Hen không dị ứng ở trẻ em
Hen, bệnh lý mạn tính thường gặp nhất ở trẻ em, là tình trạng viêm mạn tính của đường thở. Từ lâu, hen được xem như là bệnh dị ứng nhưng từ năm 1918, Francis Rackemann đã nhận xét thấy rằng hầu hết bệnh nhân của ông không phải là dị ứng. Ông đã đề nghị chia thành hen ngoại sinh (hen dị ứng) và hen nội tại (hen không dị ứng).
- Hen ngoại sinh: F. Rackemann mô tả các bệnh nhân hen gây ra do hít hay nuốt phải chất “lạ” (sau này gọi là “dị nguyên”) từ “bên ngoài cơ thể”. Một số chất này có trong không khí như lông ngựa, phấn hoa của cây, long thú, và một số có trong thức ăn như trứng, cá, ngũ cốc, quả,
Bạn đang xem tài liệu "Hen không dị ứng ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hen không dị ứng ở trẻ em
Tổng quan 31 Hô hấp số 16/2018 MỞ ĐẦU Hen, bệnh lý mạn tính thường gặp nhất ở trẻ em, là tình trạng viêm mạn tính của đường thở. Từ lâu, hen được xem như là bệnh dị ứng nhưng từ năm 1918, Francis Rackemann đã nhận xét thấy rằng hầu hết bệnh nhân của ông không phải là dị ứng. Ông đã đề nghị chia thành hen ngoại sinh (hen dị ứng) và hen nội tại (hen không dị ứng). - Hen ngoại sinh: F. Rackemann mô tả các bệnh nhân hen gây ra do hít hay nuốt phải chất “lạ” (sau này gọi là “dị nguyên”) từ “bên ngoài cơ thể”. Một số chất này có trong không khí như lông ngựa, phấn hoa của cây, long thú, và một số có trong thức ăn như trứng, cá, ngũ cốc, quả, - Hen nội sinh: được F. Rackemann mô tả như hen gây ra bởi các chất có từ “bên trong cơ thể”. Các bệnh nhân này thường có test dị ứng âm tính và do đó không phải là dị ứng và không có lợi khi điều trị bằng các thuốc chống dị ứng. Hiện nay, hen được phân loại thành hen dị ứng (atopic asthma) và hen không dị ứng (non- atopic asthma), tuy nhiên, vẫn có sự trùng lắp giữa 2 kiểu hình này. Qua nhiều nghiên cứu dịch tễ, cơ địa dị ứng vẫn được xem là yếu tố nguy cơ của hen, tuy nhiên tỷ lệ hen dị ứng ở trẻ em chỉ được ước tính vào khoảng 38%, thay đổi từ 25- 63%. Như vậy, hen không dị ứng chiếm một tỷ lệ không nhỏ và là một kiểu hình hen cần được đánh giá, xử trí phù hợp. HEN DỊ ỨNG VÀ HEN KHÔNG DỊ ỨNG Cơ địa dị ứng: Cơ địa dị ứng (atopy) là danh từ có nguồn gốc từ thuật ngữ Hy Lạp “atopia”, có nghĩa là từ bên ngoài. Hiện nay, người ta xem cơ địa dị ứng là tình trạng mẫn cảm di truyền gây ra phản ứng dị ứng (hen, viêm mũi - kết mạc dị ứng, chàm) và sản xuất lượng IgE cao khi phơi nhiễm với dị nguyên môi trường, đặc biệt là qua đường hít hay đường tiêu hóa. Cơ địa dị ứng được xác định bởi test lẩy da dương tính (nghĩa là bất kỳ test lẩy da có đường kính vùng phản ứng ≥3 mm) hay IgE đặc hiệu (IgEs) dương tính. Nhiều nghiên cứu dịch tễ cho thấy có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ địa dị ứng và khò khè /hen ở trẻ em, trong đó cơ địa dị ứng được xem là yếu tố nguy cơ của hen. Theo kết quả của một theo dõi trong một quần thể lớn, ở những người từ 6 đến 59 tuổi, của Third National Health and Nutrition Examination Survey – Hoa Kỳ, 56.3% các trường hợp hen ở Hoa Kỳ là do dị ứng. Một nghiên cứu đoàn hệ từ lúc sinh dựa trên cộng đồng trong 14 năm của Australia cho thấy tỷ lệ hen kết hợp với cơ địa dị ứng là khoảng 52% (2). Các nghiên cứu đoàn hệ đã mang lại những bằng chứng của 3 kiểu hình khò khè ở trẻ em cũng như vai trò của cơ địa dị ứng trong hen trẻ em (1,3,4) : 1) Khò khè thoáng qua có kết hợp với suy giảm chức năng phổi trong giai đoạn đầu đời và nhiễm trùng hô hấp dưới, và có thể phục hồi lúc 6 tuổi. 2) Khò khè không có cơ địa dị ứng xảy ra trong 3 năm đầu đời, có kết hợp với nhiễm trùng hô hấp dưới, có thể dai dẳng khi trẻ quá 6 tuổi và không kết hợp với cơ địa dị ứng. 3) Khò khè có cơ địa dị ứng khởi phát trước 6 tuổi, có thể dai dẳng đến tuổi người lớn, kết hợp chặt chẽ với cơ địa dị ứng và có diễn tiến lâm sàng nặng hơn. Hen dị ứng và hen không dị ứng (2,7,9,10,13,18): Hen dị ứng hay hen không dị ứng được xác định dựa trên có hay không cơ địa dị ứng. Hen dị ứng được định nghĩa là hen có kết hợp với cơ địa dị HEN KHÔNG DỊ ỨNG Ở TRẺ EM TS.BS TRẦN ANH TUẤN BV Nhi Đồng 1, TP HCM PCT Hội Hô hấp TP HCM Tổng quan 32 Hô hấp số 16/2018 ứng, tính mẫn cảm di truyền với dị nguyên, và với hiện tượng tăng tính phản ứng phế quản, dai dẳng đến tuổi người lớn. Hen dị ứng đặc trưng bởi hiện tượng viêm đường thở liên quan với eosinophil kết hợp với hiện tượng mẫn cảm qua trung gian IgE với các dị nguyên khác nhau. Trên thực hành lâm sàng, hen dị ứng được phát hiện bằng test lẩy da dương tính hay định lượng IgEs. Đây là kiểu hình hen thường gặp nhất ở trẻ em, thường có khởi phát sớm (trước 6 tuổi). Hen không dị ứng được định nghĩa như tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí tái phát, bắt đầu trong 2-3 năm đầu đời, theo sau bệnh lý đường hô hấp dưới gây ra bởi sự lan tràn của các tác nhân nhiễm trùng, hầu hết hồi phục khi trẻ đến 13 tuổi. Trên thực hành lâm sàng, xem là hen không dị ứng khi test lẩy da, định lượng IgEs âm tính. Hen không dị ứng có khởi phát trễ hơn so với hen dị ứng. Tỷ lệ hen dị ứng ở trẻ em được ước tính vào khoảng 38% (từ 25-63%), hen không dị ứng vào khoảng 62% (từ 37-75%). Theo nghiên cứu ISSAC phase II, tỷ lệ hen dị ứng thay đổi tùy theo mức độ phát triển kinh tế của một nước, 40.7% ở các nước giàu và 20.3% ở các nước không giàu. Ở châu Mỹ Latin, hen không dị ứng là kiểu hình phổ biến nhất ở trẻ em, trong khi hen dị ứng chỉ chiếm tỷ lệ 11% (10) . NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ HEN KHÔNG DỊ ỨNG Nguyên nhân: Trước đây, F. Rackemann tin rằng nguyên nhân thường gặp của hen không dị ứng là nhiễm lạnh và điều trị chỉ đơn giản là tránh nhiễm lạnh. Ngoài ra, ông còn gợi ý là nhiễm trùng xoang, viêm xoang mạn tính, nhiễm trùng răng, nướu răng, và nhiễm trùng họng có thể là nguyên nhân gây ra hen. Các nguyên nhân có thể khác gồm polyp mũi, kích thích dạ dày ruột, yếu tố thần kinh. Hiện nay hen không dị ứng thường được xem là hen gây ra bởi các nguyên nhân khác dị nguyên, và bao gồm các yếu tố bên ngoài như hóa chất có trong thuốc lá, khói gỗ, độ ẩm cao, khí lạnh, chất có mùi nồng, virus và vi khuẩn, cũng như các yếu tố nội tại như trào ngược dạ dày – thực quản, cảm xúc mạnh (khóc và cười), gắng sức, lo âu, stress. Các nguyên nhân khác được kể đến là hen tiền kinh nguyệt, hen nhạy cảm aspirin, hen dạng ho, hen ở bệnh nhân béo phì, hen do viêm mũi thúc đẩy, hen liên quan với thiếu vitamin D, hen nghề nghiệp, hen do yếu tố tâm thần thúc đẩy, Giải phẫu bệnh - cơ chế bệnh sinh (5,7,9,14,15,19): Về phương diện giải phẫu bệnh học, tuy có một số khác biệt nhưng nói chung tổn thương đường dẫn khí điển hình của hen không dị ứng cũng tương tự như hen dị ứng. Một số nghiên cứu khác ghi nhận số lượng eosinophil ở bệnh nhân hen dị ứng tăng cao hơn hen không dị ứng khi nghiên cứu bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Eosinophil hoạt hóa cũng nhiều hơn ở bệnh nhân hen dị ứng. Tuy nhiên, có các nghiên cứu khác lại ghi nhận eosinophil ở niêm mạc phế quản của bệnh nhân hen không dị ứng nhiều hơn hen dị ứng và điều này có liên quan với mức độ nặng của bệnh. Một nghiên cứu khác lại ghi nhận sự gia tăng của neutrophil ở biểu mô đường hô hấp ở bệnh nhân hen không dị ứng khi so sánh với bệnh nhân hen dị ứng và nhóm chứng không mắc bệnh hen. Nhiều đặc điểm trong cơ chế bệnh sinh của hen không dị ứng vẫn chưa hoàn toàn được biết rõ, đặc biệt là vai trò của IgE. Tăng phản ứng đường thở được xem là chỉ điểm của hen, cũng được quan sát thấy trong hen không dị ứng và độc lập với cơ địa dị ứng. Tình trạng tăng phản ứng đường thở này có thể dẫn đến các triệu chứng và bằng chứng lâm sàng của hen không dị ứng ở trẻ em. Tuy nhiên, trong hen không dị ứng, viêm và co thắt phế quản không do phơi nhiễm với dị nguyên mà liên quan với các điều kiện khác như nhiễm virus, lo âu, stress, không khí khô, không khí lạnh, tăng thông khí, gắng sức, ô nhiễm, khói thuốc lá, hít phải hóa chất. Khi không có cơ địa dị ứng, các dị nguyên cũng có thể kích hoạt sản xuất IgE tại chỗ. Các dị nguyên như thế, cũng tương tự như trong hen dị Tổng quan 33 Hô hấp số 16/2018 ứng, đưa đến phóng thích hóa chất trung gian của phản ứng viêm, gây ra co thắt phế quản cấp tính và hen mạn tính. Cũng có quan niệm cho rằng hen không dị ứng có thể là một thể của tự miễn, được kích hoạt bởi nhiễm virus giống như trên thực tế cơn hen thường khởi phát sau một cảm lạnh. Hình 1. Cơ chế bệnh sinh của hen không dị ứng. Điều này được ủng hộ bởi các quan sát mới đây là bệnh nhân hen không dị ứng thường có test lẩy da huyết thanh tự thân (autologous serum) dương tính, có bằng chứng hiện diện của các yếu tố giải phóng histamine lưu hành và tự kháng thể ANA dương tính. Cũng có thể là bệnh nhân hen không dị ứng sản xuất IgE chống lại dị nguyên nào đó mà người ta “chưa phát hiện được” hay “chưa xác định được”. Yếu tố nguy cơ của hen không dị ứng (9,10,12,13,18): Theo kết quả phân tích gộp từ 43 nghiên cứu khảo sát yếu tố nguy cơ của hen không dị ứng, chỉ có 3 yếu tố nguy cơ có kết hợp chặt chẽ, chắc chắn với hen không dị ứng là tiền sử gia đình hen, viêm mũi dị ứng hay chàm, nhiễm trùng hô hấp dưới ở trẻ em. Các yếu tố nguy cơ khác gồm dư cân/béo phì, yếu tố tâm lý hay xã hội. Theo Von Mutius và cs, trẻ bị nhiễm trùng hô hấp sớm có nguy cơ hen không dị ứng cao hơn. ĐẶC ĐIỂM CỦA HEN KHÔNG DỊ ỨNG (7,9,13,14,17) Nieves qua một nghiên cứu trên một cộng đồng tương đối lớn với 751 bệnh nhân hen, đã nhận thấy rằng mặc dù có những điểm tương tự về giải phẫu bệnh lý, miễn dịch, nhưng hen dị ứng và hen không dị ứng vẫn là các kiểu hình lâm sàng khác biệt nhau. Hen không dị ứng có khởi phát trễ hơn so với hen dị ứng. Tuổi của bệnh nhân, tuổi khởi phát khò khè, tỷ lệ nữ/nam trong hen không dị ứng cao hơn hen dị ứng. Trong hen không dị ứng, viêm và co thắt phế quản không do phơi nhiễm với dị nguyên mà liên quan với các điều kiện khác như nhiễm virus, lo âu, stress, không khí khô / lạnh, tăng thông khí, gắng sức, ô nhiễm, khói thuốc lá, hít phải hóa chất. Clough và cs nhận xét thấy trẻ 7-8 tuổi ho và khò khè có cơ địa dị ứng có FEV 1 thấp hơn, tăng tính phản ứng của phế quản cao hơn, lưu lượng đỉnh dao động lớn hơn, mức độ nặng của các triệu chứng tăng hơn là ở trẻ không có cơ địa dị ứng. Ponsonby cũng thấy rằng trẻ 8-10 tuổi có cơ địa dị ứng có tần suất khò khè và nhập viện cao hơn là ở trẻ khò khè không có cơ địa dị ứng. Các tác giả cũng nhận thấy trẻ khò khè có cơ địa dị ứng có tăng tính phản ứng phế quản lớn hơn và nghẽn tắc luồng khí nhiều hơn. Ở những trẻ này, mức độ nặng của bệnh và mức điều trị có thể cao hơn. Trong một nghiên cứu đoàn hệ tại Canada (SAGE), Pitt và cs ghi nhận là hen không dị ứng lại ít gặp hơn hen dị ứng (7.8% so với 22.4%). Trị số trung bình của FEV 1 % không khác biệt giữa 2 nhóm (87.8% so với 87.3%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về số đợt khò khè trong năm qua (2.3 so với 2.7 p = 0.426) và số đợt rối loạn giấc ngủ do khò khè (0.7 so với 0.5 p = 0.280) (14). Tóm lại, nhìn chung không có sự khác biệt lớn về bệnh tật, nhập viện và chuyển chuyên khoa do khò khè giữa hen không dị ứng và hen dị ứng. Tuy nhiên, có sự khác biệt về mức độ điều trị giữa hen không dị ứng và hen dị ứng. Các tác giả cũng nhận thấy trẻ khò khè/hen có cơ địa dị ứng có mức độ nặng của bệnh và mức điều trị có thể cao hơn. ĐIỀU TRỊ HEN KHÔNG DỊ ỨNG Từ năm 1918, Francis Rackemann cho rằng điều trị thích hợp cho hen không dị ứng có thể là điều trị nhiễm trùng, hay tránh nhiễm trùng. Hiện nay, các hướng dẫn điều trị hiện hành đều xem ICS là lựa chọn hàng đầu, đặc biệt trong hen dị ứng, do Tổng quan 34 Hô hấp số 16/2018 có hiệu quả, dung nạp tốt, ít tác dụng phụ. Trong hen không dị ứng, ICS vẫn được xem là căn bản trong điều trị dù bệnh nhân không có cơ địa dị ứng và có nhiều tố góp phần khác trong bệnh sinh hen mà không phải là dị nguyên như trong hen dị ứng. Thậm chí, ICS còn được xem là biện pháp điều trị không cần phân biệt kiểu hình hen. Tuy nhiên, hiệu quả của ICS trong hen không dị ứng vẫn có thể có những hạn chế (như trong hen sau nhiễm virus, hen liên quan với aspirine,). Trong những trường hợp này các điều trị khác như đối kháng thụ thể leukotriene (LTRA), kháng cholinergic tác dụng kéo dài (LAMA), theophylline liều thấp và cả các thuốc mới hơn (như omalizumab, các biện pháp điều trị phân tử) sẽ là các điều trị thay thế được nghiên cứu và áp dụng. Hiện vẫn có những bàn cãi về yếu tố giúp dự đoán đáp ứng với ICS, montelukast hay các thuốc điều trị khác. Theo Castro-Rodriguez JA (2009), cơ địa dị ứng không phải là yếu tố dự đoán chắc chắn cho đáp ứng với ICS. Bên cạnh đó, do hen không dị ứng có thể có nhiều nguyên nhân đặc biệt khác nhau, nên trên thực hành lâm sàng cần lưu ý phát hiện các yếu tố này để có cách xử trí chuyên biệt, phù hợp. Ví dụ trong hen gắng sức, bên cạnh việc dùng thuốc, còn phải áp dụng các biện pháp không dùng thuốc phù hợp như chọn lựa hình thức vận động – gắng sức phù hợp, thực hiện giai đoạn “làm nóng”, “làm nguội” đúng mức, Trong hen ở bệnh nhân béo phì, mọi biện pháp điều trị phải kết hợp với kế hoạch giảm cân. Việc điều trị theo kiểu hình (hen dị ứng hay hen không dị ứng) đã được các hướng dẫn điều trị của GINA gần đây nêu ra nhưng vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể. Đồng thuận về điều trị hen trẻ em PRACTALL (2008), ERS (2008), ICON (2013) có những hướng dẫn cụ thể hơn cho một số trường hợp hen không dị ứng nhất là hen khởi phát do nhiễm virus. Vấn đề sử dụng kháng sinh trong hen không dị ứng cũng là vấn đề được quan tâm do nhiễm trùng là một trong những nguyên nhân quan trọng của hen không dị ứng. Tuy nhiên, kết quả của nhiều nghiên cứu về việc sử dụng kháng sinh, đặc biệt là nhóm macrolides trong điều trị hen không cho thấy bằng chứng rõ rệt (16). Sau đây là một số hướng dẫn điều trị cho một số trường hợp hen không dị ứng: Hen khởi phát do nhiễm virus: Vai trò của ICS trong phòng ngừa hen khởi phát do nhiễm virus ở trẻ nhỏ còn hạn chế và bàn cãi. Theo Thư viện Cochrane, ICS liều cao từng đợt có hiệu quả một phần trong điều trị khò khè do virus nhẹ ở trẻ em nhưng không có bằng chứng ủng hộ điều trị ICS liều thấp trong phòng ngừa lâu dài và điều trị cơn hen/khò khè do virus nhẹ (8). Montelukast được xem là một điều trị thích hợp cho hen/khò khè sau nhiễm virus khi có những bằng chứng về gia tăng nồng độ leukotriene trong dịch tiết phế quản ở bệnh nhân này cũng như có những bằng chứng lâm sàng ủng hộ. Theo phân tích gộp của Fitzerald và GINA (6): - Ở trẻ 2-14 tuổi (85% <6 tuổi) có kiểu hình hen khởi phát do virus, điều trị Montelukast 10 ngày, giảm khám cấp cứu 45%, giảm đi khám tại tất cả cơ sở y tế 23%, giảm thời gian trẻ nghỉ học/ cha mẹ nghỉ làm 33%. - Ở trẻ 2-5 tuổi có kiểu hình hen do virus tái phát thường xuyên, điều trị montelukast hàng ngày trong 12 tháng so với placebo giúp giảm tần suất cơn hen cấp 31%, thời gian xuất hiện cơn khò khè đầu tiên chậm hơn và ít cần dùng ICS phòng ngừa hen hơn, tuy không giảm số lần nhập viện, nhu cầu dùng prednisone hay ngày không có triệu chứng. Theo đồng thuận PRACTALL (2008), ERS (2008) (1,3,4): Xác định kiểu hình khò khè từng đợt (do virus) khi khò khè xảy ra thành từng đợt riêng biệt, lâm sàng có bằng chứng kết hợp với cảm lạnh do virus, không có khò khè giữa các đợt và các cơn lặp đi lặp lại thành khuynh hướng theo mùa. Điều trị hen / khò khè do virus được khuyến cáo: 1) Có thể dùng Montelukast bắt đầu khi có triệu chứng hen hay khi có triệu chứng đầu tiên của viêm hô hấp trên ở trẻ hen do virus. Dùng Tổng quan 35 Hô hấp số 16/2018 buổi tối khi đi ngủ ít nhất 7 ngày hoặc cho đến khi hết triệu chứng 48 giờ, tối đa 20 ngày. 2) Khi hen do virus xảy ra thường xuyên hơn (trên 1 lần/ tháng), cơn hen nặng, khuyến cáo sử dụng ICS hơn là Montelukast. Hen gắng sức: Theo GINA (6) - Nếu chỉ có triệu chứng trong hay sau gắng sức, và không có yếu tố nguy cơ cơn kịch phát khác: SABA hít trước khi gắng sức là đủ (Chứng cứ A). - Các thuốc LTRA (đặc biệt là Montelukast), chromones cũng được xem là điều trị thay thế (Chứng cứ A). - Bệnh nhân có triệu chứng hen không liên quan với gắng sức hay có yếu tố nguy cơ lên cơn, khuyến cáo điều trị phòng ngừa bằng ICS hay LTRA do giúp làm giảm tình trạng co thắt phế quản khi gắng sức. - Ở bệnh nhân hen được kiểm soát tốt nhưng vẫn có co thắt phế quản khi gắng sức, có thể dùng SABA hay LTRA trước gắng sức (Chứng cứ A). Hen liên quan đến aspirine (AERD): Bệnh nhân cần tránh dùng aspirin, NSAID, các thuốc ức chế cyclooxygenase-1 (COX-1) cũng như xem xét chỉ định giải mẫn cảm. ICS vẫn là điều trị chính cho AERD, nhưng đôi khi phải dung phối hợp thêm với corticoid uống (OCS). LTRA cũng có thể có ích trong điều trị (Chứng cứ B) (6). Hen ở bệnh nhân béo phì: Cũng như các bệnh nhân hen khác, ICS cũng là biện pháp điều trị chính cho bệnh nhân hen kết hợp với béo phì (Chứng cứ B), mặc dù đáp ứng với ICS có giảm ở bệnh nhân béo phì. Giảm cân phải được bao gồm trong chiến lược điều trị bệnh nhân hen béo phì (Chứng cứ B). Việc tăng cường gắng sức đơn thuần dường như không đủ hiệu quả (Chứng cứ B). Giảm cân giúp cải thiện kiểm soát hen, chức năng phổi, sức khỏe nói chung, chất lượng cuộc sống và giảm nhu cầu sử dụng thuốc ở bệnh nhân béo phì (6) . Tài liệu tham khảo 1. Bacharier LB, Boner A, Carlsen KH (2008). Diagnosis and treatment of asthma in childhood: a PRACTALL consensus report. Allergy; 63:5-34. 2. Comberiati P, Di Cicco ME, D’Elios S and Peroni DG (2017) How Much Asthma Is Atopic in Children? Front. Pediatr. 5:122. doi: 10.3389/ fped.2017.00122 3. ERS Task Force (2008). Definition, assessment and treatment of wheezing disorders in preschool children: an evidence-based approach. Eur Respir J; 32: 1096–1110. DOI: 10.1183/ 09031936.00002108. 4. ERS Task Force (2014). Classification and pharmacological treatment of preschool wheezing: changes since 2008. Eur Respir J; 43: 1172–1177 | DOI: 10.1183/09031936.00199913. 5. Gaga M, Zervas E, Humbert M (2016). Targeting immunoglobulin E in non-atopic asthma: crossing the red line?. Eur Respir J 2016; 48: 1538–1540 | DOI: 10.1183/13993003.01797-2016 6. Global Initiative for Asthma (2017), Global Strategy for Asthma Management and Prevention. 7. Kukhtinova NV, Kondyurina EG, Lentze MJ (2012). Atopic and Nonatopic Asthma in Children: Two Different Diseases?. International Journal of Biomedicine, 2(3): 214-221 8. McKean MC, Ducharme F (2009), Inhaled steroids for episodic viral wheeze of childhood. Cochrane Database of Systematic Reviews 2000, Issue 1. Art. No.: CD001107. DOI: 10.1002/14651858. CD001107. 9. Kurukulaaratchy RJ, Fenn M, Matthews S (2004), Characterisation of atopic and non-atopic wheeze in 10 year old children. Thorax 2004;59:563–568. doi: 10.1136/thx.2003.010462 10. Moncayo AL, Vaca M, Oviedo G (2010). Risk factors for atopic and non-atopic asthma in a rural area of Ecuador. Thorax; 65:409e416. doi:10.1136/ thx.2009.126490 11. Papadopoulos NG, Arakawa H, Carlsen KH (2012). International Consensus on Pediatric Asthma. Allergy; DOI: 10.1111/j.1398-9995.2012.02865.x (epub June 15, 2012). 12. Pekkanen J, Lampi J, Hartikainen AL (2009). Comparing Risk Factors of Atopic and Non- Tổng quan 36 Hô hấp số 16/2018 Atopic Asthma May Lead to Misleading Conclusions. Epidemiology: November 2009 - Volume 20 - Issue 6 - p S40, doi: 10.1097/01. ede.0000362299.17208.27 13. Pekkanen J, Lampi J, Genuneit J (2012). Analyzing atopic and non-atopic asthma. Eur J Epidemiol, (4):281-6. doi: 10.1007/s10654-012-9649-y. 14. Pitt J, Becker AB, Kozyrskyj A (2010) Characteristics of atopic asthma and nonatopic asthma in the Study of Asthma, Genes and the Environment (SAGE) Cohort at 11-13 years. Allergy, Asthma & Clinical Immunology, 6(Suppl 3):P6 15. Prathap Pillai, Chris J. Corrigan, and Sun Ying (2011). Airway Epithelium in Atopic and Nonatopic Asthma: Similarities and Differences. ISRN Allergy, Article ID 195846, 7 pages, doi:10.5402/2011/195846 16. Richeldi L, Ferrara G, Fabbri L (2009). Macrolides for chronic asthma. Cochrane Database of Systematic Reviews 2005, Issue 4. Art. No.: CD002997. DOI: 10.1002/14651858.CD002997. pub3. 17. Simons E, Brosnan J, Wood R (2003). Symptoms in Atopic and Non-atopic Children with Asthma. J Allergy Clin Immunol, S160. 18. Strina A, Barreto ML, Cooper PJ (2014) Risk factors for non-atopic asthma/wheeze in children and adolescents: a systematic review. Emerging Themes in Epidemiology, 11:5 19. Turato G, Barbato A, Baraldo S (2008), Nonatopic Children with Multitrigger Wheezing Have Airway Pathology Comparable to Atopic Asthma. Am J Respir Crit Care Med Vol 178. pp 476–482 20. Wennergren G, Kristjánsson S (2012). Treatment of infant and preschool asthma. In: Pediatric Asthma. Eur Respir Monogr; 56: 188-198. Copyright ERS 2012. DOI: 10.1183/1025448x.10017910.
File đính kèm:
hen_khong_di_ung_o_tre_em.pdf

