Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia AEC: phân tích qua mô hình Swot

Theo kế hoạch, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ được hình thành vào cuối năm 2015.

Khi tham gia AEC, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có điều kiện để tiếp thu những tiến

bộ về khoa học công nghệ ngân hàng cũng như những kinh nghiệm quản lý của các nước

trong khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế cũng đặt ra khá nhiều thách thức cho hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng Việt

Nam phải tích cực đổi mới cách thức quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng

lộ trình hội nhập phù hợp, thích ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài. Để

tăng tính chủ động trong quá trình hội nhập, ngành ngân hàng cần nhận diện đầy đủ

những thách thức cũng như những lợi thế, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp trong

thời gian tới. Bài viết này phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và đưa ra

một số khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

(NHTM) khi tham gia AEC.

pdf 10 trang phuongnguyen 11280
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia AEC: phân tích qua mô hình Swot", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia AEC: phân tích qua mô hình Swot

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia AEC: phân tích qua mô hình Swot
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 80 
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 
KHI THAM GIA AEC: PHÂN TÍCH QUA MÔ HÌNH SWOT 
Ngô Việt Hƣơng1 
TÓM TẮT 
Theo kế hoạch, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ được hình thành vào cuối năm 2015. 
Khi tham gia AEC, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có điều kiện để tiếp thu những tiến 
bộ về khoa học công nghệ ngân hàng cũng như những kinh nghiệm quản lý của các nước 
trong khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế cũng đặt ra khá nhiều thách thức cho hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng Việt 
Nam phải tích cực đổi mới cách thức quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng 
lộ trình hội nhập phù hợp, thích ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài. Để 
tăng tính chủ động trong quá trình hội nhập, ngành ngân hàng cần nhận diện đầy đủ 
những thách thức cũng như những lợi thế, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp trong 
thời gian tới. Bài viết này phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và đưa ra 
một số khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại 
(NHTM) khi tham gia AEC. 
Từ khóa: AEC, Ngân hàng thương mại, Việt Nam, cơ hội, thách thức 
1. GIỚI THIỆU 
Thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về thực trạng hoạt động ngân 
hàng Việt Nam trƣớc khi tham gia AEC. Những nghiên cứu có thể kể đến nhƣ bài viết của 
Vũ Duy Vĩnh (2014), Nguyễn Quốc Trƣờng và Nguyễn Thế Cƣờng (2014), Nguyễn Đình 
Hoàn và Nguyễn Trọng Kiên (2014) hay Đào Thị Nhung (2014) đã đƣa ra những giải pháp 
nhằm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trong bài viết “Giải pháp đẩy nhanh xử lý nợ xấu, tái 
cơ cấu ngân hàng” và Nguyễn Minh Ngọc (2014) đã đề cập đến phạm vi hoạt động của các 
ngân hàng cũng nhƣ những thách thức, rào cản cần phải dỡ bỏ khi ngân hàng Việt Nam gia 
nhập AEC trong bài viết “Hội nhập trong ngành ngân hàng Việt Nam với cộng đồng kinh 
tế ASEAN”. 
Các nghiên cứu nói trên đã phần nào phân tích, đánh giá những tác động khi AEC 
đƣợc thành lập tới khả năng, triển vọng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói 
riêng và nền kinh tế nƣớc ta nói chung. Tuy nhiên, việc phân tích, đánh giá cụ thể những 
cơ hội, thách thức của hệ thống ngân hàng Việt Nam khi tham gia AEC dựa trên việc 
phân tích những điểm yếu, điểm mạnh chƣa đƣợc đề cập đến. Chính vì vậy, bài viết này 
1
 TS. Giảng viên khoa KT-QTKD, Trường Đại học Hồng Đức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 81 
tiếp tục cung cấp cái nhìn đầy đủ hơn về những lợi thế, hạn chế, đồng thời cũng chỉ ra cơ 
hội và thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam khi tham gia AEC thông qua mô 
hình SWOT. 
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bài viết chủ yếu sử dụng phƣơng pháp thống kê để phân tích, so sánh, xử lý số liệu 
thu thập đƣợc theo mô hình SWOT nhằm phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách 
thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam khi tham gia AEC. SWOT là mô hình ma trận 
phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ (viết tắt là SWOT). Mỗi phần tƣơng ứng 
với những điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội (Oppotunities) và nguy 
cơ (Threats). 
3. NỘI DUNG 
3.1. Những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống NHTM Việt Nam 
3.1.1. Điểm mạnh 
Thứ nhất, các NHTM Việt Nam trong những năm qua đã không ngừng gia tăng 
mạng lƣới hoạt động. Hệ thống NHTM Việt Nam có mạng lƣới chi nhánh rộng khắp tại 
các tỉnh thành trong cả nƣớc, đây là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng tăng cƣờng khả 
năng huy động vốn và mở rộng tín dụng tại các khu vực tiềm năng. Vì vậy, hệ thống 
NHTM Việt Nam có một lƣợng lớn khách hàng truyền thống và rất am hiểu về khách hàng 
cũng nhƣ các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam. Khách hàng chủ yếu của các NHTM Việt 
Nam là các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty. Do đó, các NHTM trong nƣớc vẫn chiếm vai 
trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Số liệu 
tổng hợp cho thấy, đến thời điểm đầu quý 3 năm 2015, hệ thống các NHTM Việt Nam (tính 
cả Agribank) có hơn 9.200 chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp cả nƣớc. Trong đó, riêng 
lƣợng chi nhánh, phòng giao dịch của Vietinbank và Agribank chiếm trên 1/3 tổng số chi 
nhánh, phòng giao dịch của hệ thống. (Bảng 1) 
Thứ hai, quy mô vốn của các NHTM đã đƣợc tăng lên đáng kể. Theo quy định tại 
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ về ban hành danh mục 
mức vốn pháp định của các TCTD, các ngân hàng phải có vốn điều lệ ít nhất là 1.000 tỷ 
VND và đến năm 2010 là 3.000 tỷ VND. Đến nay, đã có nhiều ngân hàng đạt mức trên 
3.000 tỷ đồng. Tăng nhanh vốn điều lệ không chỉ tăng uy tín của ngân hàng với khách hàng 
mà còn là cơ sở quan trọng giúp các NHTM Việt Nam phát triển, mở rộng quy mô hoạt 
động kinh doanh an toàn và hiệu quả. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 82 
Bảng 1. Mạng lưới hoạt động và vốn điều lệ của một số NHTM hàng đầu Việt Nam 
Tên ngân hàng 
Vốn điều lệ 
(Tỷ đồng) 
Số lƣợng chi nhánh 
và phòng giao dịch 
Công thƣơng Việt Nam 40.234 1.152 
Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam 31.481 576 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 29.605 2.300 
Ngoại thƣơng Việt Nam 26.650 440 
Sài Gòn Thƣơng Tín 18.853 416 
Xuất Nhập Khẩu Việt Nam 12.355 204 
Quân đội 11.256 202 
Nguồn: https://sbv.gov.vn và tổng hợp từ trang web của các NHTM 
Thứ ba, các NHTM Việt Nam đang tăng cƣờng hiện đại hóa, ứng dụng những phần 
mềm công nghệ hiện đại trong việc quản lý ngân hàng. Hầu hết các NHTM đã đầu tƣ xây 
dựng hệ thống quản trị dữ liệu một cách tập trung tại hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong 
hoạt động kinh doanh. Một số ngân hàng nhƣ NHTM cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam, 
NHTM cổ phần Hàng Hải đã hoàn thiện giai đoạn 2 dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ 
thống thanh toán, cho phép khai thác tối đa những tiện ích công nghệ ngân hàng, đặc biệt 
là các kỹ thuật quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Hiện tại, ngoài VPBank, đã có 4 
NHTM Cổ phần đã sử dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) - 
hiện là hệ thống đƣợc đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm ngân hàng là 
Techcombank, Sacombank, MB, SeaBank và SHB. 
3.1.2. Điểm yếu 
Thứ nhất, đa số các NHTM Việt Nam có qui mô vốn nhỏ so với các nƣớc trong khu 
vực và thế giới. Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ, áp lực tăng vốn đối 
với nhiều ngân hàng là không nhỏ. Tuy nhiên, hiện nay trong khu vực đã có các ngân hàng 
có vốn chủ sở hữu tới vài trăm tỷ USD, trong khi ở Việt Nam chƣa có ngân hàng nào đạt 
mức vốn chủ sở hữu 100 tỷ USD. Với qui mô vốn nhỏ, các ngân hàng sẽ chƣa có điều kiện 
để phát triển dịch vụ phi tín dụng, chỉ tập trung vào hoạt động tín dụng, phát triển mạnh 
cho vay tiêu dùng, cho vay chứng khoán và bất động sản, do đó khó chống đỡ trƣớc những 
diễn biến bất ổn từ nền kinh tế. 
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn quá thấp so với yêu cầu 
hội nhập. Một hệ thống ngân hàng không thể phát triển bền vững, có năng lực cạnh tranh 
cao trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Kết quả của báo cáo năng lực 
cạnh tranh toàn cầu của diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2014 - 2015 cho thấy, Việt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 83 
Nam đứng thứ 68 trong 144 quốc gia đƣợc khảo sát về 12 tiêu chí cạnh tranh bao gồm thể 
chế pháp luật, cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục, quy mô thị trƣờng, môi trƣờng kinh tế vĩ mô, 
mức độ phát triển của thị trƣờng tài chính, hiệu quả thị trƣờng lao động. 
Hình 1. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với một số nƣớc trong khu vực 
Nguồn: Báo cáo của WEF (2014 - 2015) 
Theo báo cáo này, Việt Nam đã tăng 2 bậc về chỉ số năng lực cạnh tranh, và đây 
cũng là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam thăng hạng. Năm 2014, Việt Nam nhảy vọt 5 bậc từ 
vị trí 75 về 70. Năm nay, với 4 tiêu chí đều cải thiện thứ hạng. Báo cáo của WEF cũng chỉ 
rõ, Philippines tăng 7 bậc lên vị trí thứ 52 trên tổng số 140 quốc gia. So với năm 2010, 
nƣớc này đã tăng 33 hạng, khiến Philippines trở thành một trong những quốc gia thăng 
hạng nhanh nhất trong số các quốc gia đƣợc khảo sát. Malaysia tăng 4 bậc, Thái Lan lên 
6 bậc, Indonesia lên 4 bậc. Nhƣ vậy, so với các quốc gia trong khu vực thì chỉ số năng lực 
cạnh tranh của Việt Nam mặc dù đã đƣợc cải thiện song vẫn còn rất thấp điều này sẽ ảnh 
hƣởng đến khả năng thu hút vốn đầu tƣ cũng nhƣ thu hút công nghệ hiện đại hóa ngân 
hàng, nguồn nhân lực, trình độ quản trị hoạt động và vấn đề quản lý rủi ro trong hoạt động 
ngân hàng. 
Thứ ba, chất lƣợng dịch vụ ngân hàng hiện đại còn thấp. Hệ thống dịch vụ ngân hàng 
trong nƣớc còn đơn điệu, chất lƣợng chƣa cao, chƣa định hƣớng theo nhu cầu khách hàng 
và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại chƣa phát triển 
hoặc phát triển nhƣng đồng bộ. Rất nhiều dịch vụ phát triển chƣa đa dạng, đặc biệt là các 
dịch vụ bán lẻ, dịch vụ dành cho khách hàng thƣợng lƣu, dịch vụ quản lý tài sản, tƣ vấn và 
hỗ trợ tài chính, dịch vụ tài chính phái sinh, cung cấp thông tin tài chính và dịch vụ thanh 
toán quốc tế còn rất hạn chế. Việc thanh toán bằng thẻ ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng 
điện tử đã tăng nhƣng tính tiện tích và hiệu quả kinh tế chƣa cao, chủ yếu mới chỉ xuất hiện 
ở các thành phố lớn. Mức độ đáp ứng nhu cầu về vốn, về các dịch vụ ngân hàng khác đối 
với xã hội chƣa cao do những hạn chế về phạm vi hoạt động, chất lƣợng và khả năng tiếp 
cận. Các dịch vụ ngân hàng chủ yếu đƣợc cung cấp trong phạm vi nội địa. Việc cung cấp 
dịch vụ qua biên giới còn hạn chế. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 84 
Thứ tư, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam có xu hƣớng gia tăng. Năm 2011, 
tỷ lệ nợ xấu tăng từ 3,3% lên đỉnh điểm là 6% năm 2012, sau khi sụt giảm từ mức 6% năm 
2012 xuống 3,79% năm 2013 thì đến năm 2014 nợ xấu đã tăng vọt lên mức 4,11%. Tổng nợ 
xấu của toàn hệ thống NHTM hiện nay vào khoảng 162,2 nghìn tỷ đồng, trong đó nợ có 
khả năng mất vốn tăng nhanh tại nhiều ngân hàng nhƣ: Agribank nợ có khả năng mất vốn 
là 23.650 tỷ đồng; nợ xấu tại Vietinbank ở mức 9.575 tỷ đồng; tại Vietcombank ở mức 
7.047 tỷ đồng; tại NHTM CP Á Châu là 3.479 tỷ đồng... (Nguyễn Đình Hoàn và Nguyễn 
Trọng Kiên, 2015). Tỷ lệ nợ xấu gia tăng khiến cho vốn chủ sở hữu một số ngân hàng bị ăn 
mòn, các NHTM khó duy trì đƣợc hoạt động huy động vốn cũng nhƣ cho vay. Các NHTM 
trong nƣớc khó mà đứng vững cạnh tranh với các ngân hàng nƣớc ngoài trong bối cảnh hội 
nhập kinh tế ASEAN đến gần khi mà năng lực tài chính, năng lực quản trị, năng lực cung 
cấp dịch vụ bị hạn chế. 
3.2. Cơ hội và thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam khi tham gia AEC 
3.2.1. Cơ hội 
Thứ nhất, hội nhập kinh tế với sự ra đời của AEC mang đến cơ hội đa dạng hóa và 
nâng cao chất lƣợng sản phẩm dịch vụ tài chính, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu vốn. 
Để đón đầu cơ hội từ AEC, nhiều NHTM của các nƣớc ASEAN nhƣ Kasikorn của 
Thái Lan, Ngân hàng Phát triển Singapore, Maybank của Malaysia đã thành lập văn 
phòng đại diện tại Việt Nam. Không chỉ có các ngân hàng, mà sẽ có thêm nhiều tập đoàn, 
công ty bảo hiểm, chứng khoán cũng sẽ mở rộng kinh doanh tại thị trƣờng Việt Nam khi 
AEC đi vào hoạt động. Sự hiện diện của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam một mặt 
mang lại cơ hội cho ngƣời tiêu dùng có sự lựa chọn đa dạng hóa hơn đối với các sản phẩm 
dịch vụ tài chính, chất lƣợng sản phẩm cũng đƣợc nâng cao do các ngân hàng phải cạnh 
tranh khốc liệt hơn, không chỉ với các đối thủ trong nƣớc mà cả các đối thủ đến từ các 
nƣớc thành viên AEC. Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tài chính cho các hoạt động đầu tƣ 
kinh doanh của các doanh nghiệp nƣớc ngoài, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực 
dịch vụ tài chính còn có thể thu hút khách hàng Việt Nam dựa trên uy tín thƣơng hiệu, tiềm 
lực tài chính mạnh, sản phẩm đa dạng, chất lƣợng, bề dày kinh nghiệm... Ngoài ra, AEC sẽ 
giúp tăng cƣờng phạm vi che phủ và mức độ phục vụ của ngành dịch vụ tài chính ở những 
vùng, những ngành mà mức độ thâm nhập và phục vụ của dịch vụ tài chính vẫn còn thấp. 
Thứ hai, hội nhập tài chính AEC sẽ giúp lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng 
khoán của Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần và tiếp cận với công nghệ quản trị tiên 
tiến, hiện đại. 
Quy mô GDP của các nƣớc ASEAN đạt trên 2,3 nghìn tỷ USD và tốc độ tăng trƣởng 
bình quân trên 5% mỗi năm, dân số khoảng trên 625 triệu ngƣời, cơ cấu dân số trẻ, mức 
thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt gần 4.000 USD/ngƣời/năm, AEC sẽ khuyến khích các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 85 
hoạt động kinh doanh và đầu tƣ của khu vực ASEAN do cam kết tự do hóa dịch chuyển 
hàng hóa, dịch vụ, lao động, đầu tƣ. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài gia tăng và hoạt động kinh 
tế ở khu vực phát triển tất yếu sẽ kéo theo việc gia tăng nhu cầu đối với các dịch vụ bảo 
hiểm, ngân hàng, chứng khoán ở Đông Nam Á. Các ngành này sẽ có cơ hội mở rộng thị 
phần ra nƣớc ngoài và phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ mới dành riêng cho thị trƣờng 
ASEAN đồng thời tiếp cận với công nghệ quản trị tiên tiến. Trên thực tế, một số ngân hàng 
lớn của Việt Nam cũng đã mở văn phòng đại diện tại thị trƣờng các nƣớc ASEAN, nỗ lực 
mở rộng cơ hội đầu tƣ ra ngoài lãnh thổ. Xu hƣớng này sẽ tiếp tục tăng lên khi ACE chính 
thức đi vào hoạt động. 
Thứ ba, hội nhập sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính 
minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam. 
 Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực hiện các cam kết, các NHTM Việt Nam 
phải nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Sự tham gia thị trƣờng 
của các NHTM nƣớc ngoài không chỉ làm gia tăng mức độ cạnh tranh mà còn gia tăng sự 
lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Mặt khác, thông qua hội nhập, các 
NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý 
của các NHTM phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lƣợng hoạt động 
kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trƣờng trong và ngoài nƣớc, các NHTM 
trong nƣớc phải chủ động thực hiện cơ cấu lại tổ chức theo hƣớng hợp lý và chuyên nghiệp 
hơn, tăng năng lực tài chính, thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, 
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đó là những điều 
kiện quan trọng để các NHTM Việt Nam hoạt động kinh doanh hiệu quả và đứng vững 
trong cạnh tranh. 
Thứ tư, hội nhập giúp các NHTM Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh. 
Việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các NHTM 
trong và ngoài nƣớc đƣợc hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong một môi trƣờng bình 
đẳng. Hội nhập còn đem lại cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội trao đổi, hợp tác 
quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, 
giám sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của các NHTM 
Việt Nam trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế. Ngoài ra, việc hội nhập cũng đòi 
hỏi môi trƣờng pháp lý phải đƣợc cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc tế, tạo môi 
trƣờng đầu tƣ hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nƣớc thông qua đầu tƣ 
trực tiếp và đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn 
lớn hơn. 
3.2.2. Thách thức 
Thứ nhất, hội nhập sẽ mang lại sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt trên thị trƣờng 
ngân hàng Việt Nam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 86 
Mở cửa thị trƣờng tài chính làm tăng số lƣợng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài 
chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần. Hiện nay, Ở Việt 
Nam đã có 61 ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài và 3 ngân hàng liên doanh trong khi đó số 
ngân hàng nội địa sau một thời gian cơ cấu lại còn 31 ngân hàng NHTM cổ phần và 4 ngân 
hàng trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên. 
Xét trong nội bộ ngành ngân hàng, sự có mặt của các ngân hàng nƣớc ngoài đã làm 
tăng sức ép cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng nƣớc ngoài không chỉ 
cạnh tranh với các ngân hàng trong nƣớc trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện 
đại, mà còn cạnh tranh ngay cả về các sản phẩm truyền thống nhƣ tín dụng, thanh toán, 
nhận tiền gửi... Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống NHTM đã có những bƣớc phát triển 
nhất định song khoảng cách giữa các NHTM trong nƣớc và NHTM trong khu vực và trên 
thế giới vẫn còn rất lớn về mọi phƣơng diện. Vì vậy, khi hội nhập, hệ thống NHTM Việt 
Nam cũng gặp phải những thách thức và sức ép không nhỏ. 
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống 
ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý chƣa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, 
thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức 
không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu nhƣ năng lực quản lý và lập pháp không 
theo kịp và không lƣờng trƣớc đƣợc sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài chính - 
ngân hàng thì có thể dẫn tới sự đổ vỡ lan truyền của hệ thống NH. Dễ thấy trƣớc nhất là rủi 
ro đổ vỡ hệ thống khi một ngân hàng nào đó ở nƣớc nào đó đối mặt với khủng hoảng, cơn 
khủng hoảng có thể dễ dàng lan tỏa xa hơn và sâu hơn đến hệ thống ngân hàng ở các nƣớc 
khác trong khối. 
Thứ ba, hội nhập đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có một nguồn nhân lực không 
chỉ có chuyên môn cao về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu luật thƣơng mại quốc 
tế và đƣợc trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá và 
dự báo theo mô hình và chuẩn mực quốc tế, trong khi nguồn nhân lực của các NHTM Việt 
Nam còn rất yếu kém về các kiến thức và kỹ năng trên. Đây là một khó khăn lớn cho các 
NHTM Việt Nam. 
Thứ tư, hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán lạc hậu so với các nƣớc 
trong khu vực, chƣa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng cao chất lƣợng dịch vụ... Đây 
là một cản trở lớn khi nền kinh tế hội nhập, các giao dịch về vốn giữa các quốc gia trong 
khu vực tăng lên, các NHTM Việt Nam khó đáp ứng đƣợc các yêu cầu trong thanh toán 
quốc tế và làm đại lý cho các Ngân hàng nƣớc ngoài. 
4. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 
Nhƣ vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sức ép ngày càng lớn hơn cho 
hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong khi lợi thế tiềm tàng sẽ thuộc về các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 87 
NHTM nƣớc ngoài. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở nƣớc ngoài mà còn diễn ra ngay tại 
thị trƣờng trong nƣớc, nơi mà NHTM Việt Nam vẫn có nhiều ƣu thế nếu biết tận dụng 
những ƣu thế đó. Để có thể nắm vững ƣu thế, tận dụng cơ hội và tăng khả năng cạnh tranh, 
các NHTM Việt Nam cần phải biết vị trí của mình, phải đánh giá đƣợc năng lực cạnh tranh 
của mình dựa trên các chỉ tiêu đã đề cập, từ đó có những biện pháp cải thiện năng lực nội 
tại để nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình. 
Trên cơ sở phân tích SWOT về cơ hội và thách thức của các NHTM Việt Nam 
khi tham gia AEC, một số giải pháp có thể đƣợc đề xuất nhằm phát huy nội lực hạn chế 
điểm yếu nắm bắt cơ hội và khắc phục những thách thức đặt ra đối với hệ thống NHTM 
Việt Nam. 
Một là, nâng cao năng lực tài chính. 
Để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp nhƣ: 
tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao khả 
năng cạnh tranh và chống rủi ro. Đối với các NHTM cổ phần đẩy nhanh quá trình sáp 
nhập, hợp nhất, phát hành cổ phiếu để tăng vốn theo đúng lộ trình. Tầm vóc mới của ngân 
hàng sau sáp nhập không những sẽ giúp nó kiểm soát và bảo vệ đƣợc thị phần trong nƣớc 
mà còn tạo thêm nguồn lực để bành trƣớng ra các nƣớc khác trong khối. 
Hai là, hiện đại hóa ngân hàng. 
Hệ thống NHTM Việt Nam nên đƣợc trang bị công nghệ đồng bộ. Đối với các NH 
đã đƣợc trang bị công nghệ hiện đại cần phải phát huy hết hiệu quả ứng dụng công nghệ 
đó, tránh tình trạng mua các công nghệ hiện đại theo phong trào nhƣng không khai thác 
đƣợc tính năng, ứng dụng của công nghệ gây lãng phí nguồn lực; đối với các NH còn hạn 
chế về công nghệ thì cần xây dựng kế hoạch đầu tƣ có lựa chọn vào công nghệ hiện đại, 
tính năng sử dụng hiệu quả, đồng bộ với toàn hệ thống. 
Các NH cũng nên lập ra phòng, ban chuyên trách nghiên cứu và ứng dụng công nghệ 
hiện đại. Phòng ban này có trách nhiệm nghiên cứu các công nghệ ngân hàng hiện đại trên 
thế giới, nghiên cứu khả năng áp dụng công nghệ của ngân hàng mình để có thể đổi mới 
công nghệ hiệu quả, tiết kiệm thời gian, chi phí. 
Ba là, mở rộng mạng lƣới hoạt động trong và ngoài nƣớc. 
Việc gia tăng mạng lƣới cũng đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí. Do đó, mở rộng 
đồng thời với nâng cao hiệu quả hoạt động của từng chi nhánh, phòng giao dịch là điều hết 
sức cần thiết. Bên cạnh mở rộng mạng lƣới, cần phải cân bằng với sự phát triển cũng nhƣ 
nguồn lực của ngân hàng và cũng cần phải cân bằng với việc ứng dụng và phát triển công 
nghệ thông tin tiếp cận khách hàng. Các chi nhánh, phòng giao dịch mới cần phải đƣợc 
hiện đại hóa về cơ sở vật chất cũng nhƣ nguồn nhân lực. 
Bên cạnh việc mở rộng mạng lƣới trong nƣớc, các ngân hàng cần củng cố và mở 
rộng mạng lƣới chi nhánh ở nƣớc ngoài, mở rộng quan hệ với các ngân hàng trên thế giới 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 88 
thông qua việc liên kết, làm đại lý, tăng cƣờng số lƣợng ngân hàng đại lý hoặc mở rộng 
việc cung cấp các sản phẩm cho các ngân hàng nƣớc ngoài... Tăng số lƣợng ngân hàng đại 
lý sẽ giúp cho các NHTM Việt Nam tăng uy tín của mình đối với khách hàng trong nƣớc 
cũng nhƣ với khách hàng và các ngân hàng khác trên thế giới. 
Bốn là, nâng cao năng lực cạnh tranh. 
Để có lợi thế trong cạnh tranh, các NHTM Việt Nam cần xây dựng chiến lƣợc kinh 
doanh dài hạn, từng bƣớc quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực 
có chất lƣợng cao, tận dụng lợi thế về thị phần và am hiểu thị trƣờng cũng nhƣ tăng chất 
lƣợng tài sản để tạo vị thế vững chắc đối với sự thâm nhập thị trƣờng của các ngân hàng 
nƣớc ngoài. 
Năm là, hạn chế những rủi ro của thị trƣờng tài chính khi hội nhập AEC. 
Với một thị trƣờng chung cho toàn khu vực ASEAN, việc nhận diện và giám sát rủi 
ro hệ thống tài chính là yêu cầu thiết yếu đối với mọi quốc gia, nhất là với các nƣớc đang 
trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng nhƣ Việt Nam. Chính 
phủ Việt Nam cũng nhƣ chính phủ của các nƣớc thành viên ASEAN phải phối hợp và làm 
việc chặt chẽ với nhau để hoàn thiện khuôn khổ giám sát tài chính và chế tài để xử lý tình 
huống lây lan khủng hoảng trong hoạt động ngân hàng. Để tránh đƣợc rủi ro này, Ngân 
hàng Nhà nƣớc cần ứng dụng các mô hình phân tích định lƣợng, cảnh báo sớm, kiểm định 
rủi ro dựa trên tiêu chuẩn quốc tế đối với từng định chế tài chính riêng lẻ cũng nhƣ toàn hệ 
thống tài chính để nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa, phục vụ tốt hơn cho 
hoạt động điều hành vĩ mô và ổn định kinh tế. Các NHTM cũng nên chủ động các biện 
pháp ứng phó kịp thời để giảm thiểu tác động tiêu cực đối với thị trƣờng tài chính khi dòng 
vốn đảo chiều đột ngột. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phạm Thái Hà (2010), Ngân hàng thương mại Việt Nam hội nhập quốc tế, cơ hội và 
thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán số 38. 
[2] Nguyễn Thị Cẩm Thủy, Lê Bích Ngọc (2010), Phân tích SWOT về môi trường kinh 
doanh nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp 
chí Ngân hàng số 5. 
[3] Vũ Duy Vĩnh (2014), Cơ hội và thách thức với Việt Nam khi tham gia cộng đồng 
kinh tế ASEAN 2015, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán số 12/2014. 
[4] Nguyễn Đình Hoàn, Nguyễn Trọng Kiên (2015), Thách thức đối với hoạt động ngân 
hàng Việt Nam và một số giải pháp tháo gỡ, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán 
số 07/2015. 
[5] Báo cáo môi trƣờng kinh doanh của WEF năm 2014. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ ĐẶC BIỆT 11. 2015 
 89 
VIETNAM COMMERCIAL BANKING SYSTEM WHEN JOINING 
AEC: ANALYSIS BY SWOT TECHNIQUE 
Ngo Viet Huong 
ABSTRACT 
According to the plan, the ASEAN Economic Community (AEC) will be formed by the 
end of 2015. When engaged AEC, Vietnam banking system will take advantage to absorb 
the improvements in science and banking technology as well as the management 
experience from other ASEAN countries. Despite the positive impacts, the process of 
international economic integration also poses many challenges for the banking system. 
Vietnam banks must actively innovate about management methods, improve 
competitiveness and build an appropriate roadmap to gradually integrate to the market 
mechanism by their own, faster adapt to the impacts from outside. To increase the 
autonomy of the integration process, the banking sector should fully recognize the 
challenges as well as advantages to propose suitable development strategy in the future. 
This article analyzed the opportunities and challenges, and made some recommendations 
to improve the competitiveness of commercial banks to join the AEC. 
Keywords: AEC, Commercial Bank, Vietnam, opportunities, challenges 

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_khi_tham_gia_aec_phan.pdf