Hệ thống tài chính xanh của Anh, Trung Quốc và Việt Nam

Tóm tắt: Hiện nay, xây dựng hệ thống tài chính xanh là một trong những nhiệm vụ quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Hệ thống tài chính xanh sẽ làm

tăng tính hiệu quả của nguồn vốn trong nền kinh tế. Bài viết phân tích thực trạng xây dựng hệ

thống tài chính xanh ở Anh, Trung Quốc và Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các hàm ý chính sách

cho Việt Nam. Đó là: cần kết hợp với chiến lược phát triển xanh cũng như chiến lược phát triển

chung của chính phủ; cần triển khai hệ thống tài chính xanh theo hướng cho phép các đối tượng

hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ; cần đánh giá hệ thống tài chính xanh dưới giác độ lợi ích

và chi phí; cần hỗ trợ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường (BVMT) của người tiêu dùng thông qua

việc thay đổi thói quen tiêu dùng hàng hóa và sản phẩm xanh.

pdf 9 trang phuongnguyen 10660
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống tài chính xanh của Anh, Trung Quốc và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống tài chính xanh của Anh, Trung Quốc và Việt Nam

Hệ thống tài chính xanh của Anh, Trung Quốc và Việt Nam
 20
Hệ thống tài chính xanh 
của Anh, Trung Quốc và Việt Nam 
Trần Thị Vân Anh1 
Tóm tắt: Hiện nay, xây dựng hệ thống tài chính xanh là một trong những nhiệm vụ quan trọng 
trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Hệ thống tài chính xanh sẽ làm 
tăng tính hiệu quả của nguồn vốn trong nền kinh tế. Bài viết phân tích thực trạng xây dựng hệ 
thống tài chính xanh ở Anh, Trung Quốc và Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các hàm ý chính sách 
cho Việt Nam. Đó là: cần kết hợp với chiến lược phát triển xanh cũng như chiến lược phát triển 
chung của chính phủ; cần triển khai hệ thống tài chính xanh theo hướng cho phép các đối tượng 
hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ; cần đánh giá hệ thống tài chính xanh dưới giác độ lợi ích 
và chi phí; cần hỗ trợ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường (BVMT) của người tiêu dùng thông qua 
việc thay đổi thói quen tiêu dùng hàng hóa và sản phẩm xanh. 
Từ khóa: Hệ thống tài chính xanh; kinh tế xanh. 
Abstract: The development of green financial systems is currently one of the key tasks in the 
economic development strategies of many countries in the world. Such systems will enhance the 
efficiency of capital in the economy. In the article, the author analyses the current situation of 
building the systems in the United Kingdom, China and Vietnam, which serves as the basis for 
policy implications for the latter. The implications are that it is necessary: that the green financial 
system be combined with the green growth strategy and the overall development strategy of the 
government; to implement the system towards facilitating the institutions that operate in the 
finance-monetary fields; to assess the system from the perspectives of cost and benefit; to assist the 
raising of consumers’ awareness towards environmental protection by changing the consumption 
habits towards consuming green goods and products. 
Keywords: Green financial system; green economy. 
1. Đặt vấn đề 
Trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái 
hiện nay nhiều quốc gia đang tiến hành 
chuyển đổi từ mô hình kinh tế nâu truyền 
thống sang nền kinh tế xanh thân thiện với 
môi trường. Tuy nhiên thực hiện xanh hóa 
nền kinh tế đòi hỏi nguồn lực không nhỏ; 
bởi vậy huy động nguồn lực để triển khai 
việc xanh hóa nền kinh tế là một nhiệm vụ 
quan trọng. 
Bản Thỏa thuận chống biến đổi khí hậu 
toàn cầu đã được chính thức thông qua tại 
Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc 
(COP21) ở Pháp vào cuối năm 2015.1Đây 
là một văn bản mang tính lịch sử vì lần đầu 
tiên tất cả 196 quốc gia tham gia Công ước 
Khung của Liên Hợp Quốc về chống biến 
đổi khí hậu (UNFCCC) đã đi đến một 
1 Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà 
Nội. ĐT: 01258847676. Email: anhttv@yahoo.com 
Trần Thị Vân Anh 
 21
Thỏa thuận buộc tất cả các nước cắt giảm 
lượng phát thải khí carbon. Bản Thỏa 
thuận một phần mang tính ràng buộc pháp 
lý, một phần mang tính tự nguyện với mục 
tiêu quan trọng nhất là giữ mức tăng nhiệt 
độ toàn cầu trong thế kỷ này dưới 2 độ C, 
rồi tiếp đó cùng thúc đẩy nỗ lực để xuống 
còn 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công 
nghiệp; đồng thời quy định rằng, để giúp 
các nước đang phát triển chuyển từ việc sử 
dụng nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn 
năng lượng xanh và ứng phó với biến đổi 
khí hậu, các nước phát triển sẽ cung cấp 
100 tỷ USD/năm. 
Như vậy, để thực hiện được những mục 
tiêu của bản Thỏa thuận này thì xu hướng 
tất yếu của nền kinh tế thế giới là phải 
chuyển đổi từ mô hình kinh tế nâu truyền 
thống sang nền kinh tế xanh thân thiện với 
môi trường. Tuy nhiên thực hiện xanh hóa 
nền kinh tế đòi hỏi nguồn lực không nhỏ 
bởi vì áp dụng các công nghệ xanh trong 
nhiều trường hợp có chi phí cao hơn so với 
những công nghệ thông thường. Do đó, để 
có thể thuận lợi xây dựng một nền kinh tế 
xanh thì cần thiết phải thành lập một hệ 
thống tài chính xanh. 
Hiện nay chưa có một khái niệm được 
công nhận chính thức, song có thể hiểu theo 
nghĩa rộng thì tài chính xanh là một tập hợp 
đầy đủ các hình thức tài trợ cho công nghệ, 
dự án, ngành công nghiệp hay doanh nghiệp 
thân thiện với môi trường, hoặc theo nghĩa 
hẹp sẽ thể hiện bằng một nhóm sản phẩm 
và dịch vụ tài chính thân thiện với môi 
trường. Đặc điểm chung trong hoạt động tài 
chính xanh là chú trọng tới các giá trị của 
môi trường thiên nhiên và những nguồn lực 
tự nhiên; qua đó cải thiện phúc lợi và công 
bằng xã hội, giảm bớt rủi ro đối với môi 
trường và tăng cường sự cân bằng sinh thái. 
Tài chính xanh cũng có thể bao hàm đầu tư 
có trách nhiệm với môi trường và đầu tư 
giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. 
Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế 
theo hướng xanh hơn sẽ đưa lại những lợi 
ích đáng kể cho toàn thế giới. Ví dụ như đối 
với nền kinh tế toàn cầu thì 2,3 triệu việc 
làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo hiện 
nay sẽ tăng lên 20 triệu vào năm 2030, thị 
trường cấp nước, vệ sinh sẽ tăng từ 253 tỷ 
USD lên 658 tỷ USD vào năm 2020. Dự án 
các toà nhà xanh tại Liên minh Châu Âu 
(EU) và Mỹ sẽ tạo ra 2 - 3,5 triệu việc làm. 
Trung Quốc sẽ có khoảng 10 triệu việc làm 
trong lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo 
với doanh thu 17 tỷ USD/năm, trong khi số 
lao động ở Đức làm việc trong lĩnh vực này 
đã lên tới 400.000 người. Đối với Hàn 
Quốc thì con số việc làm 481.000 trong 
ngành công nghệ xanh năm 2012 sẽ tăng 
lên 1,18 triệu việc làm trong năm 2020. Để 
thúc đẩy các mục tiêu tăng trưởng xanh, các 
nước thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế 
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) có kế 
hoạch thực hiện các biện pháp như giảm 
45% cường độ sử dụng năng lượng của 
APEC vào năm 2035 so với năm 2005, kết 
hợp chiến lược phát triển duy trì độ carbon 
thấp vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế thông 
qua Dự án Thành phố mẫu carbon thấp. 
Trong Chiến lược năng lượng tới năm 
2030, Chính phủ EU đã công bố mục tiêu 
giảm khí thải carbon xuống mức 20% vào 
năm 2020 và 40% vào năm 2030. Tuy 
nhiên theo nghiên cứu của Cơ quan năng 
lượng quốc tế (IEA) và Báo cáo kinh tế 
xanh của Chương trình Môi trường Liên 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 22
Hợp Quốc (UNEP), để giảm ½ lượng tiêu 
thụ năng lượng trên toàn thế giới tới năm 
2050 cần một lượng đầu tư bổ sung hàng 
năm ước tính lên tới 1 - 2,5% tổng sản 
phẩm trong nước (GDP) toàn thế giới. Như 
vậy việc xanh hóa hệ thống tài chính hiện 
hành sẽ cho phép các quốc gia thuận lợi 
hơn trong việc huy động nguồn vốn cần 
thiết thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh 
của mình. 
Hệ thống tài chính xanh cũng có chức 
năng chính như hệ thống tài chính thông 
thường. Đó là luân chuyển vốn từ người tiết 
kiệm tới nhà đầu tư và do đó làm tăng tính 
hiệu quả của nguồn vốn trong nền kinh tế. 
Tuy nhiên sự khác biệt nằm trong đặc điểm 
của các thành phần tham gia vào quá trình 
luân chuyển vốn. Nguồn vốn xanh được 
huy động sẽ luân chuyển theo kênh tài 
chính gián tiếp thông qua các trung gian tài 
chính xanh và kênh tài chính trực tiếp thông 
qua thị trường tài chính xanh để được sử 
dụng vào các mục tiêu xanh. Việc nhìn 
nhận thực tiễn tại một số quốc gia trong 
thời gian vừa qua sẽ giúp đưa ra một số 
hàm ý chính sách xây dựng hệ thống tài 
chính xanh nhằm hỗ trợ cho quá trình 
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh thân thiện 
với môi trường. 
2. Hệ thống tài chính xanh của Anh 
Chính phủ Anh đóng vai trò tích cực 
trong việc thiết lập hệ thống tài chính xanh 
thể hiện qua việc trực tiếp tham gia vào quá 
trình huy động nguồn vốn xanh. Cụ thể như 
Chính phủ Anh đã xây dựng cơ chế tài trợ 
trực tiếp cho các dự án đầu tư xanh, thực 
hiện bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án 
cơ sở hạ tầng xanh cũng như tham gia tài 
trợ cho các quỹ bảo vệ môi trường nhằm 
các mục tiêu: hình thành và đảm bảo nguồn 
tài trợ cho các ngành công nghiệp xanh và 
tăng trưởng bền vững; phát triển các sản 
phẩm tài chính mới hỗ trợ cho một nền kinh 
tế carbon; thu hút các nguồn đầu tư tư nhân 
để xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng xanh; 
hỗ trợ triển khai các thông lệ quản lý xanh 
đối với khu vực doanh nghiệp và tăng 
cường tài trợ cho các doanh nghiệp áp dụng 
những thông lệ đó; thiết lập thị trường đối 
với hàng hóa và dịch vụ môi trường. 
Việc triển khai hệ thống tài chính xanh 
còn thể hiện cam kết của Chính phủ Anh 
trong chiến lược phát triển chung của mình. 
Các khoản đầu tư xanh thường dài hạn và là 
sản phẩm giao thoa của khu vực tài chính, 
các biện pháp cải thiện môi trường và tăng 
trưởng kinh tế nên các nhà đầu tư không chỉ 
muốn có những chính sách ổn định mà còn 
mong muốn biết thời điểm Chính phủ ra 
chính sách, cũng như có khả năng phán 
đoán được hướng đi của chính sách tương 
lai. Do vậy xây dựng một khung khổ chính 
sách đơn giản, ổn định và dễ phán đoán có 
ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn 
đầu tư từ các nhà đầu tư tổ chức và tư nhân 
để xanh hóa nền kinh tế. Để thực hiện mục 
tiêu này Chính phủ Anh đã đưa ra hàng loạt 
các sáng kiến hướng tới việc tháo gỡ những 
rào cản đối với đầu tư xanh thông qua việc 
đơn giản hóa thủ tục, hỗ trợ quản trị rủi ro, 
phát triển kỹ năng và kinh nghiệm trong các 
dự án xanh. Chính phủ cũng tiến hành báo 
cáo thường xuyên nhằm đánh giá tiến trình 
thực hiện chiến lược chuyển đổi sang mô 
hình kinh tế xanh của Anh để rút ra những 
điều chỉnh cần thiết và kịp thời. 
Trần Thị Vân Anh 
 23
Những cam kết và chính sách của Chính 
phủ Anh đã đóng vai trò quan trọng trong 
việc huy động nguồn vốn xanh công cộng 
từ các định chế quốc tế hay các ngân hàng 
phát triển song phương và đa phương. Theo 
đánh giá của Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu 
Á - Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc 
(UNESCAP) thì các nhà đầu tư tổ chức 
kiểm soát nguồn vốn trị giá 110 nghìn tỷ 
USD trên toàn cầu và là nguồn vốn lớn nhất 
trong các nguồn tài trợ cho hệ thống tài 
chính xanh. Nhìn chung các nhà đầu tư 
thường không ưa thích rủi ro và do đó 
thường lựa chọn đầu tư vào các quốc gia 
mà Chính phủ có khả năng duy trì sự ổn 
định chính sách lâu dài. Bởi vậy việc Chính 
phủ Anh công bố những cam kết và tích 
cực thực hiện chiến lược và kế hoạch phát 
triển xanh của mình đã tạo ra nhiều cơ hội 
thu hút nguồn vốn xanh từ các nhà đầu tư. 
Thêm vào đó các biện pháp tích cực của 
Chính phủ Anh trong triển khai hệ thống tài 
chính xanh đã góp phần thu hút nguồn vốn 
từ khu vực tư nhân thực hiện đầu tư xanh. 
Một trong những ví dụ cụ thể về cam kết 
xây dựng hệ thống tài chính xanh là việc 
Chính phủ Anh thành lập Ngân hàng đầu tư 
xanh vào năm 2010 để hỗ trợ đầu tư cho 
các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng xanh mà 
thị trường không thể tài trợ được do lo ngại 
những rủi ro đi kèm. Ngân hàng đầu tư 
xanh đánh giá tiềm năng của dự án trên cơ 
sở sự chắc chắn, hiệu quả đầu tư và mức độ 
đáp ứng các yêu cầu thân thiện với môi 
trường. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của 
ngân hàng bao gồm năng lượng tái tạo, giao 
thông, xử lý rác và nguồn nước Ngân 
hàng ưu tiên cho các dự án cơ sở hạ tầng 
xanh có rủi ro thấp, giá trị thương mại cao. 
Ngân hàng đầu tư xanh của Anh đã đi 
vào hoạt động năm 2012 với mức vốn điều 
lệ trị giá 3,8 tỷ bảng Anh. Ngoài việc trực 
tiếp thực hiện tài trợ xanh thì mục tiêu quan 
trọng khác của Ngân hàng là thu hút nguồn 
vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào khu vực 
xanh, cụ thể là khoảng 18 tỷ bảng Anh cho 
năm tài khóa 2015 - 2016. 
Đối với các nhà đầu tư tư nhân thì vấn 
đề chi phí và lợi ích có ý nghĩa quan trọng 
trong quyết định đầu tư của mình. Do đó 
việc thu hút các nhà đầu tư tư nhân tài trợ 
cho các dự án xanh phụ thuộc vào mức độ 
hài lòng của họ khi thực hiện đánh giá lợi 
ích - chi phí các khoản đầu tư đó. Vì vậy 
mọi hoạt động của Chính phủ có thể loại trừ 
bớt tính bất ổn và rủi ro, gia tăng sự đảm 
bảo cho các khoản lợi nhuận dự kiến có 
được từ dự án sẽ tăng khả năng thuyết phục 
nhà đầu tư. Số lượng đầu tư từ phía Chính 
phủ dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng vẫn có 
thể là chất xúc tác đối với hoạt động của 
khu vực tư nhân. Theo đánh giá của 
UNESCAP, một khoản đầu tư của Chính 
phủ trị giá 10 tỷ USD cho biến đổi khí hậu 
có thể kêu gọi khoảng 50 - 150 tỷ USD từ 
khu vực tư nhân. Như vậy trong trường hợp 
của Anh thì thông qua việc thành lập và 
hoạt động của Ngân hàng đầu tư xanh, 
Chính phủ Anh hướng tới mục tiêu khuyến 
khích nguồn vốn tư nhân cho các dự án 
xanh nhằm gia tăng quá trình chuyển đổi 
sang nền kinh tế xanh của quốc gia này. 
3. Hệ thống tài chính xanh của 
Trung Quốc 
Theo tính toán của Ngân hàng Nhân dân 
Trung Hoa, dự kiến trong vòng 5 năm tới 
Trung Quốc sẽ cần tới 320 tỷ USD hàng 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 24
năm cho đầu tư xanh nhằm đáp ứng các 
mục tiêu bảo vệ môi trường của nước này. 
Tuy nhiên nguồn ngân sách nhà nước hiện 
chỉ có thể đáp ứng 15% nhu cầu; bởi vậy hệ 
thống tài chính sẽ đóng vai trò quan trọng 
trong việc luân chuyển vốn và huy động 
nguồn vốn cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực 
xanh. Vào tháng 4/2015, Ngân hàng Nhân 
dân Trung Hoa đã công bố Chương trình 
xanh hóa thị trường tài chính của mình theo 
hướng cơ cấu lại hệ thống tài chính Trung 
Quốc nhằm đáp ứng các nhu cầu của nền 
kinh tế xanh và phát triển bền vững. 
Để thực hiện các mục tiêu của chương 
trình này Chính phủ Trung Quốc đã phân 
tích sự khác biệt trong hoạt động của hệ 
thống tài chính của mình so với các quốc 
gia khác để tìm ra nguyên nhân của những 
cản trở khi áp dụng mô hình hệ thống tài 
chính xanh. Trên cơ sở những thông lệ quốc 
tế phù hợp nhất đối với Trung Quốc cũng 
như căn cứ vào việc nghiên cứu những 
chính sách và kinh nghiệm nhiều quốc gia 
trên thế giới khi triển khai hệ thống tài 
chính xanh, Chính phủ Trung Quốc đã đưa 
ra các công cụ và hướng dẫn mà các định 
chế tài chính có thể vận dụng để xanh hóa 
hệ thống tài chính, cũng như đề xuất một số 
hàm ý chính sách khơi thông dòng vốn đầu 
tư xanh. 
Chương trình xanh hóa hệ thống tài 
chính tập trung một số trọng tâm như: (1) 
hình thành những cơ chế tài chính khuyến 
khích đầu tư xanh; (2) xây dựng những định 
chế chuyên thực hiện các hoạt động đầu tư 
và cho vay xanh; (3) cung cấp các sản phẩm 
và kênh tài trợ xanh; (4) đảm bảo sử dụng 
tài chính công một cách có hiệu quả để 
khuyến khích dòng tài chính tư nhân; (5) 
hình thành cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ 
nhà đầu tư đánh giá tác động môi trường tới 
các khoản đầu tư ví dụ như hệ thống chỉ số 
tín dụng xanh, các quy định công bố thông 
tin môi trường. 
Đối với mỗi trọng tâm trong Chương 
trình xanh hóa hệ thống tài chính, Chính 
phủ Trung Quốc lại có những kế hoạch 
triển khai cụ thể, như xây dựng cơ chế tài 
chính khuyến khích đầu tư xanh (sử dụng 
các nguồn vốn xanh huy động được để tài 
trợ cho các chính sách xanh của Nhà nước). 
Mục tiêu của những chính sách này là 
khuyến khích triển khai các sáng kiến và dự 
án về môi trường (liên quan tới việc điều 
chỉnh hoặc giảm bớt tác động tiêu cực tới 
môi trường). Chính sách xanh bao gồm cả 
khung luật pháp tạo điều kiện thuận lợi cho 
nhà đầu tư tư nhân và thị trường tài chính 
có thể cấp vốn cho các khu vực xanh của 
nền kinh tế (như các chính sách thuế/phí 
môi trường, thuế/phí tài nguyên, các khoản 
hỗ trợ, miễn giảm, ưu đãi thuế/phí khuyến 
khích doanh nghiệp). 
4. Hệ thống tài chính xanh của 
Việt Nam 
Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam 
thời gian qua dựa nhiều vào khai thác tài 
nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ 
chế gây thiệt hại cho môi trường và gia tăng 
tác động của biến đổi khí hậu. Theo dự 
đoán của IEA, mức phát thải khí CO2 tại 
Việt Nam sẽ tăng từ hơn 113 triệu tấn trong 
năm 2010 lên tới gần 471 triệu tấn vào năm 
2030. Nếu không tăng cường công tác 
BVMT thì trong 10 năm tới do GDP của 
Trần Thị Vân Anh 
 25
Việt Nam tăng gấp 2 nên mức độ ô nhiễm 
tăng gấp 3 lần và đến năm 2050 có thể tăng 
từ 4 - 5 lần. 
Theo Báo cáo của UNEP (2013) thì 
Việt Nam có mức độ sử dụng nguyên liệu 
thô trong nước (than, dầu, thép) để sản 
xuất ra một đơn vị GDP vào loại cao nhất 
thế giới. Trong khi thế giới ngày càng ít sử 
dụng nguyên liệu thô để tạo ra một đơn vị 
GDP thì Việt Nam lại gia tăng tỷ lệ này. 
Nếu như năm 1990, Việt Nam sử dụng 
khoảng hơn 8 kg nguyên liệu thô để tạo ra 
01 USD GDP thì con số này đến năm 2008 
là khoảng 13 kg, trong khi con số tương 
ứng để tạo ra 01 USD GDP trung bình của 
thế giới năm 1990 là 1,8 kg tới năm 2008 
chỉ còn khoảng 1,5 kg. 
Mô hình tăng trưởng hiện nay của Việt 
Nam rõ ràng là không bền vững. Bởi vậy 
trong chiến lược phát triển giai đoạn 2011 - 
2020, Việt Nam đã xác định phát triển 
nhanh gắn liền với phát triển bền vững, 
trong đó đổi mới mô hình tăng trưởng 
chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền 
kinh tế xanh là một trong những nhiệm vụ 
trọng tâm. 
Mặc dù vấn đề xây dựng hệ thống tài 
chính xanh chưa được đề cập tới một cách 
chính thức nhưng trong những nỗ lực thực 
hiện chuyển đổi mô hình kinh tế xanh của 
Chính phủ cho thấy sự phát triển của hệ 
thống tài chính xanh như sau: 
+ Huy động nguồn vốn xanh: Để huy 
động và sử dụng nguồn vốn BVMT có hiệu 
quả Việt Nam đã ban hành một loạt văn bản 
pháp luật liên quan đến thuế và phí hỗ trợ 
phát triển kinh tế xanh (như Luật Thuế bảo 
vệ môi trường số 57/2010/QH12; Nghị định 
số 87/2010/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 13 
tháng 8 năm 2010 quy định chi tiết thi hành 
một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế 
nhập khẩu; Luật số 50/2010/QH12 về sử 
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; 
Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 
tháng 08 năm 2007 về một số cơ chế tài 
chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát 
triển sạch, Luật Thuế thu nhập doanh 
nghiệp số 14/2008/QH12 sửa đổi Luật Thuế 
thu nhập doanh nghiệp (số 32/2013/QH13; 
Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn 
thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; 
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13; Nghị định 
số 04/2009/NĐ-CP về ưu đãi, hỗ trợ hoạt 
động bảo vệ môi trường; Nghị định số 
25/2013/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường 
đối với nước thải; Nghị định số 
59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn; 
Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg về cơ chế 
hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại 
Việt Nam). 
Để hỗ trợ nguồn lực tài chính cho các 
hoạt động đầu tư xanh, năm 2002 Chính 
phủ đã thành lập Quỹ bảo vệ môi trường 
trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. 
Chức năng chủ yếu của Quỹ BVMT là cho 
vay lãi suất ưu đãi, tài trợ, hỗ trợ lãi suất 
cho các chương trình, dự án, các hoạt động, 
nhiệm vụ bảo vệ môi trường và ứng phó với 
biến đổi khí hậu không nằm trong kế hoạch 
ngân sách trên phạm vi toàn quốc. 
Nguồn vốn hoạt động của Quỹ BVMT 
được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. 
Ngoài nguồn vốn điều lệ do ngân sách nhà 
nước cấp, hàng năm Quỹ được bổ sung vốn 
từ các nguồn phí, lệ phí và các khoản bồi 
thường thiệt hại về môi trường, các khoản 
tài trợ, hỗ trợ, đóng góp tự nguyện, ủy thác 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 26
đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong và 
ngoài nước dành cho lĩnh vực bảo vệ môi 
trường và ứng phó khí hậu, tiền lãi từ hoạt 
động cho vay... 
Đối tượng được hỗ trợ tài chính từ Quỹ 
BVMT là tổ chức cá nhân có các dự án đầu 
tư hoặc phương án đề nghị tài trợ thực hiện 
các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo tồn 
thiên nhiên và đa dạng sinh học, phòng, 
chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự 
cố môi trường mang tính quốc gia, liên 
ngành, liên vùng hoặc giải quyết các vấn đề 
môi trường cục bộ nhưng phạm vi ảnh 
hưởng lớn. 
+ Sử dụng nguồn vốn xanh: Trong quá 
trình đánh giá lựa chọn dự án đầu tư, Việt 
Nam bước đầu đã tính đến tính hiệu quả dài 
hạn của đầu tư trong đó có tác động đến 
môi trường. Tại các cấp từ Trung ương tới 
một số địa phương đã có chủ trương ưu tiên 
đầu tư vào ngành sản xuất năng lượng tái 
tạo, thực hiện hiệu quả hơn chính sách trợ 
giúp cho phát triển năng lượng tái tạo. 
Chính phủ có chủ trương ưu tiên đầu tư 
công hoặc khuyến khích đầu tư tư nhân cho 
các dự án phát triển hạ tầng xanh, cải thiện 
hệ sinh thái, phát triển rừng 
+ Xây dựng thị trường tài chính xanh: 
Việt Nam cũng thực hiện một số bước trong 
chủ trương xanh hóa các thành phần trong 
thị trường tài chính hiện hành. Ví dụ như 
trong phạm vi Dự án Cải cách khu vực tài 
chính xanh của Chương trình cải cách kinh 
tế vĩ mô/tăng trưởng xanh do Tổ chức Hợp 
tác quốc tế Đức (GIZ) tài trợ thì GIZ sẽ hợp 
tác với Ủy ban Chứng khoán (UBCK) Việt 
Nam trong giai đoạn 2015 - 2017 để triển 
khai thực hiện Module Phát triển thị trường 
vốn xanh. Mục tiêu của hoạt động này là 
xây dựng các chính sách và quy định nhằm 
hỗ trợ huy động vốn trên thị trường vốn 
phục vụ cho đầu tư xanh (bao gồm: xây 
dựng chính sách niêm yết xanh; xây dựng 
đề án phát triển các sản phẩm tài chính 
xanh như chỉ số xanh, trái phiếu xanh, quỹ 
đầu tư xanh). 
5. Hàm ý chính sách về xây dựng hệ 
thống tài chính xanh cho Việt Nam 
Thứ nhất, cần kết hợp với chiến lược 
phát triển xanh cũng như chiến lược phát 
triển chung của chính phủ. Chính phủ cần 
xem xét điều chỉnh hệ thống luật pháp hiện 
hành và xây dựng các quy định mới cho 
phù hợp với thông lệ quốc tế theo xu hướng 
phát triển hệ thống tài chính xanh. Mặt khác 
hệ thống tài chính xanh có nhiều đặc điểm 
khác biệt so với hệ thống tài chính hiện nay 
nên Chính phủ cũng đồng thời cần nâng cao 
năng lực quản lý của các cơ quan nhà nước 
và đầu tư nhằm hỗ trợ quản lý hệ thống tài 
chính xanh. 
Thứ hai, cần triển khai hệ thống tài chính 
xanh theo hướng cho phép các đối tượng 
hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ 
(thuộc chính quyền, doanh nghiệp, hiệp hội, 
tổ chức đào tạo) trong phạm vi quyền hạn 
của mình sẵn sàng tạo lập một môi trường 
khuyến khích hoặc có khả năng cung cấp 
sản phẩm và dịch vụ tài chính cần thiết để 
tạo điều kiện thuận lợi chuyển đổi từ nền 
kinh tế truyền thống sang nền kinh tế xanh. 
Thứ ba, cần đánh giá hệ thống tài chính 
xanh dưới giác độ lợi ích và chi phí. Mục 
tiêu hoạt động chính của doanh nghiệp là 
tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên có dự án 
hay hoạt động đem lại lợi nhuận cao nhất 
Trần Thị Vân Anh 
 27
cho doanh nghiệp nhưng gây tác hại lớn 
cho môi trưởng và không tạo ra lợi ích lớn 
nhất cho xã hội. Như vậy mục tiêu xây 
dựng mô hình tài chính xanh cũng phải 
hướng tới việc giảm bớt hoạt động sản xuất 
và tiêu dùng hàng hóa và sản phẩm có hại 
cho môi trường và gia tăng hoạt động sản 
xuất và tiêu dùng những hàng hóa sạch, 
thân thiện với môi trường. 
Thứ tư, cần hỗ trợ nâng cao ý thức 
BVMT của người tiêu dùng thông qua việc 
thay đổi thói quen tiêu dùng hàng hóa và 
sản phẩm xanh. Người tiêu dùng đóng vai 
trò quan trọng đối với sự cân bằng cung - 
cầu trên thị trường. Sở thích của người tiêu 
dùng ảnh hưởng tới giá hàng hóa và dịch vụ 
trên thị trường. Đối với đại đa số người tiêu 
dùng ở các nước phát triển thì giá và đặc 
tính của hàng hóa và dịch vụ không phải là 
yếu tố duy nhất mà họ cân nhắc trong các 
quyết định mua sắm và sử dụng hàng hóa 
và dịch vụ. Thay vào đó họ xem xét tới yếu 
tố đạo đức và trách nhiệm xã hội của hàng 
hóa và dịch vụ như cách thức sản xuất hàng 
hóa và dịch vụ, sự an toàn của môi trường 
sản xuất, tỷ lệ sử dụng lao động trẻ em hoặc 
các vấn đề bất hợp pháp hay đáng ngờ 
khác. Nếu như tồn tại những vấn đề như 
vậy thì người sử dụng sẽ không mua hay sử 
dụng mặc dù các hàng hóa và dịch vụ đó có 
mức giá thấp. 
Những biện pháp như xây dựng một 
mạng lưới trách nhiệm xã hội, quy định yêu 
cầu các công ty thông báo những hoạt động 
gây tác động xấu tới môi trường của mình, 
triển khai các chương trình đào tạo về tiêu 
dùng xanh sẽ hỗ trợ gia tăng nhận thức 
và trách nhiệm của người tiêu dùng ý thức 
BVMT. Người tiêu dùng sẽ gia tăng nhu 
cầu đối với hàng hóa và dịch vụ xanh, làm 
thị trường đạt tới điểm cân bằng mới, làm 
tăng giá hàng hóa và dịch vụ xanh. Chính 
phủ sẽ cung cấp trợ giá cho các hàng hóa và 
dịch vụ này và điều này góp phần khuyến 
khích doanh nghiệp cung cấp và sản xuất 
các dịch vụ và hàng hóa xanh. 
Thứ năm, cần phải có những bổ sung 
phù hợp các cơ chế chính sách, hệ thống 
luật pháp liên quan đến BVMT nhằm tăng 
nguồn thu hiện hành. Hiện nay chúng ta đã 
có Thuế bảo vệ môi trường, Thuế tài 
nguyên, Nghị định thu phí nước thải, Nghị 
định chi trả dịch vụ môi trường, Nghị định 
bồi hoàn thiệt hại môi trường... Tuy nhiên 
những văn bản này còn có nhiều bất cập và 
chồng chéo, nhất là Luật Thuế bảo vệ môi 
trường và Thuế tài nguyên. So với các nước 
khác, thuế suất tài nguyên của nước ta còn 
thấp, nhất là đối với các kim loại quý hiếm 
nên cần phải điều chỉnh tăng. Mức tính thuế 
và phí môi trường còn chưa phù hợp. 
Khi điều chỉnh hoặc ban hành các quy 
định thuế/phí bảo vệ môi trường chúng ta 
cần cân nhắc và lưu ý một số vấn đề sau 
đây: quy mô đánh thuế phải rộng bao hàm 
một cách toàn diện quy mô thiệt hại về môi 
trường, phải nhằm vào mọi chất ô 
nhiễm/hành động gây ô nhiễm và không 
nên có hoặc chỉ hạn chế rất ít trường hợp 
được miễn trừ; mức thuế suất phải được 
xây dựng trên một cơ sở toàn diện và đáng 
tin cậy trong đó mức thuế suất ít nhất phải 
bằng chi phí biên để xử lý ô nhiễm; số thu 
về thuế môi trường phải hỗ trợ giảm bớt số 
thu từ các loại thuế khác; cần phải cân nhắc 
tác động của thuế với những chính sách 
khác và cần phải kết hợp với những công cụ 
chính sách khác. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 28
Thứ sáu, cần xây dựng những chính 
sách ưu đãi (nhất là ưu đãi về thuế, phí, 
cho vay tài chính phù hợp cho khu vực 
doanh nghiệp) nhằm khuyến khích doanh 
nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo 
hướng công nghệ xanh. Điều này là cần 
thiết vì các chi phí xây dựng, xử lý hệ 
thống giảm thiểu ô nhiễm môi trường hoặc 
để sản xuất sạch thường khá lớn, gây khó 
khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp 
muốn triển khai những hệ thống này, đặc 
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn 
chiếm đa số trong nền kinh tế Việt Nam. 
Các ưu đãi về thuế hiện nay chưa đủ mạnh 
để khuyến khích doanh nghiệp giảm thiểu 
ô nhiễm môi trường. 
Thứ bảy, cần xem xét áp dụng những chế 
tài xử phạt đối với những hành vi vi phạm 
quy định bảo vệ môi trường. Các doanh 
nghiệp có xu hướng chạy theo mục tiêu lợi 
nhuận mà cố tình bỏ qua những tác hại đối 
với môi trường, trong khi đó hiện nay chưa 
có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn những 
hành vi bất lợi cho môi trường. 
6. Kết luận 
Xây dựng và phát triển hệ thống tài 
chính xanh nhằm huy động nguồn lực cần 
thiết cho tăng trưởng xanh đã và đang được 
nhiều quốc gia trên thế giới triển khai. Tuy 
vậy, để làm được điều đó đòi hỏi các quốc 
gia, trong đó có Việt Nam, phải có những 
cơ chế, chính sách phù hợp, phải rà soát lại 
các chủ trương, chính sách, hệ thống luật 
pháp hiện hành liên quan đến huy động 
nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển 
ngành và các lĩnh vực gắn với tăng trưởng 
xanh. Thực tiễn triển khai hệ thống tài 
chính xanh tại Anh và Trung Quốc góp 
phần tìm ra lời giải cho bài toán huy động 
nguồn lực để xanh hóa nền kinh tế hay sử 
dụng nguồn lực như thế nào cho hiệu quả 
để xây dựng nền kinh tế xanh. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia 
về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm 
nhìn đến năm 2050, ban hành theo Quyết định số 
1393/2012/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 
[2] Thủ tướng Chính phủ (2014), Phê duyệt kế hoạch 
hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 
2014 - 2020, ban hành theo Quyết định số 
403/2014/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2014. 
[3] Green Finance Task Force (2015), Establising 
China’s Green Financial System. 
[4] House of Commons Environmental Audit 
Committee (2014), Green Finance. 
[5] Ron Benioff, GGGI, Green Growth in Practice: 
Lessons from Country Experiences, 23 May 2014. 
[6] UN Economic and Social Commission for Asia 
and the Pacific (2010), Financing an Inclusive and 
Green Future: A Supportive Financial System and 
Green Growth for Achieving the Millennium 
Development Goals in Asia and the Pacific. 
[7] UNEP (2013), Recent trends in material flows 
and resource productivity in Asia and the Pacific. 

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_tai_chinh_xanh_cua_anh_trung_quoc_va_viet_nam.pdf