Hát bài chòi - Một giá trị nghệ thuật dân gian ở Hội An-Quảng Nam

Hát Bài chòi truyền thống ở Hội An là hình thức diễn xướng dân gian mang đậm văn hóa âm

nhạc dân gian xứ Quảng mà ngày nay vẫn còn được gìn giữ và sinh hoạt rất sôi nổi trên vùng đất thuần

hậu này. Đây có thể xem như hình thức sân khấu âm nhạc lớn ở loại hình âm nhạc dân gian, có giá trị

riêng về mặt âm nhạc học. Hát Bài chòi là loại hình sinh hoạt giải trí bình dân nhưng chứa đựng giá trị

nhân văn cao cả, có vai trò gắn kết cộng đồng, tạo nên mối quan hệ đồng cảm và đặc biệt là có ý nghĩa

giáo dục sâu sắc. Ngày nay, trong thời hội nhập kinh tế mở cửa, giao lưu văn hóa, Hát Bài chòi còn

mang trong mình sứ mệnh quảng bá giá trị truyền thống của đất nước để bạn bè, du khách quốc tế hiểu

hơn về nét đẹp riêng của văn hóa, con người và đất nước Việt Nam.

pdf 7 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Hát bài chòi - Một giá trị nghệ thuật dân gian ở Hội An-Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hát bài chòi - Một giá trị nghệ thuật dân gian ở Hội An-Quảng Nam

Hát bài chòi - Một giá trị nghệ thuật dân gian ở Hội An-Quảng Nam
UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),31-37 | 31 
* Liên hệ tác giả 
Hoàng Đình Phương 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng 
Email: hdphuong@ued.udn.vn 
Nhận bài: 
 21 – 09 – 2016 
Chấp nhận đăng: 
 28 – 12 – 2016 
HÁT BÀI CHÒI - MỘT GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT DÂN GIAN 
Ở HỘI AN - QUẢNG NAM 
Hoàng Đình Phương 
Tóm tắt: Hát Bài chòi truyền thống ở Hội An là hình thức diễn xướng dân gian mang đậm văn hóa âm 
nhạc dân gian xứ Quảng mà ngày nay vẫn còn được gìn giữ và sinh hoạt rất sôi nổi trên vùng đất thuần 
hậu này. Đây có thể xem như hình thức sân khấu âm nhạc lớn ở loại hình âm nhạc dân gian, có giá trị 
riêng về mặt âm nhạc học. Hát Bài chòi là loại hình sinh hoạt giải trí bình dân nhưng chứa đựng giá trị 
nhân văn cao cả, có vai trò gắn kết cộng đồng, tạo nên mối quan hệ đồng cảm và đặc biệt là có ý nghĩa 
giáo dục sâu sắc. Ngày nay, trong thời hội nhập kinh tế mở cửa, giao lưu văn hóa, Hát Bài chòi còn 
mang trong mình sứ mệnh quảng bá giá trị truyền thống của đất nước để bạn bè, du khách quốc tế hiểu 
hơn về nét đẹp riêng của văn hóa, con người và đất nước Việt Nam. 
Từ khóa: Hát Bài chòi; một giá trị; nghệ thuật; dân gian; ở Hội An; Quảng Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Hội An là đô thị cổ của xứ Quảng một thời, nơi đây 
đã từng là cửa ngõ giao thương buôn bán sầm uất giữa 
các nước như: Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung 
Quốc với người Việt xưa. Đã từng mang danh như 
Faifo, Hải Phố, Hoài Phố, đô thị cổ Hội An của tỉnh 
Quảng Nam vốn là một thành phố cảng lớn của vương 
quốc Champa trên vùng đất Amavarati từ thế kỷ thứ II 
đến thế kỷ XV. Ngày 4/12/1999, Hội An được UNESCO 
công nhận là di sản văn hoá thế giới, nơi đây được ví như 
bảo tàng sống còn bảo lưu những giá trị văn hóa cổ xưa 
như: hệ thống kiến trúc đô thị cổ, chùa chiền của người 
Hoa người Nhật, những giá trị văn hóa tinh thần rất độc 
đáo còn khá nguyên vẹn được gìn giữ bền bỉ trong đời 
sống cộng đồng cư dân. 
Bài chòi - một trò chơi giải trí, một yếu tố tinh thần 
gắn liền trong đời sống cộng đồng, một giá trị âm nhạc 
được người dân Hội An gìn giữ, phát huy tích cực và 
tồn tại cho đến ngày nay. 
Hát Bài chòi là loại hình diễn xướng dân gian có 
mặt hầu khắp các tỉnh Trung Trung bộ và Nam Trung 
bộ (từ Trị Thiên cho đến Ninh Thuận và Bình Thuận). 
Khác với các tỉnh khác có loại hình diễn xướng dân gian 
này, Hát Bài chòi ở Hội An - Quảng Nam có những nét 
riêng, độc đáo, mang đậm yếu tố văn hóa truyền thống 
của người dân xứ Quảng. 
Cho đến nay, chưa ai xác định chính xác loại hình 
diễn xướng dân gian Hát Bài chòi trên vùng đất Quảng 
Nam xuất hiện từ khi nào, đến từ đâu. Nhưng thiết nghĩ, 
cũng như các loại hình văn hóa âm nhạc dân gian khác, 
Hát Bài chòi cũng không tránh khỏi sự giao thoa, tiếp 
biến lẫn nhau giữa các vùng - miền lân cận, nhất là có 
sự tương đồng về lối sống văn hóa cộng đồng. 
Hát Bài chòi là loại hình văn hóa diễn xướng dân 
gian, mang đậm chất sân khấu nhỏ đầy tính ngẫu hứng. 
Chính vì những yếu tố đó, Hát Bài chòi ở Hội An cũng 
đã thể hiện đa dạng, độc đáo những lối hát, làn điệu, 
tính chất hài vui nhộn, thâm thúy trong cách diễn, 
cách xướng. Ngày nay, Bài chòi đã theo dòng lịch sử 
phát triển lên thành Sân khấu dân ca kịch Bài chòi, điều 
đó cho thấy trò chơi dân gian này không chỉ dừng lại ở 
loại hình diễn xướng dân gian mà đã chuyển lên loại 
hình âm nhạc chuyên nghiệp lớn hơn về qui mô, giàu 
hơn về những giá trị âm nhạc. 
 Hoàng Đình Phương 
32 
Trong phạm vi bài viết muốn đề cập, tôi chỉ đi vào 
(và dừng lại) mấy vấn đề có trong Hát Bài chòi truyền 
thống Hội An - Quảng Nam còn đang được gìn giữ, bảo 
lưu và phát huy cho đến ngày nay. 
2. Giải quyết vấn đề 
2.1. Cách thức tổ chức, không gian diễn xướng, 
thời gian diễn xướng và chủ thể văn hóa 
* Cách thức tổ chức 
Việc lập chòi để chơi cũng có nhiều cách và mỗi địa 
phương tổ chức dựng chòi cũng có ít nhiều khác nhau. Ở 
Hội An - Quảng Nam, người ta dựng chòi theo hình chữ 
nhật. Hai cạnh dài, mỗi bên dựng 4 chòi đối mặt nhau. 
Chính giữa là một chòi ngắn gọi là chòi trung ương, bên 
cạnh là một cái rạp nhỏ phía trong có kê một bộ phản 
(ván). Bên cạnh bộ phản là hai trống chầu, trước trống 
chầu là một cái bảng trên có đặt khay tiền và những lá cờ 
hiệu. Chính giữa hình chữ nhật của sân chơi là vị trí của 
anh Hiệu đứng diễn xuất, bên cạnh là vị trí của ban nhạc. 
Sát cạnh anh Hiệu người ta trồng một cây tre có khoét lỗ 
hổng hoặc treo vào đó cái ống để đựng thẻ bài. 
Chòi được làm bằng tranh, tre, nứa, lá. Ba mặt sau 
che kín chỉ còn lại mặt trước. Chòi rộng khoảng 4 đến 
5m2, trong chòi có cái mỏ bằng tre để khi trúng quân bài 
người chơi gõ vào cái mỏ đó để báo hiệu cho ban tổ 
chức biết, người chạy cờ đến đưa lá cờ vàng. 
* Không gian diễn xướng 
Hát Bài chòi thường được tổ chức trên một sân rộng 
ngoài trời. Ở Hội An, sân chơi Bài chòi diễn ra hằng đêm 
giữa lòng phố cổ, bên cạnh là dòng sông Hoài. 
* Thời gian diễn xướng 
Hát Bài chòi ở Hội An thường được diễn ra lúc 19h 
hằng đêm. 
* Chủ thể văn hóa 
Người diễn là những nghệ nhân sinh sống ở Hội An. 
Người chơi là người dân và du khách. 
2.2. Thể thức cuộc chơi 
Khác với lối Hò bài thai (hay Đố thai, Hô thai) ở 
Huế, Treo cửu nhơn ở Nam Trung bộ (là người chơi 
phải đoán con bài người hô trong phạm vi ba lần, nếu 
không đúng người chơi phải thua ba đồng, nếu đoán 
trúng người hô phải trả cho người chơi mười đồng 
người hô bắt đầu bằng À... và sau đó là hô một câu lục 
bát, nội dung chứa đầy yếu tố đánh đố người chơi), ở 
Hát Bài chòi Hội An, trước khi bắt đầu, người chơi phải 
mua một bản bài có dán 3 lá bài. Riêng người hát (hay 
hô) - gọi là anh Hiệu, giữ nguyên cả một bộ bài. 
Khi mọi người đã yên vị, anh bắt đầu rút từng lá bài 
và lên giọng hô. Thế là cuộc chơi bắt đầu. Thí dụ như 
khi rút ra lá bài "nhứt trò" (có hình một người học trò) 
thì anh cất tiếng ngâm nga câu thơ lục bát như sau: 
Đi đâu cắp sách đi hoài 
Cử nhân chẳng thấy tú tài cũng không 
Ai có lá bài này thì đánh vào chiếc mõ treo trong 
chòi hoặc hô lên và đưa tấm bản bài lên vẫy vẫy, người 
đưa cờ đem lá "nhứt trò" và kèm theo lá cờ nhỏ (màu 
vàng) đến giao cho người có con cờ được hô đó để trở 
thành một đôi. Chòi nào có được ba đôi trước thì chòi 
đó hô to “tới”, lúc đó ván bài được dừng lại và phát 
thưởng cho người thắng cuộc. 
2.3. Bộ bài 
Bộ bài để đánh bài chòi là bộ bài trùng (Quảng 
Nam) hay bài tới (Thừa Thiên - Huế). Bộ bài này rất 
gần với bộ bài tổ tôm hoặc bài tam cúc miền Bắc 
(nhưng không phải bài tổ tôm hoặc tam cúc). Điều này 
dễ hiểu vì trên con đường Nam tiến, cha ông ta đã 
mang theo cả trò chơi quê cũ nhưng tổ tôm vốn là trò 
chơi mang tính bác học, không phù hợp với cuộc sống 
“đầu sóng ngọn gió” nơi đất khách quê người. Do đó, 
nhân dân ta ngày ấy đã dân gian hóa trò chơi này. Họ 
đã nghĩ ra một cách chơi đơn giản hơn và họ đã 
chuyển bộ bài tổ tôm thành bộ bài trùng, bộ bài tới 
chơi như bài tam cúc đổi các tên gọi nặng âm Hán - 
Việt như Bát Sách, Nhị Sách, Cửu Vạn thành những 
tên thuần Việt như ông ầm, lá liễu, ngủ trưa, ba gà, đỏ 
mỏ để dễ nhớ, dễ gọi. Với cách gọi thông tục, với 
cách chơi đơn giản, trò chơi đã được nhiều người 
hưởng ứng tham gia. Tính chất phổ thông hóa, bình 
dân hóa của trò chơi khiến nó có sức phổ biến rộng rãi 
trong quần chúng nhân dân. 
Những con bài được in trên loại giấy dó mỏng, thô 
và dán lên trên một lớp bìa rồi phủ lên một lớp điệp. 
Mặt sau con bài được quét lên một lớp phẩm màu xanh, 
đỏ để tạo thêm phần hình thức. 
Sự mộc mạc, đơn giản của hình thức con bài kéo 
theo tên gọi của nó cũng có phần dân dã, gần gũi hơn 
với cuộc sống thường ngày nơi “vườn làng ngõ xóm” 
ấy, như: Thằng Móc, Thằng Quăn, Bảy Dày, Bảy Sưa, 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),31-37 
 33 
Ngủ Trưa, Ngủ Trợt, Ngủ Dụm Tên gọi những con 
bài có tính hài hước, châm biếm, dễ dãi, tinh nghịch, 
tiếng Nôm pha tiếng Hán, khi gọi thế này khi gọi thế 
khác. Có khi một con bài nhưng lại được gọi với những 
tên gọi khác nhau như: con Bạch Huê khi gọi một cách 
dân dã là Lá Liễu, khi gọi một cách thô tục là con L...; 
con Nhứt Trò có khi gọi bằng tên Nhứt Nọc, khi thì gọi 
con Nọc Thược, khi thì gọi con Học Trò; con Nhì Bánh 
khi thì gọi con Bánh Hai, khi thì gọi con Tráng Hai 
Ba mươi con bài được xếp thành 3 pho: Pho Văn, 
Pho Vạn, Pho Sách. Mỗi pho có 9 con (9 x 3 = 27); 3 
con còn lại xếp thành 3 cặp yêu: cặp ông ầm, cặp thái 
tử, cặp bạch tuyết. 
- Pho Văn: Chín Gối, Tráng Hai (Nhì Bánh), Ba 
Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rún (Ngũ Rốn), Sáu Miểng (Sáu 
Ghe), Bảy Liễu (Bảy Dây), Tám Miểng, Chín Cu (Chín 
Gan), Ông Ầm. 
- Pho Vạn: Nhứt Trò (Học Trò), Nhì Bí, Tam 
Quăng, Tứ Móc (Tứ Gióng), Ngũ Trợt, Lục Trạng (Lục 
Chạng), Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa, Bạch Huê. 
- Pho Sách: Nhứt Ngọc (Ngọc Thược, Yêu Nọc), 
Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Cẳng (Tứ Sách), Ngũ Trưa (Ngũ 
Dụm), Sáu Bường (Sáu Hột), Bảy Thưa (Bảy Hột), Tám 
Dây (Tám Hột), Cửu Điều, Thái Tử. 
 2.4. Lời ca 
Bài chòi là một hình thức sinh hoạt văn hóa văn 
nghệ dân gian rất độc đáo. Văn bản lời ca bài chòi là 
một loại hình văn học dân gian chủ yếu mang tính diễn 
đạt. Do đó, khảo sát bài chòi đứng trên bình diện văn 
học, chúng ta cần đi sâu nghiên cứu phần nội dung và 
đặc điểm thi pháp của lời ca bài chòi. 
2.4.1. Đặc điểm thi pháp 
Lời ca là yếu tố cơ bản trong dân ca bài chòi. Lúc 
đầu, lời ca ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí 
tại chỗ, nâng đỡ trò chơi, tạo sắc thái văn nghệ nhằm lôi 
cuốn người mộ điệu. Mặt khác, lời ca được anh (chị) 
hiệu hát lên cũng tác động đến người chơi nhằm mục 
đích gợi nghĩ, gợi tả, dẫn dắt tư duy người chơi hình 
dung đến hình ảnh một con bài sắp ra. 
Dần dần, do đời sống phát triển, nhu cầu văn hóa 
văn nghệ trên vùng đất mới cũng phát triển. Vì thế, 
người chơi mong muốn nghe được những lời ca dài hơn, 
mang ý nghĩa sâu sắc, phản ánh những vấn đề phong 
phú, đa dạng hơn của cuộc sống. Những vấn đề của hiện 
thực xã hội được đề cập như đấu tranh giai cấp, đấu 
tranh chống lễ giáo phong kiến, phê phán thói hư tật xấu 
của người đời, đề cao nhân nghĩa; đồng thời ca ngợi lao 
động, ca ngợi tình yêu lứa đôi, ca ngợi quê hương đất 
nước đã trở thành đề tài quen thuộc của lời ca bài chòi. 
Hơn nữa, lời ca bài chòi cũng cần phản ánh tâm lý con 
người với các trạng thái hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục làm 
cho lời ca dài thêm mới có thể chuyển tải hết được sự 
phong phú đa dạng, đa sắc thái do cuộc sống mang lại. 
Gà tơ xào với mướp già 
Vợ hai mươi tuổi, chồng đà sáu mươi 
Ra đường chúng bạn chê cười 
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng 
Đêm nằm tưởng cái gối bông 
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên 
(Con bài Chín gối) 
2.4.2. Thể thơ 
1) Thể lục bát: Lục bát là thể thơ phổ biến nhất 
trong lời ca bài chòi, một câu sáu chữ, một câu tám chữ. 
Lục bát biến thể: là có sự thay đổi số từ ở các dòng 
6 hoặc 8. Biến thể câu lục, biến thể câu bát, hoặc biến 
thể chung: 
- Biến thể câu lục 
Chú giỏi sao chú chẳng đi thi 
Cứ ăn xó bếp ngủ thì chuồng trâu 
Trạng không xứng trạng tui (tôi) có hầu cũng uổng công 
(Con bài Lục trạng) 
- Biến thể câu bát 
Đói lòng ăn hột (hạt) Chà Là 
Vui cười với năm sáu chú bạn, sầu riêng ta một mình 
(Con bài Chín hột) 
- Hoặc biến thể chung 
Nồi tròn thì úp vung tròn 
Nồi méo thì úp vung méo 
Bạn ở là sao cho khôn cho khéo 
Vung méo úp nồi tròn 
(Con bài Thất vung) 
 Hoàng Đình Phương 
34 
2) Song thất lục bát: Theo nhạc sĩ Hoàng Lê: “Thơ 
song thất lục bát rất khó hát bài chòi”1. Khó chứ 
không phải không hát được, vì nó luôn bị tình trạng rời 
rạc, khó logic của hai câu thất với những thể thơ khác 
hoặc ghép nối nhiều thể song thất lục bát lại với nhau 
trong cấu trúc một motip âm nhạc liên hoàn ở phần giai 
điệu. Do điệu hát vừa vào nhịp êm ả ở hai câu thơ lục 
bát, bỗng tiếp theo gặp ngay sự thay đổi tiết tấu, cao độ 
và vị trí của thanh điệu chủ ở hai câu song thất vì phải 
theo sự thay đổi của tiết thơ. Rồi cứ như thế đoạn hát bị 
lặp lại giống nhau nghe rất nhàm tai. 
Tuy hát bài chòi khó đối với những đoạn thơ dài, 
nhưng thể thơ song thất lục bát rất cần cho những chỗ 
chuyển điệu. 
3) Các thể thơ khác: Bên cạnh những thể thơ trên, 
hát bài chòi còn có thơ năm chữ, bốn chữ tuy nhiên, 
những sáng tác cho những thể thơ này không nhiều. 
Những bài thơ thông thường trong khoảng 3, 4, 5 dòng 
hoặc nhiều hơn nữa, và không câu nệ số tiếng trong mỗi 
dòng. Sự hiệp vần của các thể thơ khá tự do, không nhất 
thiết phải hiệp vần bằng trắc như ở thể lục bát. Đặc 
trưng lời của thể thơ này là miễn sao các câu hiệp vần 
với nhau trong một chỉnh thể để phát triển được nhạc 
tính của làn điệu 
2.5. Làn điệu 
Làn điệu là yếu tố cơ bản trong cấu trúc của chỉnh 
thể dân ca có tính ổn định và bền vững, đóng vai trò chủ 
đạo trong việc tổ chức, chi phối, điều tiết lời thơ và diễn 
xướng. Thuật ngữ làn điệu được sử dụng để nghiên cứu 
âm nhạc truyền thống nhất là dân ca. 
Đối với Hát Bài chòi ở Hội An, những làn điệu 
được sử dụng như: Cổ bản, Xuân nữ, nói lối và vay 
mượn những làn điệu lý để ghép lời mới có nội dung 
phù hợp với quân bài muốn hô. 
1 Trích: Hoàng Lê (2001), Lịch sử ca kịch và âm nhạc bài 
chòi, Sở VHTT Bình Định. 
2.5.1. Làn điệu Cổ bản 
Trong Hát Bài chòi truyền thống ở Hội An, làn điệu 
Cổ bản được sử dụng khi mới đầu vào cuộc chơi bài 
chòi để giới thiệu sơ lược tất cả những con bài trong bộ 
bài tỳ, thỉnh thoảng cũng được sử dụng chen vào những 
câu hô với điệu Xuân nữ. 
Điệu Cổ bản được sử dụng không nhiều trong Hát 
Bài chòi truyền thống ở Hội An, nhịp điệu hơi nhanh 
hơn so với điệu Xuân nữ và các làn điệu Lý. Âm nhạc 
tươi vui, trong sáng, tiết tấu đảo phách nhiều, tính chất 
giai điệu pha chút tinh nghịch, khỏe khoắn. Pha trộn 
điệu Cổ bản vào cách hô sẽ làm cho không khí cuộc 
chơi sôi nổi hơn, rộn ràng hơn, xóa tan sự nhàm chán 
của điệu Xuân nữ với mật độ sử dụng nhiều trong buổi 
diễn bài chòi. 
2.5.2. Nói lối 
Nói lối được sử dụng xen lẫn vào giữa những làn 
điệu nhằm thể hiện màu sắc diễn kịch trong cuộc chơi, 
đồng thời giảm bớt sự nhàm chán khi một làn điệu được 
kéo dài thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của nội dung văn học 
con bài. 
2.5.3. Điệu Xuân nữ 
Làn điệu Xuân nữ được sử dụng nhiều nhất, và là làn 
điệu chủ đạo giữ vai trò làm nòng cốt trong suốt cuộc 
chơi Bài chòi truyền thống ở Hội An – Quảng Nam. 
Điệu Xuân nữ thường sử dụng thể thơ lục bát, song 
thất lục bát hoặc lục bát biến thể trong phần lời ca, 
khúc hát dài hay ngắn là tùy thuộc vào nội dung lời ca 
nói về con bài đó, nếu như kéo dài thì bao gồm nhiều 
thể thơ nối tiếp nhau cho đến khi điểm thị con bài đó. 
Âm nhạc được tiến hành với nhịp độ đều, tốc độ ít biến 
đổi, giai điệu uyển chuyển, mềm mại, luyến láy nhiều 
với những âm rung tạo cảm xúc rất độc đáo, làm cho 
người chơi thấm thía những dòng cảm xúc giai điệu dân 
gian đến cuối cuộc chơi. 
Tiết tấu đảo phách là yếu tố đặc trưng của điệu 
Xuân nữ, tạo sự lơ lửng, chênh vênh trong giai điệu, 
điều này muốn nói lên yếu tố tinh nghịch, vui tươi của 
cuộc chơi mặc dầu đây là làn điệu mềm mại, sâu lắng, 
trữ tình. 
Điệu Xuân nữ tha thiết, trữ tình thích hợp với lối tự 
sự giãi bày tâm trạng, lối đan ghép chất liệu đem lại 
giọng điệu mới, tạo nên sự điều hòa tính chất u buồn, 
mềm mại, bên cạnh tính chất rắn rỏi, tươi mát. 
2.5.4. Thể “Lý” được sử dụng trong Bài chòi 
Hội An 
Cũng giống như điệu Cổ bản, làn điệu Lý cũng 
được sử dụng không nhiều trong Hát Bài chòi truyền 
thống ở Hội An. Vai trò của Lý là tô thêm màu sắc của 
cuộc chơi, cuộc diễn Bài chòi. Lý góp phần tăng thêm 
yếu tố dân gian trong cuộc sinh hoạt vui chơi cộng đồng 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),31-37 
 35 
Bài chòi. Khác với làn điệu Xuân nữ, Lý được hát với 
thể thơ tự do 6, 7, 9 chữ hoặc nhiều hơn nữa. 
Làn điệu Lý sử dụng trong Bài chòi Hội An đôi khi 
lấy nguyên cả bài Lý nào đó (chủ yếu thuộc vùng dân ca 
Liên khu V) thay lời mới vào để nói về nội dung còn bài. 
Giai điệu của làn điệu Lý mềm mại, uyển chuyển, 
man mác nỗi buồn đặc hữu của dân ca Liên khu V. Tuy 
vậy, khi được áp dụng vào trong chơi Bài chòi nó được 
nâng lên với nhịp độ nhanh hơn, thể hiện tinh thần vui 
chơi, rộn ràng và hòa nhịp chung với nhịp độ cuộc chơi, 
cuộc diễn với giai điệu Xuân nữ, Cổ bản, 
2.6. Giá trị nghệ thuật 
2.6.1. Giá trị nội dung lời ca 
Sinh hoạt Hát Bài chòi không những là một hình 
thức giải trí dân gian đơn thuần, mà nó còn là một sinh 
hoạt mang tính giáo dục sâu sắc. Lời ca được viết trong 
Hát Bài chòi như một triết lý chứa một giá trị nhân văn 
cao cả, nó mang những giá trị văn hóa tinh thần đầy ý 
nghĩa, một giáo lý nhân văn sâu sắc mà cần phải bảo 
quản, gìn giữ. 
* Tính nhân văn 
Thứ nhất, thông qua nội dung của những câu Thai 
ta có thể tìm thấy trong đó sự ca ngợi tình phụ mẫu, tình 
thầy trò, theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống 
của dân tộc. 
Thứ hai, ca ngợi tình cảm phu thê. Tình yêu luôn là 
đề tài muôn thuở, nó chiếm một phần không nhỏ trong 
tâm hồn của mỗi người. Có khi nó sẽ làm thăng hoa một 
cảm xúc và có khi nó để lại một khoảng lặng buồn trong 
tâm hồn của chúng ta. Trong Bài chòi cũng như thế, 
những câu hát về tình yêu chiếm một vị trí không nhỏ, 
đặc biệt là ca ngợi về sự thủy chung, gắn bó chia sẻ 
những niềm vui, nỗi buồn, sự ngang trái của cuộc đời. 
Thứ ba, ca ngợi những đức tính tốt đẹp của con 
người đó là lòng hiếu nghĩa, lòng nhân ái, sự bao dung, 
chia sẻ, cái tâm trong sáng và những giá trị đạo đức 
truyền thống của dân tộc. 
Nhìn chung, trên đây là những điều cơ bản thể hiện 
tính nhân văn trong Bài chòi. Tuy được thể hiện ở nhiều 
khía cạnh, nhiều cung bậc khác nhau nhưng tất cả đã nói 
lên được tính nhân văn sâu sắc trong Bài chòi. Thế nhưng, 
để làm nên đặc trưng của Bài chòi không chỉ có tính nhân 
văn mà ta cần phải nói đến tính giáo dục trong nó. 
* Tính giáo dục 
Tính giáo dục trong Bài chòi được thể hiện ở nội 
dung của những câu Thai với nhiều khía cạnh khác 
nhau, đó là sự giáo dục về đạo đức, về nhân cách sống, 
về tình yêu quê hương đất nước, hướng con người đến 
những giá trị, những chuẩn mực đạo đức cao đẹp hơn. 
Thứ nhất, giáo dục về tình yêu quê hương, đất 
nước. Tình yêu quê hương đất nước luôn là nguồn cảm 
xúc mạnh mẽ nhất trong sáng tạo nghệ thuật. Ta có thể 
tìm thấy sự hiện diện của nó từ những câu ca mộc mạc, 
quê mùa đậm chất dân dã đến những lời ca mang phong 
cách đương đại. Đối với Bài chòi cũng vậy, tình yêu quê 
hương được khắc hoạ khá sâu sắc trong những câu ca đó 
là lòng tự hào về quê hương, sự gởi gắm tình cảm về 
chốn thôn quê dân dã nơi mình đã chào đời. Đặc biệt, đó 
là những lời nhắn nhủ, mỗi người phải biết hướng về cội 
nguồn, về nơi ta sinh ra và về nơi đã cho ta những điều 
hạnh phúc trong đời... 
Thứ hai, thông qua việc phê phán những tệ nạn xã 
hội từ đó hướng con người tránh xa nó. Đó có thể là phê 
phán những con người bạc tình vô ơn; hay là phê phán 
sự vơ vét, bóc lột của bọn quan lại, cường hào, của 
những kẻ giàu đối với người nghèo. 
Thứ ba, thông qua việc phê phán những hủ tục lạc 
hậu để từ đó hướng con người đến một xã hội văn minh 
hơn như phê phán tục bói toán. 
Ví dụ lời ca sau: 
Tướng cô là cọp cái rừng xanh 
Còn tôi phận con chuột nhắt sánh sao cho bằng 
Số cô là số sát chồng 
v.v. 
Tóm lại, có những giai điệu lời ca làm ta rung động, 
có những giai điệu lời ca để lại một khoảng lặng nào đó 
trong lòng chúng ta và cũng có những giai điệu lời ca 
đem đến cho ta sự hiểu biết về một vùng đất, về con 
người nơi đó. Bài chòi cũng vậy, đây là một loại hình 
đặc trưng của người Nam Trung bộ nói chung và xứ 
Quảng nói riêng. Nội dung của những câu Thai đã cho 
ta hiểu được tính cách của con người nơi đây chân chất, 
ngay thẳng, nhân ái chan hoà. Tuy nhiên, điều đặc trưng 
nhất trong mỗi câu Thai là tính nhân văn và tính giáo 
dục sâu sắc. 
Chính bởi đặc trưng trên đã làm nên sự độc đáo 
trong Bài chòi. Có lẽ vì thế mà sau những giai điệu lời 
 Hoàng Đình Phương 
36 
ca ấy đã cho ta một khoảnh khắc để trở về với những 
giá trị truyền thống của dân tộc. Tuy quê kiểng mà dễ đi 
vào lòng người, tuy mộc mạc, dân dã nhưng thấm đượm 
tính nhân văn. Đến với Bài chòi, ta như đến với một 
phần đời sống tâm hồn của người dân nơi đây. 
Sự cấu thành rất logic giữa các thể thơ đã làm nên 
một chỉnh thể văn học có tính thống nhất cao. Sự đa 
dạng các thể thơ kéo theo phong phú về làn điệu, làm 
cho loại hình sinh hoạt sân khấu dân gian Hát Bài chòi 
truyền thống ở Hội An trở nên hoàn thiện cả về giá trị 
nội dung lẫn giá trị nghệ thuật. 
Mặc dầu lời văn được thay đổi cho phù hợp với ngữ 
cảnh, yếu tố đa dạng tránh sự nhàm chán trong giá trị 
văn học, ngôn ngữ, ngữ điệu giọng nói địa phương hòa 
lộn trong phần lời ca rất nhiều, thế nhưng qua đó, 
chúng ta vẫn nhận ra được giá trị nhân văn, ý nghĩa sâu 
sắc chứa đựng trong lời văn qua từng con bài, qua từng 
giai điệu. 
2.6.2. Giá trị nghệ thuật âm nhạc 
Hát Bài chòi là một phương thức diễn xướng mang 
tính dân gian cao, với một hệ thống phong phú các làn 
điệu được kết hợp đan xen lẫn nhau, đã xây dựng thành 
một vở diễn hoàn chỉnh, có giá trị nghệ thuật khá rõ nét. 
Nói lối xen kẽ trong những lối hát. 
Tổng hợp và gắn kết rất độc đáo các làn điệu, nói 
lối từ những mảng âm nhạc khác nhau như các làn điệu 
có nguồn gốc trong âm nhạc dân gian, các điệu Lý có 
nguồn gốc trong dân ca Liên khu V (hay còn gọi là 
Dân ca dân nhạc) đã làm cho âm nhạc Hát Bài chòi 
truyền thống ở Hội An - Quảng Nam phong phú và đa 
dạng hơn. 
Hát Bài chòi là một nghệ thuật diễn xướng đã nâng 
tính sôi nổi, hấp dẫn cho một hình thức nghệ thuật dân 
gian. Và điều này chính là diện mạo và đặc tính của 
nghệ thuật dân gian, tính “dân gian” được nổi rõ bởi yếu 
tố trên. 
Có thể kết luận rằng: Hát Bài chòi là một trò chơi 
dân gian mang đậm đặc tính sôi nổi, kịch tính, hài hước 
vừa là một màn diễn mang giá trị nghệ thuật diễn xướng 
cao, vừa là một tác phẩm có lời ca mang một giá trị 
nhân văn sâu sắc. 
* So với các địa phương khác có loại hình âm nhạc 
dân gian Hát Bài chòi, thì Hát Bài chòi ở Hội An có nét 
riêng, thể hiện đặc trưng về âm nhạc và văn hóa nơi 
đây: từ tính dí dỏm, hài hước trong cách diễn xuất cho 
đến các làn điệu, giai điệu được sử dụng trong trong 
nghệ thuật này. 
Nhiều tác giả đã nói đến cái nôi của Hát Bài chòi là 
quê hương Bình Định, điều này cũng chưa xác định rõ 
nhưng thiết nghĩ, cho dầu sinh ra khi nào, ở đâu loại 
hình âm nhạc giải trí này vẫn có một nét riêng khi có 
mặt trên một địa phương, hay vùng miền nhất định. Bởi 
vì, đã nói đến dân gian thì phải có tính “dị bản”, “dị 
bản” sao cho phù hợp với văn hóa vùng miền, ngôn ngữ 
địa phương, phong tục nơi đó. Hát Bài chòi là loại hình 
âm nhạc dân gian có tính sáng tạo cao, chính vì vậy, 
việc biến hóa các giai điệu có cùng tên một làn điệu 
(giống như các nơi khác thường dùng) sao cho mang nét 
âm nhạc đặc thù của vùng đất, con người nơi đó là điều 
không tránh khỏi. 
Với vai trò người nghe và tìm hiểu về âm nhạc dân 
gian, chúng tôi có cảm nhận như sau: Ví dụ như làn điệu 
Xuân nữ, so với lối hát Xuân nữ ở quê hương Bình 
Định, thì ở Hội An, làn điệu Xuân nữ hát chậm hơn, 
mềm mại hơn, đầy biểu cảm nhạc tính hơn, 
Chính vì vậy, từ lối hát của của một trò chơi giải trí 
bình dân, Hát Bài chòi đã phát triển lên thành sân khấu 
Dân ca kịch bài chòi trong đó âm nhạc đóng vai trò chủ 
đạo. Đã có một thời loại hình sân khấu Dân ca kịch bài 
chòi (thường gọi là Dân ca kịch Liên khu V, mà cụ thể 
là Quảng Nam và Đà Nẵng) phát triển và thịnh hành rực 
rỡ, cũng chính nhờ sự giàu có về nhạc tính trong giai 
điệu, làn điệu âm nhạc Hát Bài chòi ở Hội An nói riêng 
và Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung. 
3. Kết luận 
 Có vai trò như một phong cách ở loại hình diễn 
xướng thuộc sân khấu dân gian, Hát Bài chòi đã để lại 
một dấu ấn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật dân 
gian, góp phần làm rạng rỡ thêm những mảng khối màu 
sắc về bức tranh âm nhạc dân gian Việt Nam, làm cho 
bức tranh ấy trở nên giàu sức sống, độc đáo, đa dạng và 
lộng lẫy hơn. 
Ý nghĩa vui chơi thư giãn là mục đích chính trong 
màn diễn xướng Hát Bài chòi, ngoài ra còn có những 
vai trò thực tiễn khác mà thời đại ngày nay cần được 
quan tâm và phát huy hơn nữa như: củng cố cộng đồng, 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4 (2016),31-37 
 37 
giáo dục tư tưởng, đạo đức, phản ánh đa dạng những 
nhân tình thế thái trong cuộc sống đời thường, 
Yếu tố văn hoá, vui chơi giải trí hoà trộn trong màn 
diễn xướng đã để lại một giá trị nghệ thuật âm nhạc một 
cách đặc hữu chỉ có ở Hát Bài chòi. Và chúng tôi cũng 
có thể nói rằng, màu sắc âm nhạc chủ đạo trong màn 
diễn xướng Hát Bài chòi là vui tươi, cổ động, hài hước, 
giàu tính kịch 
Chính vì Hát Bài chòi là một hình thức sinh hoạt 
văn hóa có ý nghĩa sâu sắc, một loại hình diễn xướng có 
giá trị đích thực về âm nhạc nên chúng ta cần tôn trọng, 
gìn giữ và có những định hướng để phát huy hình thức 
sinh hoạt văn hóa, giải trí có ý nghĩa thiết thực và vai trò 
rộng lớn này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (1995), Việt Nam 
Ca trù biên khảo, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 
[2] Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử âm nhạc Việt Nam 
(từ thời Hùng Vương đến thời Lý Nam Đế), NXB 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
[3] Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2000), Văn hoá dân 
gian làng biển, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
[4] Ngô Đức Thịnh (2008), Về tín ngưỡng và lễ hội 
cổ truyền, NXB Viện Văn hóa và Khoa học Xã 
hội, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Phước Tương (2004), Hội An di sản văn 
hóa thế giới, NXB Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
[6] Nguyễn Quang Thắng (2001), Quảng Nam đất 
nước và nhân vật I & II, NXB Văn Hóa Thông Tin. 
[7] Tài liệu tổng hợp các ý kiến tại buổi thảo luận 
khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh (1993), 
Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống 
một số dân tộc miền Nam Việt Nam, NXB Viện 
Văn hóa Nghệ thuật, Tp. Hồ Chí Minh. 
[8] Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền thống 
và hiện đại, Viện Âm nhạc, NXB Hà Nội. 
[9] Biên tập: Trần Văn An (2005), Di sản văn hóa 
văn nghệ dân gian Hội An, Chịu trách nhiệm xuất 
bản: Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An. 
[10] Trương Đình Quang (2011), Hát Bả trạo - Hò 
đưa linh, NXB Văn hóa Dân tộc. 
[11] Trương Đình Quang (2005), Men rượu Hồng 
Đào, NXB Đà Nẵng. 
[12] Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007), 
Văn hóa xứ Quảng một góc nhìn, NXB Đà Nẵng. 
BAI CHOI SINGING - A FOLK ART VALUE IN HOI AN - QUANG NAM 
Abstract: Traditional Bai Choi singing in Hoi An is a traditional folk form of singing and performance brimming with Quang 
region’s folk music culture which is still preserved as a very lively activity in this warm-hearted land. This type of music can be 
condidered as a great form of theatre music that belongs to folk music with its own musicological values. Bai Choi singing is a kind of 
popular recreational activity which contains lofty human values, functions as a community link, creates sympathetic relationships, 
especially features profound educational significance. Today, in the open-door time of economic integration and cultural exchange, 
Bai Choi singing also has as its mission to introduce the country’s traditional values to friends and international visitors, bringing them 
a better insight into distinctive beautiful features of the culture, people and country of Viet Nam. 
Key words: Bai Choi singing; a value; art; folk; in Hoi An; Quang Nam. 

File đính kèm:

  • pdfhat_bai_choi_mot_gia_tri_nghe_thuat_dan_gian_o_hoi_an_quang.pdf