Hệ thống giới hạn - Sửa đổi R-M IIG hỗ trợ cho việc tạo ra các protein có tính đặc hiệu mới
Hệ thống giới-Hạn sửa đổi R-M II tồn tại ở thế giới vi khuẩn gồm có hai chức năng quan trọng là cắt giới hạn và methyltransferase. Enzym giới hạn II đã có vai trò thiết yếu cho sự thúc đẩy của sinh học phân tử. Tiếp theo là các methyltransferase đã trở thành enzym mà các nhà khoa học quan tâm đến, vì có thể có vai trò quan trọng trong quá trình điều hòa gen. Sau khi ADN được tổng hợp, trong các thay đổi ngoại di truyền (epigenetic) tạo ra các tín hiểu mở đóng gen, sự methyl hóa acid nucleic thông qua toàn bộ genom là rất phổ biến. Tiếp tục sàng lọc và phân tích các hệ thống R-MII ở vi khuẩn là cần thiết để phục vụ nghiên cứu sự điều hòa gen. Sự khám phá mới của các hệ thống R-M IIG mang cả hai chức năng cắt giới hạn và methyl hóa trên một protein duy nhất đã cho phép cải tiến sàng lọc enzym trong GenBank. Việc xác định tính đặc hiệu của một họ enzym R-M IIG tái tổ hợp cho phép tìm ra một số quy luật về tương tác giữa acid amin và nucleotid nhận biết. Trên cơ sở đó, protein có tính đặc hiệu mới đã được tạo ra thành công
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống giới hạn - Sửa đổi R-M IIG hỗ trợ cho việc tạo ra các protein có tính đặc hiệu mới
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 135 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE HỆ THỐNG GIỚI HẠN - SỬA ĐỔI R-M IIG HỖ TRỢ CHO VIỆC TẠO RA CÁC PROTEIN CÓ TÍNH ĐẶC HIỆU MỚI Lê Thị Kim Tuyến1 TÓM TẮT Hệ thống giới-hạn sửa đổi R-M II tồn tại ở thế giới vi khuẩn gồm có hai chức năng quan trọng là cắt giới hạn và methyltransferase. Enzym giới hạn II đã có vai trò thiết yếu cho sự thúc đẩy của sinh học phân tử. Tiếp theo là các methyltransferase đã trở thành enzym mà các nhà khoa học quan tâm đến, vì có thể có vai trò quan trọng trong quá trình điều hòa gen. Sau khi ADN được tổng hợp, trong các thay đổi ngoại di truyền (epigenetic) tạo ra các tín hiểu mở đóng gen, sự methyl hóa acid nucleic thông qua toàn bộ genom là rất phổ biến. Tiếp tục sàng lọc và phân tích các hệ thống R-MII ở vi khuẩn là cần thiết để phục vụ nghiên cứu sự điều hòa gen. Sự khám phá mới của các hệ thống R-M IIG mang cả hai chức năng cắt giới hạn và methyl hóa trên một protein duy nhất đã cho phép cải tiến sàng lọc enzym trong GenBank. Việc xác định tính đặc hiệu của một họ enzym R-M IIG tái tổ hợp cho phép tìm ra một số quy luật về tương tác giữa acid amin và nucleotid nhận biết. Trên cơ sở đó, protein có tính đặc hiệu mới đã được tạo ra thành công. Từ khóa: Hệ thống R-M II; enzym giới hạn; methyltransferase; xác định tính đặc hiệu; nghiên cứu in silico. SUMMARY: RESTRICTION-MODIFICATION SYSTEM IIG ALLOWS ENGINEERING OF NEW PROTEIN SPECIFICITIES Restriction-Modification RM II systems, specific of the bacterial kingdom, have two important enzymatic functions which are restriction endonuclease and methyltransferase. Restriction enzymes had already an essential role in the developement of the molecular biology. Now scientists are interested in methyltransferases for their role in the gene regulation process. After the DNA synthesis, among the epigenetic modifications that could lead to turn the genes on and off, the methylation throughout the genom is usual. Thus, screening of R-M II systems in bacteria is still necessary to provide more tools for the DNA research. The new discovery of the R-M II G systems bearing the two endonuclease and methyltransferase on one unique protein has allowed the possibility to be screened in Genbank. From the specificity determination of recombined R-M IIG enzymes belonging to the same family, some rules could have been deduced to know the interactions between the amino acids and the nucleotides recognized. On that basis, proteins with new specificities has been successfully engineered. Key words: R-M II system; restriction enzyme; methyltransferase; specificity determination; in silico research. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khi khám phá các enzym giới hạn II vào năm 1968, chức năng cắt ADN ở các vị trí đặc hiệu đã cho phép phân tích ADN genom, một đại phân tử gồm vài triệu nucleotid ở các loài vi khuẩn và vài tỷ nucleotid ở các tế bào cao cấp. Các enzym giới hạn đã trở thành những công cụ có ích đã thúc đẩy sự phát triển của ngành sinh học phân tử [1], [2]. Có ba phương pháp nổi bật nhất được thiết lập nhờ có enzym này: 1) Bản đồ giới hạn ADN và tạo ra những dấu vết ADN đặc hiệu như dấu vân tay, không chỉ cho phép phân biệt giữa các loài sinh vật với nhau mà còn có thể phân biệt 2 cả thể cùng một loài; 2) Phương pháp sản xuất protein tái tổ hợp dùng chức năng cắt đặc hiệu ADN để gắn gen vào vector nhằm biến nạp vào một vi trùng dễ mọc như Escherischia coli được dùng như một nhà máy sản xuất protein. 3) ADN genom được cắt giới hạn tạo ra những đoạn ADN đủ nhỏ để được giải trình tự, khi ghép lại với nhau đưa ra trình tự của toản bộ ADN genom khổng lồ. Trước đây, enzyme giới hạn chỉ được coi như là những công cụ dùng trong nghiên cứu. Nhưng nó tồn tại dưới hình thức là một hệ thống giới hạn - sửa đổi với methyltransferase cùng một tính đặc hiệu. Hiện nay, các methyltransferase còn được quan tâm nhiều hơn vì nó tham gia vào các biến đổi 1. Trường đại học Thăng Long, Hà Nội - Email: [email protected] Ngày nhận bài: 05/02/2017 Ngày phản biện: 18/02/2017 Ngày duyệt đăng: 25/02/2017 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn136 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ngoại di truyền (epigenetic), trên cơ sở đó việc tìm ra các hệ thống R-M II có tính đặc hiệu mới cần phải. Việc khám phá các protein R-M IIG làm thay đổi cách sàng lọc các protein có tính đặc hiệu mới với hiệu quả cao, thậm chí cho phép hiểu được quy luật tương tác giữa acid amin và nucleotide nhận biết. Quy luật được suy ra lần đầu tiên ở một họ protein giống MmeI và cho phép tạo ra các enzyme có tính đặc hiệu mới bằng đột biến gen tương tự ở các chỗ qui định. Nghiên cứu sàng lọc enzyme giới hạn theo phương pháp cổ điển đến khả năng tạo ra enzyme mới bằng phương pháp đột biến gen được trình bày từng giai đoạn sau. II. NỘI DUNG 2.1. Quá trình sang lọc enzyme giới hạn II nhiều đặc hiệu khác nhau New England Biolabs là công ty đầu tiên vừa sản xuất enzym giới hạn II vừa sàng lọc những enzim có tính đặc hiệu mới. Từ 1968 đến 2005, một số phòng thí nghiệm ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam [3], [4] đã cùng tham gia sàng lọc các enzym giới hạn từ các vi khuẩn thiên nhiên. Phương pháp đã dùng phổ biến gồm có giai đoạn mọc vi khuẩn thuần chủng, thử phản ứng dịch thô của tế bào phá vỡ với ADN chuẩn. Sự có mặt của enzym giới hạn hoạt tính được khẳng định khi thấy băng ADN cắt giới hạn. Phương pháp này không hiệu quả bằng phương pháp sinh học phân tử, dùng ADN dò để tìm gen. Nhưng những gen của enzym đã được tìm ra trong thời gian đó có độ giống nhau ít về trình tự, do vậy rất khó được nhận ra trực tiếp trên cả genom. Tuy nhiên enzym giới hạn II luôn thuộc một hệ thống sửa đổi-giới hạn II (R-M II) gồm một enzym giới hạn và một methyltransferase thường được mã bởi hai gen nằm sát gần nhau trên genom. Chính gen methyltransferase có những đặc điểm trình tự cho phép phân biệt các gen này trong cả genom [5]. Do đó, có thể phát hiện ra gen enzym giới hạn một cách gián tiếp, khi dò gen methyltransferase trước, biết rằng gen enzym giới hạn nằm sát bên cạnh, bên phải hoặc bên trái. New Englands Biolabs đã sản xuất hơn 250 enzym giới hạn có tính đặc hiệu khác nhau được phân phối khắp thế giới [6]. Danh sách này chủ yếu gồm enzym nhận ra trình tự nucleotid xuôi ngược và có số lượng enzym nhiều, không cần thiết bổ sung vào enzym mới khác nếu chỉ nhằm mục đích có thêm công cụ cho các phương pháp sinh học phân tử. Tuy nhiên, việc tiếp cận với enzym giới hạn không chấm dứt được vì nó là bộ phận không tách rời được của một hệ thống R-M. Hiện nay, các nghiên cứu thời sự thiên về sự điều hòa của các gen, hiểu được các cơ chế khiến protein được sản xuất ở mức độ cần thiết và đúng thời điểm để bảo đảm sự sống của tế bào. Cụ thể hơn, sự rối loạn trong quá trình điều hòa này có thể giải thích nguyên nhân của một số bệnh ung thư. Các loại điều hòa dẫn đến sự đóng mở của gen vậy cần phải có tín hiệu đặc biệt. Trình tự nucleotid của toàn bộ ADN genom cho phép xác định vị trí và tính chất các gen của một tế bào, tuy nhiên, sau khi ADN tổng hợp, có những thay đổi ngoại di truyền (epigenetic) xẩy ra được giả thuyết là tham gia vào sự điều hòa gen. Trong các hiện tượng ngoại di truyền, sự methyl hóa của nucleotid rất phổ biến, do vậy các methyltransferase chiếm một vai trò quan trọng. Vì lý do này, việc sàng lọc và phân tích các hệ thống R-M ở vi khuẩn tiếp tục có lợi ích nhằm tạo ra khả năng tìm những công cụ mới phục vụ việc nghiên cứu ADN. Sự phát hiện họ protein R-M IIG có trình tự giống nhau nhưng nhận ra các trình tự nucleotid khác nhau đã thay đổi cách sàng lọc các hệ thống giới hạn-sửa đổi nhanh và hiệu quả hơn. 2.2. Các protein R-M IIG mang cả hai chức năng sửa đổi và giới hạn Gần đây, một họ enzym giới hạn đã được khám phá, với đặc điểm khác so với enzym giới hạn cổ điển. Đại diện của họ enzym được tìm đầu tiên này là MmeI thuộc vi khuẩn Methylophilus methylotrophus. MmeI được mô tả như là một protein duy nhất mang hai chức năng giới hạn và methyl hóa ADN, nhận biết trình tự không đối xứng 5'-TCCRAC-3' cắt 20/18 N ngoài trình tự nhận biết. Nó có những đặc tính của endonuclease và methyltransferase tạo ra N6-methyl adenine, được nhận xét thông qua trình tự protein tại 3 khu vực chức năng: - Ở phần đầu có đoạn cố định P(D)...(D/E)XK đánh dấu được vị trí hoạt động của sự phân huỷ liên kết phosphodiester trên acid nucleic, đặc điểm này thuộc về các endonuclease phụ thuộc vào kim loại. Cụ thể ở đây là VD70 (9X)E80MK82; - Ở giữa có những đoạn cố định đặc hiệu của các methyltransferase tạo ra N6-methyl adenine, gồm có motif I, G312AHYTS, motif X, F359FDPACGCGNFL và motif IV, G480NPPF. - Ở cuối, có vùng TRD (Target Recognition Domain) nhận ra trình tự nucleotid đích, trường hợp của MmeI là 5'-TCCRAC-3'. Hệ thống R-M này chỉ có một protein mang hai chức năng cùng lúc (được phân loại là R-M II G) là đơn giản hóa quá trình tự bảo vệ của vi khuẩn chống sự xâm nhập của ADN lạ. Với các hệ thống R-M II cổ điển, chức năng cắt và sửa đổi được mang trên 2 protein khác nhau, tức là mỗi protein có một vùng TRD riêng. Như vậy, khi xảy ra đột biến, làm thay đổi trình tự nhận biết đặc hiệu của endonuclease, thì khả năng có cùng thay đổi xảy ra với methyltransferase gần như không. Điều này dẫn đến sự chết của tế bào chủ vì ADN bị SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 137 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE cắt ở những trình tự nucleotid mới nhận biết và không được methyl hóa. Trong khi đó, MmeI chỉ có một vùng chung TRD nhận ra ADN ở trình tự nucleotid đặc hiệu. Khi đột biến xảy ra trong vùng TRD duy nhất này làm thay đổi trình tự nhận biết, lúc đó chức năng giới hạn và sửa đổi dựa vào vùng TRD chung mới và tiếp tục phối hợp với nhau để đảm bảo ADN genom tế bào chủ được bảo vệ trong khi ADN lạ không được bảo vệ sẽ bị phân hủy. 2.3. Nghiên cứu tương tác acid amin và nucleotide ở họ MmeI Ở thế giới vi khuẩn, đột biến có thể xảy ra với tỷ lệ cao và chúng ta có thể đặt giả thuyết rằng trong thiên nhiên, các gen tương tự với MmeI có thể có những đột biến khác nhau trong vùng TRD dẫn đến các trình tự nucleotid khác nhau được nhận biết. Sự khám phá của họ enzym giống MmeI có thể chứng minh một phần nào rằng giả thuyết này là đúng. Dựa trên các phần mềm so sánh trình tự acid amin của MmeI để khai thác các trình tự đã được công bố ở GenBank, kết quả liệt kê nhiều enzym giả định giống MmeI, có độ giống nhau cao, thuộc về nhiều vi khuẩn khác nhau. Các tác giả [7] xin các ADN genom trong danh sách này, để phân tích gen giả định mã cho enzym thuộc họ MmeI. Gen được nhân lên bằng PCR và sản phẩm ADN khuếch đại được clon vào Escherischia coli. Khi tế bào tái tổ hợp biểu hiện enzyme giới hạn, các tính đặc hiệu được xác định cho thấy có nhiều trình tự được nhận ra (Bảng 1). Như vậy, mỗi protein phân tích có một vùng TRD nhận ra một trình tự nucleotid riêng biệt. Khi đối chiếu các trình tự acid amin của vùng TRD với các trình tự nucleotid được nhận ra, có những kết quả nổi bật. Số thứ tự của các nucleotid trong trình tự nhận biết 6 nucleotid được ghi như sau: nucleotid cuối cùng là số 6 và nucleotid đầu tiên là 1. Trong họ MmeI, các protein nhận biết nucleotid thứ 5 đều là A. Những quy luật đơn giản có thể được suy ra với nucleotid 6, là C hoặc G (Hình 1). Một đôi acid amin được quan sát có tương quan cao với nucleotid số 6 này. Ở vị trí tương tự MmeI R808, nucleotid C được nhận ra bởi một arginine (R) và nucleotid G được nhận ra bởi aspartate (D). Ở vị trí tương tự MmeI E806 acid amin thứ 2 là glutamate (E) có một vai trò nhận ra nucleotid C với tỷ lệ 9/10 protein; acid amin thứ 2 có vai trò nhận ra nucleotid G là lysine (K) với cùng một tỷ lệ. Bảng 1 : Danh sách các enzym hạn chế họ MmeI đã xác định tính đặc hiệu Tuy phức tạp hơn, quy luật có thể được suy ra với nucleotid số 3 như thấy ở Hình 2. Ở đây cũng nhận xét có một đôi acid amin tương quan với sự nhận ra nucleotid số 3 này, là G (10 enzym), là C (7 enzym), là T (3 enzym) hoặc Y nhận ra pyrimidine C hoặc T (1 enzym). Những enzym nhận ra G đều có acid amin có điện tích dương (K hoặc R), ở vị trí tương tự MmeI E751, trong khi nucleotid C được nhận ra bởi acid amin D có điện tích âm (5/7) hoặc serine (R). Cái acid amin thứ 2 ở vị V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn138 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Hình 1: Đoạn trình tự acid amin các vùng TRD đối chiếu với nucleotid số 6 ở trình tự nhận biết trên ADN. Hình 2: Đoạn trình tự acid amin các vùng TRD đối chiếu với nucleotid số 3 ở trình tự nhận biết trên ADN. trí tương tự Mme I N773 tham gia vào sự nhận biết của nucleotid G là acid amin D (7/10) hoặc S. Đối với những enzym nhận ra C, có một asparagine (N), một serine (S) hoặc một histidine (H). SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 139 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2.4. Tương tác quan hệ acid amin và nucleotid ở họ MmeI dùng để tạo ra enzym R-M IIG có tính đặc hiệu mới. Từ các tương tác đưa ra ở trên, sự nhận biết của 2 enzym MmeI (TCCRAG) và NmeAIII (GCCGAC) cùng một họ được thử nghiệm bằng cách tạo ra những đột biến trên gen tương tự [8]. Các thay đổi acid amin trên enzym được thực hiện để nghiên cứu sự nhận biết ở nucleotid số 6, số 3 và số 4. Kết quả cắt ADN chuẩn của những enzym thay đổi được thấy ở trên Hình 5. Để thay đổi sự nhận biết ở nucleotid số 6 từ MmeI để có nucleotid G thành nucleotid C, đột biến đôi được thực hiện để E thành K ở vị trí MmeI 806 (ghi tóm tắt là MmeI E806K) và để R thành D ở vị trí MmeI 808 (MmeI R808D). Một thử nghiệm được thực hiện với NmeIII để thay thế sự nhận biết ở nucleotid số 6 để có nucleotid C thành nucleotid G bằng tạo ra đột biến đôi NmeAIII K816E và NmeAIII D818R. Hai kết quả với MmeI (6G) và NmeAIII (6C) đã cho thấy những băng giới hạn của ADN chuẩn lambda cắt với enzym thay đổi này giống các băng lý thuyết cắt ở đứng vị trí TCCRAG và GCCGAG. Khi thay đổi nucleotid 4 bằng đột biến đôi MmeI A774L, kết quả chỉ rằng enzym mới tạo ra có đặc hiệu chờ đợi là TCCGAC, với ít đoạn giới hạn hơn của hình vạch MmeI gốc mà nhận ra TCCRAG tức là TCCAAG và TCCGAC. Khi tạo ra đột biến đôi MmeI A774K, R810S, enzym có đặc hiệu mới là TCCCAC. Những thay đổi phối hợp được thực hiện với MmeI ở cả hai vị trí nucleotid số 4 và số 6 như trên cùng lúc bằng tạo ra ba đột biến A774L, E806K và R808D. Kết quả dẫn đến một enzym với đúng đặc hiệu chờ đợi là TCCGAG. Những thay đổi phối hợp được thực hiện với NmeAIII ở 3 vị trí nucleotid số 3, 4 và 6 cùng lúc bằng tạo ra 5 đột biến S761R, N783D, L784A, K816E và D818R. Trường hợp cuối cùng này cũng dẫn đến có một enzym có tính đặc hiệu mới là TCGRAC. Hình 3: Đoạn trình tự acid amin các vùng TRD đối chiếu với nucleotid số 4 ở trình tự nhận biết trên ADN. Đối với nucleotid số 4 (Hình 3), có một enzym nhận ra nucleotid A, 5 enzym nhận ra nucleotid C, 9 enzym nhận ra nucleotid G, 4 enzym nhận ra R (nucleotid A hoặc G) và 2 enzym nhận ra N (bất cứ nucleotid nào). Trong trường hợp này cũng thấy có sự tham gia của một đôi acid amin. Các purine (A, G hoặc cả hai là R) được nhận ra bởi acid amin R ở vị trí tương tự với MmeI R810. Acid amin thứ 2 ở vị trí tương tự MmeI A774 nhận ra nucleotid G, có thể là leucine (L), Methionine (M), acid glutamic (E) hoặc Threonine (T). V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn140 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC III. KẾT LUẬN Phương pháp này cho thấy một khả năng mới để khai thác các số liệu khổng lồ và phong phú của những trình tự genom ADN được công bố trên GenBank. Các gen được chọn in silico chỉ là những đoạn nucleotid được phân tích có dấu hiệu là mã cho protein về mặt lý thuyết. Như thế, danh sách các enzym thuộc họ MmeI mà xuất hiện trên màn hình máy tính chỉ được coi như là protein “giả thuyết” ở đây là “methyltransferase giả định”. Những ADN genom của chủng vi khuẩn nhất định đã được công bố trình được dùng để clon gen được chọn lọc. Chỉ có khi protein biểu hiện hoạt tính mới khẳng định được tính chất thực của gen [9]. Hiệu quả cao của phương pháp này là có sản phẩm tái tổ hợp hoạt tính. Mặt khác, việc khám phá họ các enzym giống MmeI đã cho phép sàng lọc thêm methyltransferase mới. Tính đặc hiệu của chúng chỉ xác định thông qua phản ứng giới hạn được phân tích in vitro. Quá trình nghiên cứu này cũng dẫn đến sự hiểu biết về vài qui tắc trong tương tác acid amin và nucleotid cuả riêng họ MmeI này. Trên cơ sở đó, enzym khác có tính đặc hiệu mới được tạo ra thành công. Hình 5: Băng cắt ADN chuẩn lambda với MmeI và NmeIII nguyên vẹn hay thay đổi. A: Kết quả gel agarose. B kết quả lý thuyết. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Loenen W.A.M., Dryden D.T.F., Raleigh E.A. và cộng sự. (2014). Highlights of the DNA cutters: a short history of the restriction enzymes. Nucleic Acids Res, 42(1), 3–19. 2. Roberts R.J (2005). How restriction enzymes became the workhorses of molecular biology. Proc Natl Acad Sci U S A, 102(17), 5905–5908. 3. Lê Thị Kim Tuyến và Vũ Hồng Nga (1997). Phát hiện và xác định một enzym giới hạn mới BciV I, tách từ Bacillus circulans. Tạp chí học Dự phòng, VII(4(34). 4. Lê Thị Kim Tuyến và Vũ Thị Kim Liên (1997). Sml I, một enzym giới hạn mới tách chiết từ chủng Stenotrophomonas maltophilia. Tạp chí học Dự phòng, VII(4 (34), 11–16. 5. Wilson G.G (1991). Organization of restriction-modification systems. Nucleic Acids Res, 19(10), 2539–2566. 6. Pingoud A, Wilson G.G, và Wende W (2014). Type II restriction endonucleasesa historical perspective and more. Nucleic Acids Res, 42(12), 7489–7527. 7. Morgan R.D, Dwinell E.A, Bhatia T.K và cộng sự (2009). The MmeI family: type II restriction–modification enzymes that employ single-strand modification for host protection. Nucleic Acids Res, 37(15), 5208–5221. 8. Morgan R.D và Luyten Y.A (2009). Rational engineering of type II restriction endonuclease DNA binding and cleavage specificity. Nucleic Acids Res, 37(15), 5222–5233. 9. Tuyến L.T.K, Hòa B.K, Thành V.N và cộng sự (2015). Biểu hiện và xác định enzyme giới hạn họ Mme tìm in silico. Tạp chí Công nghệ Sinh học, 13(3), 831–836.
File đính kèm:
he_thong_gioi_han_sua_doi_r_m_iig_ho_tro_cho_viec_tao_ra_cac.pdf

