen dị 
 Tổng quan
33
Hô hấp số 16/2018
ứng, đưa đến phóng thích hóa chất trung gian của 
phản ứng viêm, gây ra co thắt phế quản cấp tính 
và hen mạn tính. Cũng có quan niệm cho rằng hen 
không dị ứng có thể là một thể của tự miễn, được 
kích hoạt bởi nhiễm virus giống như trên thực tế 
cơn hen thường khởi phát sau một cảm lạnh. 
Hình 1. Cơ chế bệnh sinh của hen không dị ứng.
Điều này được ủng hộ bởi các quan sát mới 
đây là bệnh nhân hen không dị ứng thường có test 
lẩy da huyết thanh tự thân (autologous serum) 
dương tính, có bằng chứng hiện diện của các yếu 
tố giải phóng histamine lưu hành và tự kháng thể 
ANA dương tính. Cũng có thể là bệnh nhân hen 
không dị ứng sản xuất IgE chống lại dị nguyên 
nào đó mà người ta “chưa phát hiện được” hay 
“chưa xác định được”. 
Yếu tố nguy cơ của hen không dị ứng (9,10,12,13,18): 
Theo kết quả phân tích gộp từ 43 nghiên cứu khảo 
sát yếu tố nguy cơ của hen không dị ứng, chỉ có 
3 yếu tố nguy cơ có kết hợp chặt chẽ, chắc chắn 
với hen không dị ứng là tiền sử gia đình hen, viêm 
mũi dị ứng hay chàm, nhiễm trùng hô hấp dưới ở 
trẻ em. Các yếu tố nguy cơ khác gồm dư cân/béo 
phì, yếu tố tâm lý hay xã hội. Theo Von Mutius và 
cs, trẻ bị nhiễm trùng hô hấp sớm có nguy cơ hen 
không dị ứng cao hơn. 
ĐẶC ĐIỂM CỦA HEN KHÔNG DỊ ỨNG 
(7,9,13,14,17)
Nieves qua một nghiên cứu trên một cộng đồng 
tương đối lớn với 751 bệnh nhân hen, đã nhận 
thấy rằng mặc dù có những điểm tương tự về giải 
phẫu bệnh lý, miễn dịch, nhưng hen dị ứng và hen 
không dị ứng vẫn là các kiểu hình lâm sàng khác 
biệt nhau. Hen không dị ứng có khởi phát trễ hơn 
so với hen dị ứng. Tuổi của bệnh nhân, tuổi khởi 
phát khò khè, tỷ lệ nữ/nam trong hen không dị 
ứng cao hơn hen dị ứng. Trong hen không dị ứng, 
viêm và co thắt phế quản không do phơi nhiễm 
với dị nguyên mà liên quan với các điều kiện khác 
như nhiễm virus, lo âu, stress, không khí khô / 
lạnh, tăng thông khí, gắng sức, ô nhiễm, khói 
thuốc lá, hít phải hóa chất. Clough và cs nhận xét 
thấy trẻ 7-8 tuổi ho và khò khè có cơ địa dị ứng 
có FEV
1
 thấp hơn, tăng tính phản ứng của phế 
quản cao hơn, lưu lượng đỉnh dao động lớn hơn, 
mức độ nặng của các triệu chứng tăng hơn là ở trẻ 
không có cơ địa dị ứng. Ponsonby cũng thấy rằng 
trẻ 8-10 tuổi có cơ địa dị ứng có tần suất khò khè 
và nhập viện cao hơn là ở trẻ khò khè không có 
cơ địa dị ứng. Các tác giả cũng nhận thấy trẻ khò 
khè có cơ địa dị ứng có tăng tính phản ứng phế 
quản lớn hơn và nghẽn tắc luồng khí nhiều hơn. 
Ở những trẻ này, mức độ nặng của bệnh và mức 
điều trị có thể cao hơn. 
Trong một nghiên cứu đoàn hệ tại Canada 
(SAGE), Pitt và cs ghi nhận là hen không dị ứng 
lại ít gặp hơn hen dị ứng (7.8% so với 22.4%). Trị 
số trung bình của FEV
1
% không khác biệt giữa 2 
nhóm (87.8% so với 87.3%). Không có sự khác 
biệt có ý nghĩa về số đợt khò khè trong năm qua 
(2.3 so với 2.7 p = 0.426) và số đợt rối loạn giấc 
ngủ do khò khè (0.7 so với 0.5 p = 0.280) (14).
Tóm lại, nhìn chung không có sự khác biệt 
lớn về bệnh tật, nhập viện và chuyển chuyên khoa 
do khò khè giữa hen không dị ứng và hen dị ứng. 
Tuy nhiên, có sự khác biệt về mức độ điều trị giữa 
hen không dị ứng và hen dị ứng. Các tác giả cũng 
nhận thấy trẻ khò khè/hen có cơ địa dị ứng có 
mức độ nặng của bệnh và mức điều trị có thể cao 
hơn. 
ĐIỀU TRỊ HEN KHÔNG DỊ ỨNG
Từ năm 1918, Francis Rackemann cho rằng điều 
trị thích hợp cho hen không dị ứng có thể là điều 
trị nhiễm trùng, hay tránh nhiễm trùng. Hiện nay, 
các hướng dẫn điều trị hiện hành đều xem ICS là 
lựa chọn hàng đầu, đặc biệt trong hen dị ứng, do 
 Tổng quan
34
Hô hấp số 16/2018
có hiệu quả, dung nạp tốt, ít tác dụng phụ. Trong 
hen không dị ứng, ICS vẫn được xem là căn bản 
trong điều trị dù bệnh nhân không có cơ địa dị ứng 
và có nhiều tố góp phần khác trong bệnh sinh hen 
mà không phải là dị nguyên như trong hen dị ứng. 
Thậm chí, ICS còn được xem là biện pháp điều 
trị không cần phân biệt kiểu hình hen. Tuy nhiên, 
hiệu quả của ICS trong hen không dị ứng vẫn có 
thể có những hạn chế (như trong hen sau nhiễm 
virus, hen liên quan với aspirine,). Trong những 
trường hợp này các điều trị khác như đối kháng 
thụ thể leukotriene (LTRA), kháng cholinergic 
tác dụng kéo dài (LAMA), theophylline liều thấp 
và cả các thuốc mới hơn (như omalizumab, các 
biện pháp điều trị phân tử) sẽ là các điều trị thay 
thế được nghiên cứu và áp dụng. 
Hiện vẫn có những bàn cãi về yếu tố giúp dự 
đoán đáp ứng với ICS, montelukast hay các thuốc 
điều trị khác. Theo Castro-Rodriguez JA (2009), 
cơ địa dị ứng không phải là yếu tố dự đoán chắc 
chắn cho đáp ứng với ICS. Bên cạnh đó, do hen 
không dị ứng có thể có nhiều nguyên nhân đặc 
biệt khác nhau, nên trên thực hành lâm sàng cần 
lưu ý phát hiện các yếu tố này để có cách xử trí 
chuyên biệt, phù hợp. Ví dụ trong hen gắng sức, 
bên cạnh việc dùng thuốc, còn phải áp dụng các 
biện pháp không dùng thuốc phù hợp như chọn 
lựa hình thức vận động – gắng sức phù hợp, thực 
hiện giai đoạn “làm nóng”, “làm nguội” đúng 
mức, Trong hen ở bệnh nhân béo phì, mọi biện 
pháp điều trị phải kết hợp với kế hoạch giảm cân. 
Việc điều trị theo kiểu hình (hen dị ứng hay 
hen không dị ứng) đã được các hướng dẫn điều 
trị của GINA gần đây nêu ra nhưng vẫn chưa có 
những hướng dẫn cụ thể. Đồng thuận về điều 
trị hen trẻ em PRACTALL (2008), ERS (2008), 
ICON (2013) có những hướng dẫn cụ thể hơn cho 
một số trường hợp hen không dị ứng nhất là hen 
khởi phát do nhiễm virus. 
Vấn đề sử dụng kháng sinh trong hen không 
dị ứng cũng là vấn đề được quan tâm do nhiễm 
trùng là một trong những nguyên nhân quan trọng 
của hen không dị ứng. Tuy nhiên, kết quả của 
nhiều nghiên cứu về việc sử dụng kháng sinh, đặc 
biệt là nhóm macrolides trong điều trị hen không 
cho thấy bằng chứng rõ rệt (16). 
Sau đây là một số hướng dẫn điều trị cho một 
số trường hợp hen không dị ứng:
Hen khởi phát do nhiễm virus:
Vai trò của ICS trong phòng ngừa hen khởi phát 
do nhiễm virus ở trẻ nhỏ còn hạn chế và bàn cãi. 
Theo Thư viện Cochrane, ICS liều cao từng đợt 
có hiệu quả một phần trong điều trị khò khè do 
virus nhẹ ở trẻ em nhưng không có bằng chứng 
ủng hộ điều trị ICS liều thấp trong phòng ngừa 
lâu dài và điều trị cơn hen/khò khè do virus nhẹ (8). 
Montelukast được xem là một điều trị thích hợp 
cho hen/khò khè sau nhiễm virus khi có những 
bằng chứng về gia tăng nồng độ leukotriene trong 
dịch tiết phế quản ở bệnh nhân này cũng như có 
những bằng chứng lâm sàng ủng hộ. 
Theo phân tích gộp của Fitzerald và GINA (6): 
- Ở trẻ 2-14 tuổi (85% <6 tuổi) có kiểu hình 
hen khởi phát do virus, điều trị Montelukast 10 
ngày, giảm khám cấp cứu 45%, giảm đi khám tại 
tất cả cơ sở y tế 23%, giảm thời gian trẻ nghỉ học/
cha mẹ nghỉ làm 33%. 
- Ở trẻ 2-5 tuổi có kiểu hình hen do virus tái 
phát thường xuyên, điều trị montelukast hàng 
ngày trong 12 tháng so với placebo giúp giảm tần 
suất cơn hen cấp 31%, thời gian xuất hiện cơn 
khò khè đầu tiên chậm hơn và ít cần dùng ICS 
phòng ngừa hen hơn, tuy không giảm số lần nhập 
viện, nhu cầu dùng prednisone hay ngày không 
có triệu chứng. 
Theo đồng thuận PRACTALL (2008), ERS 
(2008) (1,3,4): Xác định kiểu hình khò khè từng đợt 
(do virus) khi khò khè xảy ra thành từng đợt riêng 
biệt, lâm sàng có bằng chứng kết hợp với cảm 
lạnh do virus, không có khò khè giữa các đợt và 
các cơn lặp đi lặp lại thành khuynh hướng theo 
mùa. Điều trị hen / khò khè do virus được khuyến 
cáo: 1) Có thể dùng Montelukast bắt đầu khi có 
triệu chứng hen hay khi có triệu chứng đầu tiên 
của viêm hô hấp trên ở trẻ hen do virus. Dùng 
 Tổng quan
35
Hô hấp số 16/2018
buổi tối khi đi ngủ ít nhất 7 ngày hoặc cho đến 
khi hết triệu chứng 48 giờ, tối đa 20 ngày. 2) Khi 
hen do virus xảy ra thường xuyên hơn (trên 1 lần/
tháng), cơn hen nặng, khuyến cáo sử dụng ICS 
hơn là Montelukast. 
Hen gắng sức: Theo GINA (6) 
- Nếu chỉ có triệu chứng trong hay sau gắng 
sức, và không có yếu tố nguy cơ cơn kịch phát khác: 
SABA hít trước khi gắng sức là đủ (Chứng cứ A). 
- Các thuốc LTRA (đặc biệt là Montelukast), 
chromones cũng được xem là điều trị thay thế 
(Chứng cứ A).
- Bệnh nhân có triệu chứng hen không liên 
quan với gắng sức hay có yếu tố nguy cơ lên cơn, 
khuyến cáo điều trị phòng ngừa bằng ICS hay 
LTRA do giúp làm giảm tình trạng co thắt phế 
quản khi gắng sức. 
- Ở bệnh nhân hen được kiểm soát tốt nhưng 
vẫn có co thắt phế quản khi gắng sức, có thể dùng 
SABA hay LTRA trước gắng sức (Chứng cứ A). 
Hen liên quan đến aspirine (AERD):
Bệnh nhân cần tránh dùng aspirin, NSAID, các 
thuốc ức chế cyclooxygenase-1 (COX-1) cũng 
như xem xét chỉ định giải mẫn cảm. ICS vẫn là 
điều trị chính cho AERD, nhưng đôi khi phải 
dung phối hợp thêm với corticoid uống (OCS). 
LTRA cũng có thể có ích trong điều trị (Chứng 
cứ B) (6).
Hen ở bệnh nhân béo phì:
Cũng như các bệnh nhân hen khác, ICS cũng là 
biện pháp điều trị chính cho bệnh nhân hen kết 
hợp với béo phì (Chứng cứ B), mặc dù đáp ứng 
với ICS có giảm ở bệnh nhân béo phì. Giảm cân 
phải được bao gồm trong chiến lược điều trị bệnh 
nhân hen béo phì (Chứng cứ B). Việc tăng cường 
gắng sức đơn thuần dường như không đủ hiệu quả 
(Chứng cứ B). Giảm cân giúp cải thiện kiểm soát 
hen, chức năng phổi, sức khỏe nói chung, chất 
lượng cuộc sống và giảm nhu cầu sử dụng thuốc 
ở bệnh nhân béo phì (6) . 
Tài liệu tham khảo 
1. Bacharier LB, Boner A, Carlsen KH (2008). 
Diagnosis and treatment of asthma in childhood: 
a PRACTALL consensus report. Allergy; 63:5-34.
2. Comberiati P, Di Cicco ME, D’Elios S and 
Peroni DG (2017) How Much Asthma Is Atopic 
in Children? Front. Pediatr. 5:122. doi: 10.3389/
fped.2017.00122
3. ERS Task Force (2008). Definition, assessment 
and treatment of wheezing disorders in preschool 
children: an evidence-based approach. Eur 
Respir J; 32: 1096–1110. DOI: 10.1183/ 
09031936.00002108.
4. ERS Task Force (2014). Classification and 
pharmacological treatment of preschool wheezing: 
changes since 2008. Eur Respir J; 43: 1172–1177 
| DOI: 10.1183/09031936.00199913.
5. Gaga M, Zervas E, Humbert M (2016). Targeting 
immunoglobulin E in non-atopic asthma: crossing 
the red line?. Eur Respir J 2016; 48: 1538–1540 | 
DOI: 10.1183/13993003.01797-2016
6. Global Initiative for Asthma (2017), Global Strategy 
for Asthma Management and Prevention.
7. Kukhtinova NV, Kondyurina EG, Lentze MJ 
(2012). Atopic and Nonatopic Asthma in Children: 
Two Different Diseases?. International Journal of 
Biomedicine, 2(3): 214-221
8. McKean MC, Ducharme F (2009), Inhaled steroids 
for episodic viral wheeze of childhood. Cochrane 
Database of Systematic Reviews 2000, Issue 1. 
Art. No.: CD001107. DOI: 10.1002/14651858.
CD001107.
9. Kurukulaaratchy RJ, Fenn M, Matthews S (2004), 
Characterisation of atopic and non-atopic wheeze 
in 10 year old children. Thorax 2004;59:563–568. 
doi: 10.1136/thx.2003.010462
10. Moncayo AL, Vaca M, Oviedo G (2010). Risk 
factors for atopic and non-atopic asthma in a rural 
area of Ecuador. Thorax; 65:409e416. doi:10.1136/
thx.2009.126490
11. Papadopoulos NG, Arakawa H, Carlsen KH (2012). 
International Consensus on Pediatric Asthma. 
Allergy; DOI: 10.1111/j.1398-9995.2012.02865.x 
(epub June 15, 2012).
12. Pekkanen J, Lampi J, Hartikainen AL (2009). 
Comparing Risk Factors of Atopic and Non-
 Tổng quan
36
Hô hấp số 16/2018
Atopic Asthma May Lead to Misleading 
Conclusions. Epidemiology: November 2009 
- Volume 20 - Issue 6 - p S40, doi: 10.1097/01.
ede.0000362299.17208.27
13. Pekkanen J, Lampi J, Genuneit J (2012). Analyzing 
atopic and non-atopic asthma. Eur J Epidemiol, 
(4):281-6. doi: 10.1007/s10654-012-9649-y.
14. Pitt J, Becker AB, Kozyrskyj A (2010) Characteristics 
of atopic asthma and nonatopic asthma in the 
Study of Asthma, Genes and the Environment 
(SAGE) Cohort at 11-13 years. Allergy, Asthma & 
Clinical Immunology, 6(Suppl 3):P6
15. Prathap Pillai, Chris J. Corrigan, and Sun 
Ying (2011). Airway Epithelium in Atopic and 
Nonatopic Asthma: Similarities and Differences. 
ISRN Allergy, Article ID 195846, 7 pages, 
doi:10.5402/2011/195846
16. Richeldi L, Ferrara G, Fabbri L (2009). Macrolides 
for chronic asthma. Cochrane Database of 
Systematic Reviews 2005, Issue 4. Art. No.: 
CD002997. DOI: 10.1002/14651858.CD002997.
pub3.
17. Simons E, Brosnan J, Wood R (2003). Symptoms 
in Atopic and Non-atopic Children with Asthma. J 
Allergy Clin Immunol, S160. 
18. Strina A, Barreto ML, Cooper PJ (2014) Risk 
factors for non-atopic asthma/wheeze in children 
and adolescents: a systematic review. Emerging 
Themes in Epidemiology, 11:5
19. Turato G, Barbato A, Baraldo S (2008), Nonatopic 
Children with Multitrigger Wheezing Have Airway 
Pathology Comparable to Atopic Asthma. Am J 
Respir Crit Care Med Vol 178. pp 476–482
20. Wennergren G, Kristjánsson S (2012). Treatment of 
infant and preschool asthma. In: Pediatric Asthma. 
Eur Respir Monogr; 56: 188-198. Copyright ERS 
2012. DOI: 10.1183/1025448x.10017910.

File đính kèm:

  • pdfhen_khong_di_ung_o_tre_em.pdf