Hát bội Bình Định ở đình, miếu

Bài viết này trình bày sinh hoạt hát bội Bình Định ở đình, miếu, là hai không gian diễn xướng tiêu biểu

thuộc không gian thiêng của Hát bội Bình Định. Hát bội Bình Định phổ biến trong những sinh hoạt tế lễ

tại đình, miếu; vừa để dâng cúng thần thánh, vừa để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân trong và

ngoài tỉnh Bình Định.

pdf 12 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Hát bội Bình Định ở đình, miếu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hát bội Bình Định ở đình, miếu

Hát bội Bình Định ở đình, miếu
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 
66 
Hát bội Bình Định ở đình, miếu 
Lasciviousness’s Binh Dinh in village communal houses, temples 
ThS. Đào Thị Nhu Mì, 
Nhạc viện TP.HCM 
M.A. Dao Thi Nhu Mi, 
Ho Chi Minh City Conservatoire 
Tóm tắt 
Bài viết này trình bày sinh hoạt hát bội Bình Định ở đình, miếu, là hai không gian diễn xướng tiêu biểu 
thuộc không gian thiêng của Hát bội Bình Định. Hát bội Bình Định phổ biến trong những sinh hoạt tế lễ 
tại đình, miếu; vừa để dâng cúng thần thánh, vừa để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân trong và 
ngoài tỉnh Bình Định. 
Từ khóa: đình, miếu, không gian diễn xướng, không gian thiêng, hát bội Bình Định 
Abstract 
This article provides information about the lasciviousness’s Binh Dinh in village communal houses, 
temples, two of the typical performing spaces in the sacred space of lasciviousness’s Binh Dinh. The 
lasciviousness’s Binh Dinh is popular among ceremonial activities in village communal houses temples; 
offering worship to the gods, satisfying the entertainment needs of the people in and outside the 
province of Binh Dinh. 
Keywords: village communal houses, temples, performing space, scared space, lasciviousness’s Binh Dinh 
1. Đặt vấn đề 
Hát bội Bình Định (còn gọi là hát bội 
Đào Tấn) là một trong những phong cách 
của nghệ thuật sân khấu hát bội truyền 
thống Việt Nam. Hát bội Bình Định hình 
thành từ thế kỷ XVII nhờ công lao của Đào 
Duy Từ, phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX nhờ 
vai trò to lớn của Đào Tấn. Trải qua bao 
thăng trầm của lịch sử, hát bội Bình Định 
vẫn tồn tại trong đời sống của người dân 
Bình Định. 
Hát bội Bình Định rất có giá trị trong 
đời sống người Bình Định. Thế kỷ XIX, 
hát bội Bình Định đã đạt đến cực thịnh, 
phổ biến, lan rộng, ảnh hưởng khắp cả 
miền Trung và Việt Nam. Việc nghiên cứu 
không gian đình, miếu – không gian diễn 
xướng Hát bội Bình Định để thấy được đặc 
điểm và giá trị của không gian đình, miếu 
đối với sự tồn tại của hát bội Bình Định 
trong đời sống tinh thần của người dân 
Bình Định nói riêng và người dân vùng 
duyên hải Nam trung bộ nói chung và để 
góp công lưu truyền, gìn giữ Hát bội Bình 
Định đến mai sau. 
Bài viết này tập trung vào đối tượng 
nghiên cứu là không gian đình, không gian 
miếu (thuộc không gian diễn xướng của hát 
bội Bình Định). Nghiên cứu không gian 
diễn xướng (đình, miếu) của hát bội Bình 
67 
Định ở Bình Định và ở những nơi hát bội 
Bình Định diễn ra (không giới hạn về mặt 
địa lý) trong thời gian khoảng 10 năm gần 
đây (2006-2015). 
Bài viết sử dụng các phương pháp 
nghiên cứu chính như sau: 
Phương pháp so sánh: So sánh không 
gian diễn xướng (đình, miếu) của hát bội 
Bình Định và của hát bội ở nơi khác, như 
Bắc bộ, Nam bộ, Trung bộ (Bắc trung bộ 
và các tỉnh Nam trung bộ khác). 
Phương pháp khảo sát thực địa: Tìm 
hiểu không gian diễn xướng hát bội Bình 
Định thông qua việc tham dự các buổi biểu 
diễn hát bội; khảo sát các hoạt động tổ 
chức và biểu diễn của các đoàn hát bội 
Bình Định... 
2. Một số khái niệm cơ bản 
2.1. Khái niệm “không gian 
diễn xướng”, “không gian thiêng”: 
Không gian diễn xướng của Hát bội 
Bình Định chính là nơi (không gian cụ thể: 
đình, miếu, lăng, đền, sân khấu, nhà...), các 
điều kiện hình thức (lễ hội, tập tục...) cùng 
với thời gian (ngày giờ, tháng...) diễn ra 
quá trình sinh hoạt Hát bội Bình Định (ở 
trong và ngoài tỉnh Bình Định). 
Không gian diễn xướng của hát bội 
Bình Định gồm hai loại: không gian thiêng 
(không gian thờ cúng) và không gian đời 
thường. Không gian thiêng là không gian 
gắn với các hoạt động sinh hoạt hát bội ở 
các cơ sở thờ tự như đình, miếu, đền, chùa, 
lăng... Không gian đời thường là không 
gian tách khỏi các hoạt động ở các cơ sở 
thờ tự. Hát bội Bình Định gắn bó với hai 
không gian diễn xướng này. 
Qua kết quả khảo sát của chúng tôi từ 
các tờ hợp đồng diễn của các đoàn hát bội 
Bình Định (từ 2006 đến 2015), không gian 
diễn xướng hát bội Bình Định gồm có 350 
địa điểm phổ biến khắp trong và ngoài tỉnh 
Bình Định. Trong đó, không gian thiêng 
gồm 308 địa điểm (chiếm 88%) và không 
gian đời thường gồm 42 địa điểm (chiếm 
12%). Xem Hình 1. Sơ đồ không gian diễn 
xướng hát bội Bình Định. 
Trong 308 địa điểm không gian 
thiêng, đình (27 cái) chiếm 9%, miếu (181 
cái) chiếm 59%, lăng (75 cái) chiếm 24%, 
đền (8 cái) chiếm 2%), chùa (5 cái) chiếm 
2%, từ đường (12 cái) chiếm 4%. Xem 
Hình 2. Sơ đồ không gian thiêng của hát 
bội Bình Định. 
không 
gian 
thiêng
88%
không 
gian đời 
thường
12%
Không gian diễn xướng
hát bội Bình Định
 ình 1. Sơ đồ Không gian diễn xướng hát 
bội Bình Định. 
đình
9%
miếu
59%
lăng
24%
đền
2%
chùa
2%
từ đường
4%
Không gian thiêng
 ình 2. Sơ đồ không gian thiêng của hát 
bội Bình Định 
68 
2.2. Khái niệm “hát bội”, “hát bội 
Bình Định”: 
Hát bội là một trong ba loại hình nghệ 
thuật sân khấu truyền thống Việt Nam (Hát 
bội, Chèo, Cải lương). Hát bội được hình 
thành vào thế kỷ XIII ở miền Bắc Việt 
Nam; phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX ở 
miền Trung nhờ sự bảo hộ của triều đình 
nhà Nguyễn và suy yếu vào đầu thế kỷ XX. 
Đến nay, hát bội đã được nhà nước quan 
tâm và đang dần dần phục hồi. 
Hát bội thể hiện tính tổng hợp cao về 
hát, múa, kịch, văn học, mỹ thuật, võ 
thuật Hát bội thể hiện tính chất tượng 
trưng, ước lệ, cách điệu cao nhất trong ba 
loại hình nghệ thuật sân khấu. Trong nghệ 
thuật biểu diễn hát bội, nhiều quy tắc, kỹ 
thuật biểu diễn, trình thức, mô hình nhân 
vật đã hình thành, tạo nên đặc trưng của 
hát bội Việt Nam. 
Về thuật ngữ, hát bội còn gọi là hát bộ 
hay tuồng. Có nhiều người giải thích khác 
nhau về nguồn gốc các thuật ngữ này. Tuy 
nhiên, chúng đều chỉ là tên gọi của một 
loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống 
Việt Nam, xuất hiện từ xa xưa và tồn tại 
đến ngày nay ở Việt Nam. 
Theo Trần Văn Khải, gọi là “hát bội” 
vì xuất phát từ chữ “bội” trong “gia bội”, 
“bội nhị” (thêm gấp hai gấp ba lần), tức chỉ 
loại nghệ thuật sân khấu dùng lối ca hát, 
múa may, làm điệu bộ được cách điệu lên 
rất nhiều [Trần Văn Khải 1970: 2,3]. 
Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng cho rằng, 
“bội”: là hát kịch, diễn kịch, diễn tuồng 
[Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng 1970: 249]. 
Theo Đoàn Nồng, gọi là “hát bộ” vì 
người ta cho rằng đây là loại nghệ thuật sân 
khấu “vừa hát, vừa đi và làm bộ tịch để 
biểu diễn cảm giác, cảm tình với câu hát”. 
Và tên gọi này cũng xuất phát từ “Học bộ 
đình” (tên của nhà dạy hát bội của Đào 
Tấn) mà ra [Đoàn Nồng 1942: 9]. 
Trong nhiều tài liệu, các nhà nghiên 
cứu cho rằng, tên gọi “hát bộ” chỉ xuất hiện 
sau “hát bội”, khi cải lương mới hình 
thành, nhằm phân biệt với cải lương (thời 
kỳ đầu chỉ có hát mà ít làm điệu bộ) [Vũ 
Ngọc Liễn 2001: tr.75-80]. Tuy nhiên, cải 
lương hoặc chèo cũng vừa hát vừa làm điệu 
bộ. Vì thế tên gọi này cũng chưa hợp lý. 
Còn tên gọi “tuồng” xuất hiện những năm 
đầu thế kỷ XX ở miền Bắc, chỉ cách biểu 
diễn có tuồng tích, cốt truyện, được xem là 
cách gọi không hợp lý vì cải lương hay 
chèo cũng có tuồng tích. Tên gọi “tuồng” 
xuất hiện sau cùng, chỉ lối biểu diễn có 
tuồng có tích của loại hình nghệ thuật sân 
khấu này. 
Như vậy, chúng tôi cho rằng, “hát bội” 
là tên gọi hợp lý nhất vì nó chỉ sự cách 
điệu cao về điệu bộ - đây là nét đặc trưng 
loại hình nghệ thuật này. Tên gọi này cũng 
là tên gọi xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam 
và cũng phổ biến ở Bình Định (phát âm 
theo tiếng địa phương Bình Định là “hát 
bậu”). Vì thế, trong bài viết này, chúng tôi 
sử dụng tên gọi “hát bội” thay cho “hát 
bộ”/ “tuồng” vì xét trên ý nghĩa của tên gọi 
gắn với đặc trưng của nghệ thuật sân khấu 
hát bội. 
Hiện nay, ở Việt Nam, có ba phong cách 
hát bội chính: phong cách hát bội (tuồng) 
miền Bắc, phong cách hát bội miền Nam và 
phong cách hát bội (hát bộ) miền Trung. 
Hát bội Bình Định/ Hát bội Đào Tấn 
là thuật ngữ chỉ tên gọi của một trong 
những phong cách hát bội của miền Trung, 
tiêu biểu cho dòng hát bội Trung bộ ở Việt 
Nam. Hát bội Bình Định là tên gọi của 
phong cách hát bội được hình thành và tồn 
tại ở Bình Định. Đào Tấn là người có công 
lớn trong việc hình thành dòng Hát bội này 
69 
ở Bình Định mà đến nay nó được lưu 
truyền qua các thế hệ học trò của Đào Tấn 
ở Bình Định. Vì vậy, để chỉ một phong 
cách hát bội được hình thành nhờ góp công 
to lớn của Đào Tấn mà hát bội Bình Định 
cũng được gọi tên là hát bội Đào Tấn. 
3. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội 
Bình Định ở đình làng 
Đình là một tòa nhà năm gian hai chái. 
Mái đình lợp ngói âm dương. Nóc đình đắp 
lưỡng long chầu nguyệt. Mặt tiền của đình 
sau một lần cửa võng là lớp cửa bàn khoa. 
Nội thất đình gồm hoành phi, liễn đối, long 
ngai, thần chủ rực rỡ vàng son. Nhiều hoa 
văn, họa tiết chạm khắc trên mái, trên rui, 
trên kèo, trên trính Bên cạnh đình là 
những nhà tả gian, hữu gian và những hành 
lang. Đình có sân rộng ở trước, có bình 
phong, trụ biểu với nhiều nghè đá, sư tử đá 
ở trong sân và ngoài cùng là cửa Tam 
quan. Làng lớn như làng An Ngãi, làng 
Biểu Chánh, đình làng 7 gian 2 chái, có ao 
sen trước đình rộng tới mấy mẫu đất. Đa số 
các ngôi đình ở Bình Định đều hướng mặt 
vào Nam, chỉ có một ít đình do thuật phong 
thủy mới quay mặt hướng khác, như đình 
Thái Thuận quay mặt ra hướng Bắc(1) 
Đình làng là nơi được người dân lập ra 
là để thờ vị Thành hoàng. Tượng Thành 
hoàng ngồi trên long ngai đặt trên bàn thờ 
giữa, các bàn hai bên thờ các bộ hạ của 
Thành hoàng. Nếu không có tượng Thành 
hoàng thì có thần chủ, bài vị thay thế. Khác 
với đình làng Bắc bộ chỉ thờ vọng Thành 
hoàng. Ở Bình Định, mỗi làng có vị Thành 
hoàng riêng, thường xuất thân từ dân gian, 
rất gần gũi với dân. Mỗi làng nghề thờ mỗi 
vị. Làng nghề dệt thờ người có công dạy 
dân nghề canh cửi. Làng đúc đồng thờ 
người đem nghề đúc đồng về làng. Tuy 
nhiên, cũng có làng như làng Háo Đức, 
đình làng thờ ông Quan Vân Trường và các 
ông Quan Bình, Châu Xương (thời Tam 
quốc). Làng An Định thờ thầy đồ Trần Văn 
Huấn, quê ở đâu không rõ, đến đây mở 
trường ngồi dạy học, bên cạnh đình có lập 
nhà thờ “Ông Lớn” (là Lê Đình Xuân, 
người ở trong làng, nhờ đỗ khoa thi võ mà 
được ra làm quan võ triều Nguyễn). Dân 
coi vị Thành hoàng nào cũng là Phúc thần, 
luôn phù hộ độ trì cho những dân làng 
lương thiện.(2) 
Các nơi khác mỗi làng là một dòng họ 
và lập nên một đình làng. Riêng ở Bình 
Định, một làng thường có nhiều dòng họ 
sinh sống nên 9 thôn (hoặc 5 thôn) sẽ lập 
nên một đình làng(3). Ngày nay, số đình 
làng hiện còn không nhiều. Tuy nhiên, nơi 
nào ở Bình Định còn đình làng thì nơi ấy 
vẫn còn giữ tục hát bội cúng đình. 
Đình Vinh Thạnh nhìn từ bên ngoài, 
ngày 06/4/2014 
Đình Vinh Thạnh và Thanh Minh Tự, 
ngày 06/4/2014 
 ình Đình Vinh Thạnh và Thanh Minh Tự (x Phước Lộc, h Tuy Phước, Bình Định)(4) 
70 
Từ xưa đến nay, Bình Định có lệ cúng 
đình “Xuân Thu nhị kỳ” - mỗi năm 2 lần 
vào mùa Xuân (lễ kỳ yên / cầu an) và mùa 
Thu (lễ tạ ơn) vào khoảng tháng 1 và tháng 
8 ÂL. Ở Nam bộ thì thường 3 năm cúng 
một lần. Vào những dịp này, dân làng Bình 
Định thường mời gánh hát bội về diễn 
nhiều đêm liền. Giờ khởi ca (hát thứ lễ) là 
để cúng thần thánh. Những đêm hát tiếp 
sau mới để cho dân xem. 
Theo kết quả khảo sát địa điểm diễn 
hát bội Bình Định của chúng tôi từ các tờ 
hợp đồng diễn của các đoàn hát bội Bình 
Định ở đình làng (từ 2006 đến 2015), có 27 
đình làng diễn ra hát bội Bình Định hàng 
năm, trong đó, 23 đình ở Bình Định (chiếm 
85%) và 4 đình (chiếm 15%) ở ngoài tỉnh 
Bình Định. (Xem Hình 4. Tỉ lệ phân bố 
đình làng diễn ra hát bội Bình Định ở trong 
và ngoài tỉnh Bình Định). 
 ình . ỉ lệ phân bố đình làng diễn ra 
hát bội Bình Định ở trong và ngoài tỉnh 
Bình Định. 
Theo số liệu thống kê gần đây nhất 
vào năm 2012 của tỉnh Bình Định, tổng số 
đình làng được nhà nước công nhận là di 
sản văn hóa còn tồn tại ở Bình Định gồm 
có 9 đình. Tuy nhiên, qua khảo sát của 
chúng tôi, hiện nay, Bình Định có khoảng 
23 đình làng (kể cả các đình làng chưa lập 
hồ sơ công nhận di sản) trong cả tỉnh. Hát 
bội Bình Định gắn liền với nghi lễ cúng tế 
ở các đình này. Các đình làng Bình Định 
tập trung ở các nơi như: Tuy Phước, An 
Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Quy Nhơn Ví 
dụ: Đình An Quang (x. Cát Khánh, h. Phù 
Cát), Đình An Thường (x. Ân Thạnh, h. 
Hoài Ân), Đình Hưng Lương (x. Nhơn Lý, 
TP. Quy Nhơn), Đình Lạch (KV8, Nhơn 
Bình, TP. Quy Nhơn); Đình làng An Phú 
(th. Phú Mỹ 2, x. Phước Lộc, h. Tuy 
Phước) Tổng số 23 đình làng trên được 
phân bố ở: Tuy Phước (7 đình), Quy Nhơn 
(5 đình), An Nhơn (4 đình), Hoài Nhơn (2 
đình), Tây Sơn (2 đình), Phù Mỹ (1 đình), 
Phù Cát (1 đình), Hoài Ân (1 đình). Như 
vậy, đình làng tập trung nhiều nhất là ở 
Tuy Phước, Quy Nhơn và An Nhơn. An 
Nhơn và Tuy Phước đều là những làng hát 
bội nổi tiếng của tỉnh Bình Định. (Xem 
Hình 5 và Hình 6). 
 ình 5. ỉ lệ phân bố đình làng diễn ra hát 
bội Bình Định ở trong tỉnh Bình Định. 
 ình 6. Tỉ lệ phân bố đình làng diễn ra 
hát bội Bình Định ở ngoài tỉnh Bình Định 
71 
Thời gian diễn ra hát bội cúng đình là 
từ tháng 1 đến tháng 8 âm lịch (tập trung 
vào tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 7, 
tháng 8 âm lịch). Ngoài ra, hiện nay, các 
đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ở một 
số đình làng ngoài tỉnh như: Quảng Ngãi (1 
đình), Ninh Thuận (1 đình), Bình Thuận (2 
đình); vào tháng 3, tháng 7, tháng 8, tháng 
11 âm lịch. Các buổi diễn trong dịp cúng 
đình ở Bình Định thường kéo dài 2, 3 đêm 
liền. Riêng ở ngoài tỉnh, hát bội Bình Định 
diễn ra ít nhất là 3 đêm liền. 
Buổi hát thứ lễ cúng đình ở Bình Định 
sẽ diễn ở nhà võ ca, mục đích cho thần 
thánh xem. Trong các buổi hát tiếp sau 
trong dịp cúng đình, người ta dựng rạp hát 
ở sân đình, mặt sân khấu cũng phải hướng 
vào đình để có không rộng rãi hơn cho 
người dân thưởng thức. 
Khán giả và diễn viên hát bội Bình 
Định trong lễ cúng đình đều với lòng tạ ơn 
và cầu mong sự bình an, may mắn, thành 
công cho năm mới. Các vở diễn cúng đình 
thường là: “Cổ thành”, “Huê Dung Lộ”, 
“Tam chiến Lữ Bố”, “Trương Phi thủ cổ 
thành”, “Quan Công phò Nhị Tẩu”... nhằm 
ca ngợi tâm đức của những vị thần thánh 
trong đình làng. Ở Nam bộ thường diễn vở 
“Sơn Hậu” (hồi 3) khi cúng đình. Và cuối 
buổi diễn hát bội cúng đình luôn phải có 
phần “Tôn Vương” với lời lẽ chúc tụng sự 
bình an, thịnh vượng cho làng xóm, mọi 
người. Có đoàn hát bội Nam bộ còn kết 
thúc màn tôn vương bằng cách giơ cao tấm 
liễn với các chữ “cầu chúc an khang thịnh 
vượng”... 
Ngày xưa, tục hát bội cúng đình phổ 
biến khắp Trung bộ cho đến Nam bộ. Ngày 
nay, tục này đã giảm đi rất nhiều vì số 
lượng đình làng hoặc gánh Hát bội ngày 
nay đã giảm nhiều. Một số tỉnh ở Bắc trung 
bộ tuy còn đình làng nhưng lại không có 
hát bội dịp tế lễ, như: Thừa Thiên Huế: 
đình làng Thai Dương Hạ (lễ: “trò bủa 
lưới”, hội: ngày trước có Hát bội, nay 
không có)... Còn các tỉnh Nam trung bộ thì 
nơi nào còn đình làng thì thường có hát bội 
tế lễ, trong đó, tiêu biểu là tỉnh  ... ẵng - 
đình làng Hòa Mỹ, đình làng An Hải), 
thường là Bả trạo... Hoặc không tổ chức 
hát bội (như ở Ninh Thuận). Do tập tục, tín 
ngưỡng và thói quen thưởng thức hát bội 
của người dân Bình Định cùng với sự 
phong phú các đoàn hát bội trong tỉnh nên 
tất cả cuộc tế lễ ở đình làng Bình Định đều 
gắn với hát bội . Một số tỉnh khác như 
Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi... đã 
mời các đoàn Hát bội Bình Định diễn cúng 
đình làng. 
Phổ biến trong dịp cúng đình làng ở 
Bắc trung bộ hoặc Trung trung bộ ngày 
nay thường hiếm khi có hát bội mà phổ 
biến với những loại hình nghệ thuật khác 
như: Hát nhà trò, Hát Kiều... ở Quảng 
Bình.
(5)
; Chèo bả trạo ở Quảng Nam; Hát 
xoan ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc; Hát quan họ ở 
Bắc Ninh... Ở Nam bộ, hát bội (cùng với 
cải lương) vẫn phổ biến trong nghi lễ cúng 
đình với các đoàn như: đoàn hát bội TP. 
Hồ Chí Minh, đoàn hát bội Ngọc Khanh... 
nhưng không để cúng thần ở phần lễ (là lễ 
“xây chầu, đại bội”) mà chỉ có ở phần hội. 
Còn hát bội ở Bình Định đều có cả ở lễ 
(cúng 1 buổi hát) và hội (nhiều đêm hát). 
Một số đình làng Nam bộ tiêu biểu có 
tổ chức hát bội cúng đình là: TP. Hồ Chí 
Minh: đình Phú Nhuận (ở q. Phú Nhuận; 
16-18/1 ÂL), đình Bình Đông (q. 8; 12-
13/2 ÂL). Đồng Nai: đình Tân Lân (p. Hòa 
Bình, TP. Biên Hòa; 12-14/2 ÂL). Bà Rịa – 
Vũng Tàu: đình Thắng Tam (17-20/2 ÂL). 
Tiền Giang: đình Kiểng Phước (x. Vàm 
72 
Láng, h. Gò Công Đông; 9/3 ÂL), đình 
Vĩnh Lợi (Vĩnh Bình, Gò Công Tây; 14-
16/12 ÂL). TP. Cần Thơ: đình Bình Thủy 
(14-15/4 ÂL và 15/12 ÂL). Bạc Liêu: một 
số đình vào dịp lễ kỳ yên vào mùa xuân. An 
Giang: đình Châu Phú (h. Châu Phú; 10-
12/5 ÂL). Một số đình làng ở các tỉnh Nam 
bộ khác không có hát bội mà thường là Hát 
bóng rỗi, Chặp địa nàng, Đờn ca tài tử... 
Ở Bắc bộ, hiếm khi thấy diễn hát bội 
dịp cúng đình, trừ ở hội đình Dư Hàng 
(18/2 ÂL, ở Hải Phòng), lễ hội đình làng 
Đình Bảng (12-15/2 ÂL; tx. Từ Sơn, t. Bắc 
Ninh), lễ hội đình làng Từ Phong (9/3 ÂL; 
th. Từ Phong, x. Cách Bi, h. Quế Võ, t. Bắc 
Ninh) có diễn hát bội cùng với chèo...(6) 
4. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội 
Bình Định ở miếu 
Miếu có kiến trúc nhỏ hơn đình. Xung 
quanh miếu có bờ thành (cắm miểng chai), 
cổng vào có nhà ngõ, trụ biểu, bình 
phong Mặt tiền miếu thường xây trấn 
thủy, sẵn đó đắp tên miếu bằng chữ Hán 
(cũng có miếu đề chữ Quốc ngữ). Nếu đình 
là nhà chung của cả làng thì miếu là nhà 
chung của xóm để thờ các bộ hạ của các vị 
thần linh. Hầu hết các làng đều có miếu 
thanh minh, nhiều làng có miếu Hà bá, 
miếu Mục Đồng (miếu Thần Nông) ở bên 
bến sông, giữa đồng.(7) 
Ở miền Bắc, người dân cũng có tục 
cúng thanh minh nhưng không cúng trong 
miếu. Ngược lại, ở miền Trung, tục cúng 
thanh minh trở nên phổ biến ở miếu. Ở 
Bình Định cũng vậy, hàng năm đều có 
cúng thanh minh. Đình miếu ở Bình Định 
thường thờ cúng những người có công khai 
lập làng (Thành hoàng làng), khi qua đời, 
họ được gọi là những “tiền hiền khai 
khẩn”, “hậu hiền khai cơ”. Trong dịp cúng 
thanh minh, ngoài việc tảo mộ gia tiên, 
người dân còn tảo mộ cho các ngôi mộ vô 
chủ. Nhiều miếu ở thôn xóm Bình Định đã 
thờ những vong hồn này. Thời gian cúng 
thanh minh vào khoảng 3 giờ, 4 giờ sáng 
hoặc buổi trưa (sau khi tảo mộ xong). 
Hát bội Bình Định cũng gắn liền với 
tục cúng miếu, đặc biệt là vào dịp thanh 
minh cuối tháng hai và hết tháng ba âm 
lịch hàng năm. Người dân đồng lòng góp 
công, góp của để cúng miếu, mời đoàn hát 
bội về diễn dịp cúng thanh minh với quan 
niệm rằng, ở đâu cũng có Thành hoàng, 
Thổ địa, cô hồn nên “có thờ có thiêng, có 
kiêng có lành”. 
Ở Bình Định ngày xưa, mỗi thôn có 
nhiều miếu, mỗi xóm có ít nhất một miếu. 
Ngày nay, số lượng miếu cũng đã giảm đi 
rất nhiều nhưng tục cúng miếu vẫn diễn ra 
như thường lệ. Hiện nay (2015), sở thống 
kê của tỉnh Bình Định chưa thống kê số 
lượng miếu còn tồn tại ở Bình Định (chỉ 
thống kê số đình miếu được công nhận là 
di sản văn hóa). Theo khảo sát của chúng 
tôi (căn cứ trên các tờ hợp đồng diễn), 
Bình Định hiện còn rất nhiều miếu. Có 
khoảng 181 miếu ở Bình Định vẫn còn diễn 
ra Hát bội thường niên vào dịp tế lễ như: 
miếu/“chùa” Thanh Minh (“Thanh Minh 
Tự”; thờ thành hoàng làng...), miếu 
Bà/“chùa Bà” (thờ bà Thiên Hậu), miếu 
Ông/“chùa Ông” (thờ Quan Công thánh đế), 
miếu Mục Đồng (thờ Thần Nông), miếu âm 
hồn (miếu Cô bác/nghĩa tự) Ngoài ra, các 
đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ngoài 
tỉnh, ở các miếu thờ (bà Thủy, bà Thiên 
Hậu...), gồm 18 miếu, tập trung ở các tỉnh: 
Quảng Ngãi, Gia Lai, Phú Yên 
Theo thống kê của chúng tôi (từ 2006 
đến 2015), tổng số miếu có diễn hát bội Bình 
Định là 181 miếu, phân bố ở các nơi như: 
Trong tỉnh Bình Định (161 miếu, 
chiếm 89%): h. Tuy Phước (51miếu), tx. 
An Nhơn (46), TP. Quy Nhơn (27), h. Phù 
73 
Cát (17), h. Tây Sơn (16), h. Phù Mỹ (3), h. 
Hoài Nhơn (2). 
Ngoài tỉnh Bình Định (19 miếu, chiếm 
11%): t. Phú Yên (8), t. Khánh Hòa (5), 
Quảng Ngãi (2), t. Vũng Tàu (2), t. Gia Lai 
(1), t. Bình Phước (1). 
 ình . ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra hát bội Bình Định ở trong và ngoài tỉnh 
Bình Định. 
Tuy 
Phước
32%
An 
Nhơn
29%
Quy 
Nhơn
17%
Phù Cát
10%
Tây 
Sơn
10%
Phù Mỹ
2%
 ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra 
hát bội Bình Định 
ở trong tỉnh Bình Định
 ình 8. ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra 
hát bội Bình Định ở trong tỉnh Bình Định. 
Phú Yên
42%
Khánh 
Hòa
26%
Quảng 
Ngãi 
11%
Vũng 
Tàu
11%
Gia Lai
5%
Bình 
Phước
5%
 ỉ lệ phân bố số lượng miếu 
diễn ra hát bội Bình Định 
ở ngoài tỉnh Bình Định
 ình 9. ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra 
hát bội Bình Định ở ngoài tỉnh Bình Định. 
Miếu thường nằm ở khoảng đất trống 
trong mỗi xóm. Trong buổi hát đầu tiên để 
dâng cúng thần thánh, diễn viên hát ngay 
trước cửa miếu. Trong không gian diễn 
xướng này, cả diễn viên và khán giả đều ấp 
ủ lời cầu xin, lòng tạ ơn, chúc tụng các vị 
thần thánh, các cô bác... trong miếu để 
được các vị phù hộ, ban ơn. Các buổi hát 
tiếp theo, người ta thường dựng rạp hát bội 
cách mặt đất khoảng 2m, mặt sân khấu 
hướng đối diện miếu để cho thần thánh 
cùng người dân xem. 
Giờ khởi ca trong buổi hát bội cúng 
miếu hiện nay thường là 0 giờ, hoặc 3 hay 
4 giờ sáng, hoặc 14 giờ chiều. Giờ hát khởi 
ca sẽ thay đổi tùy từng năm, từng miếu và 
tùy vào giờ tốt. Thời gian diễn ra hát bội 
Bình Định trong lễ hội cúng miếu thường 
kéo dài từ 3 đến 4 đêm (trong tỉnh) hoặc từ 
5 đến 7 đêm (ngoài tỉnh). 
74 
Những vở hát thứ lễ (khởi ca) thường 
là các vở truyền thống, được ban tổ chức 
của miếu yêu cầu để phù hợp với các vị 
thần thánh thờ trong miếu. Chẳng hạn, ở 
miếu Ông - thường hát “Quan Công phò 
Nhị Tẩu”, “Cổ thành”...; ở miếu Bà – hát 
“Huê Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ”... Các vở 
diễn của những đêm hát tiếp sau sẽ do 
người dân địa phương chọn, thường là các 
tuồng tiểu thuyết: “Bóng đen nghĩa hiệp”, 
“Tái sanh kỳ ngộ”... 
Các miếu ở các tỉnh lân cận như Gia 
Lai, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên, 
Ninh Thuận, Bình Thuận... thường mời các 
đoàn hát bội Bình Định đến diễn khi tế lễ. 
Riêng các miếu ở Nam bộ thường không 
diễn hát bội mà diễn Bóng rỗi, Chặp địa 
nàng... Còn các tỉnh Bắc bộ thì thường là 
Hát xoan, Hát quan họ, Ca trù, Chầu văn, 
Xẩm... Trừ vài miếu ở Bắc bộ thì có hát 
bội như ở: hội đền bà Chúa Kho (miếu 
Giảng Võ) ở Hà Nội... 
Thanh Minh Tự (cạnh đình 
Vinh Thạnh) (x. Phước Lộc, h. 
Tuy Phước, t. Bình Định, 
11g16 ngày 06/4/2014)
(8)
Hát bội (đoàn Sao Mai) trong 
lễ cúng Thanh minh ở KV1, 
ph. Quang Trung, TP. Quy 
Nhơn
(9)
Hát bội thứ lễ tại lễ hội Vía Bà 
năm Nhâm Thìn (2012)
(10)
 ình 1 . Miếu và hát bội trong dịp tế lễ ở miếu 
 ình 11. Hát bội cúng miếu rung An (đoàn rần Quang Diệu) ở xóm Nam, thôn 
 rung ín 1, h. uy Phước, t.t. uy Phước, Bình Định; 
Ảnh: Châu Tuấn, ngày 4/3 ÂL (2015). 
5. Kết luận 
Nếu như ở miền Bắc, hát Chèo, hát 
Quan họ... phổ biến khắp vùng nông thôn; 
miền Nam có Cải lương, thì miền Trung, 
đặc biệt là Bình Định, hát bội rộn rã khắp 
nơi vào dịp tế lễ, hội hè. Bình Định là cái 
nôi của dòng hát bội miền Trung, là đất hát 
bội có lượng khán giả say mê, am hiểu hát 
bội nhiều hơn nên cũng là không gian diễn 
xướng thuận lợi để hát bội tồn tại lâu bền 
hơn các tỉnh khác. 
75 
Trong không gian thiêng (308 địa 
điểm biểu diễn hát bội Bình Định), không 
gian miếu là chiếm tỉ lệ cao nhất (59%), 
tiếp theo là lăng (24%), sau đó đến đình 
(9%) và thấp nhất là đền và chùa (2%). 
Không gian diễn xướng đình, miếu của hát 
bội Bình Định không chỉ giới hạn về mặt 
địa lý (trong tỉnh Bình Định) mà còn mở 
rộng ra các tỉnh khu vực duyên hải Nam 
trung bộ đến Bà Rịa, Vũng Tàu. Nhờ sự di 
dân từ miền Trung vào Nam trong nhiều 
giai đoạn lịch sử nên tục hát bội phục vụ ở 
các cơ sở thờ tự trở nên phổ biến. Ngoài ra, 
ở Bình Định, lực lượng các đoàn hát bội 
vẫn còn nhiều và mạnh hơn các tỉnh khác. 
Hiện nay, tuy số lượng đoàn hát bội ở Bình 
Định đã giảm hơn nhiều so với trước 
nhưng với hơn 6 đoàn hát bội dân gian và 1 
đoàn chuyên nghiệp (được nhà nước đầu 
tư) hoạt động mạnh nhất trong và ngoài 
tỉnh, như các đoàn hát bội: Phước An, An 
Nhơn, Tuy Phước, Ánh Dương, Trần 
Quang Diệu, Sông Côn, Nhơn Hưng, Nhà 
hát tuồng Đào Tấn. Theo thông tin từ các 
trưởng đoàn hát bội Bình Định, mỗi đoàn 
biểu diễn ít nhất là 100 suất hát trong một 
năm. Riêng các đoàn hát bội dân gian, mỗi 
đoàn diễn trung bình khoảng 150 suất/ năm 
(mỗi suất là 3 tiếng đồng hồ; giá hiện nay 
(2015) khoảng 5 – 7 triệu/suất)(11). Trong 
suốt mùa lễ hội, nhất là từ tháng 1 đến 
tháng 8 âm lịch hàng năm, các đoàn hát bội 
Bình Định biểu diễn khắp nơi trong tỉnh và 
mở rộng không gian diễn xướng ra ngoài 
tỉnh. Các đoàn hát bội ở các tỉnh khác cũng 
có nhiều suất diễn hàng năm nhưng không 
nhiều bằng các đoàn Hát bội Bình Định. 
Chẳng hạn, Đoàn hát bội TP. Hồ Chí Minh 
hằng năm diễn khoảng 150 suất theo chỉ 
tiêu của nhà nước nhưng họ chỉ diễn nhiều 
vào dịp cúng đình làng Nam bộ (gần 30 
suất diễn). Đoàn hát bội Ngọc Khanh (đoàn 
dân gian) cũng chỉ diễn nhiều vào dịp cúng 
đình miếu, khoảng vài chục suất.(12) Gánh 
hát bội Đồng Thinh (ở Vĩnh Long) diễn 
gần 70 suất.(13) Còn với hơn 7 đoàn hát bội 
Bình Định, mỗi đoàn thường diễn trung 
bình khoảng 100 đến 150 suất mỗi năm. 
Như vậy, qua các hoạt động của các đoàn 
hát bội Bình Định cho thấy, không gian 
diễn xướng hát bội Bình Định là rất rộng 
(cả trong và ngoài tỉnh) và phong phú nhất. 
Hát bội Bình Định là một trong những 
phong cách tiêu biểu của loại hình nghệ 
thuật sân khấu hát bội truyền thống Việt 
Nam. Không gian diễn xướng là một trong 
những yếu tố quan trọng góp phần quyết 
định sự tồn tại của hát bội Bình Định. 
Đình, miếu là nơi thường xuyên tổ chức 
các tế lễ thờ cúng các vị: Thành hoàng 
làng, bà Thiên Hậu, bà Mụ (bà Chúa thai 
sanh)... Hát bội luôn có mặt trong các dịp 
cúng tế này. Thời gian tổ chức hát bội Bình 
Định ở đình miếu diễn ra hằng năm (từ 
tháng 1 đến tháng 8 âm lịch) và tập trung 
nhất là từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch; biểu 
diễn từ 3 đến 7 đêm liền. 
Hát bội Bình Định không chỉ diễn ra 
giới hạn trong tỉnh Bình Định mà còn mở 
rộng ra các tỉnh ven biển khác như Quảng 
Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận, 
Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình 
Phước, TP. Hồ Chí Minh... Nhờ các phong 
tục, tập quán cúng tế... ở đình miếu của 
người dân Bình Định nói riêng và ngư dân 
vùng duyên hải Nam trung bộ nói chung, 
hát bội Bình Định có thêm điều kiện tốt để 
được lưu truyền, tồn tại phổ biến đến ngày 
nay. Trong không gian diễn xướng này, hát 
bội Bình Định có thêm điều kiện để tồn tại 
và phổ biến trong đời sống của người dân 
Bình Định nói chung và người dân vùng 
duyên hải Nam trung bộ nói riêng. Từ đó, 
góp phần hình thành phong cách hát bội 
76 
Bình Định. Như vậy, việc duy trì và phát 
huy không gian diễn xướng đình, miếu của 
hát bội Bình Định là một trong những việc 
làm quan trọng, cấp bách, để hát bội Bình 
Định luôn trường tồn. 
Chú thích 
1) Theo Huỳnh Kim Bửu (2-9-2009), “Đình làng”: 
882/51/ 
2) Theo Văn Hiến (17-01-2012), “Đình làng 
An Định (An Nhơn, Bình Định)”: 
883-dinh-lang-an-dinh-an-nhon-binh-dinh. 
html 
3) Theo Đinh Bá Hòa (2012): Văn hóa – Xã 
hội Bình Định. – Nxb Văn hóa Thông tin Hà 
Nội, tr.257, 258. 
4) Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình 
Vinh Thạnh”:  hung. 
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuoc-
loc-huyen.html 
5) Theo Lưu Đức Hải (19-1-2014), “Phong tục 
thờ cúng cộng đồng ở Cao Lao Hạ”: 
&op=thong-cao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cung- 
cong-dong-o-Cao-Lao-Ha-147 
6) Theo Phạm Trình – Trần Minh (biên soạn) 
(2012), Hành Trình lễ hội Việt Nam, NXB. 
Đồng Nai; tr.149, 153, 191. 
7) Theo Huỳnh Kim Bửu: “Kiến trúc ở làng quê 
Bình Định”:  
nghien-cuu/kien-truc-o-lang-que-binh-dinh. 
html 
8) Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình 
Vinh Thạnh”:  
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuoc-
loc-huyen.html 
9) Ảnh sưu tầm:  
viewer.aspx?macm=18&macmp=18&mabb=2113 
10) Ảnh: H. Khá:  
listdetail.php?listid=84&id=90 
11) Thông tin từ các trưởng đoàn Hát bội dân 
gian Bình Định (năm 2014, 2015). 
12) Theo Thanh Hiệp, 8/8/2015, “Sân khấu hát 
bội sẽ đi về đâu”:  
news/san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx 
13) Theo Phạm Thị Bình, 22/2/2013, “Bầu Răng, 
người tâm huyết với gánh hát bội Đồng 
Thinh”:  
bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh- hat-boi-
dong-thinh-20130222082249803.htm 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phạm Thị Bình (22/02/2013), Bầu Răng, 
người tâm huyết với gánh hát bội Đồng 
Thinh:  
bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh-hat-boi-
dong-thinh-20130222082249803.htm 
2. Huỳnh Kim Bửu (02/9/2009), Đình làng: 
/882/51/ 
3. Huỳnh Kim Bửu, Kiến trúc ở làng quê Bình 
Định: 
cuu/kien-truc-o-lang-que-binh-dinh.html 
4. Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng (1970), Hát 
Bội, Kim Lai ấn quán, Sài Gòn, tr. 249. 
5. Lưu Đức Hải (19/1/2014), Phong tục thờ cúng 
cộng đồng ở Cao Lao Hạ:  
com/?language=vi&nv=news&op=thong-
cao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cung- cong-dong- 
o-Cao-Lao-Ha-147 
6. Văn Hiến (17/01/2012), Đình làng An Định 
(An Nhơn, Bình Định):  
vn/danh-lam/dinh-chua/883-dinh-lang-an-
dinh-an-nhon-binh-dinh.html 
7. Thanh Hiệp (08/8/2015), Sân khấu hát bội 
sẽ đi về đâu:  
san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx 
8. Đinh Bá Hòa (2012), Văn hóa – Xã hội Bình 
Định, Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, tr. 
257-258. 
9. Huỳnh Chương Hưng (04/7/2014), Đình 
Vinh Thạnh:  
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuoc-
loc-huyen.html 
10. H. Khá, Lễ hội vía Bà:  
gov.vn/listdetail.php?listid=84&id=90 
77 
11. Trần Văn Khải (1970), Nghệ thuật Sân khấu 
Việt Nam – Hát Bội, Cải lương, Thoại kịch, 
Thanh Trung Tư Xã, Sài Gòn, tr. 2-3. 
12. Sao Ly (13/4/2013), Vào mùa thanh minh: 
x?macm=18&macmp=18&mabb=2113 
13. Trần Minh – Phạm Trình (biên soạn) (2012), 
Hành trình lễ hội Việt Nam, Nxb Đồng Nai, 
tr.149-153-191. 
14. Đoàn Nồng (1942), Sự tích và Nghệ thuật 
Hát Bội, Mai Linh xuất bản, tr. 9. 
Ngày nhận bài: 07/12/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016 

File đính kèm:

  • pdfhat_boi_binh_dinh_o_dinh_mieu.pdf