Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và đất nông nghiệp trên hệ thống sông Nhuệ

Tóm tắt: Các mẫu đất - nước được lấy dọc theo chiều dài sông Nhuệ từ cống Liêm Mạc - Hà Nội

đến Phủ Lý - Hà Nam vào tháng 6 năm 2016 để nghiên cứu ảnh hưởng của nước tưới đến sự tích

lũy hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu nước giao động từ

<0,001 mg/l;="" 0,002="" mg/l-="" 0,006="" mg/l;="" 0,013-0,025="" mg/l,="" đều="" nằm="" trong="" tiêu="" chuẩn="" cho="" phép="">

với chất lượng nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt cột A2 - QCVN 08:2008/BTNMT.

Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu đất giao động từ 0,15 mg/kg – 0,64 mg/kg; 40,2 mg/kg – 59,7

mg/kg; 32,1 mg/kg – 48,5 mg/kg. Hàm lượng Cd, Cr và Ni trong nước và trong đất thay đổi lớn

theo các vị trí lấy mẫu. Mối tương quan giữa hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và trong đất là khá

cao, hệ số tương quan Pearson giao động từ 0,61 - 0,76, từ đó chứng tỏ rằng việc sử dụng nước

tưới của sông Nhuệ ảnh hưởng đến sự tích lũy hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất. Tại điểm có hàm

lượng Cd, Cr, Ni trong nước tưới thấp thì hàm lượng trong đất cũng rất thấp, ngược lại tại điểm có

hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước tưới cao thì hàm lượng trong đất cũng tăng cao.

pdf 6 trang phuongnguyen 10200
Bạn đang xem tài liệu "Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và đất nông nghiệp trên hệ thống sông Nhuệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và đất nông nghiệp trên hệ thống sông Nhuệ

Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và đất nông nghiệp trên hệ thống sông Nhuệ
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 26 
BÀI BÁO KHOA HỌC 
HÀM LƯỢNG Cd, Cr, Ni TRONG NƯỚC VÀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
TRÊN HỆ THỐNG SÔNG NHUỆ 
Nguyễn Thị Lan Hương1 
Tóm tắt: Các mẫu đất - nước được lấy dọc theo chiều dài sông Nhuệ từ cống Liêm Mạc - Hà Nội 
đến Phủ Lý - Hà Nam vào tháng 6 năm 2016 để nghiên cứu ảnh hưởng của nước tưới đến sự tích 
lũy hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu nước giao động từ 
<0,001 mg/L; 0,002 mg/L- 0,006 mg/L; 0,013-0,025 mg/L, đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép đối 
với chất lượng nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt cột A2 - QCVN 08:2008/BTNMT. 
Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu đất giao động từ 0,15 mg/kg – 0,64 mg/kg; 40,2 mg/kg – 59,7 
mg/kg; 32,1 mg/kg – 48,5 mg/kg. Hàm lượng Cd, Cr và Ni trong nước và trong đất thay đổi lớn 
theo các vị trí lấy mẫu. Mối tương quan giữa hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước và trong đất là khá 
cao, hệ số tương quan Pearson giao động từ 0,61 - 0,76, từ đó chứng tỏ rằng việc sử dụng nước 
tưới của sông Nhuệ ảnh hưởng đến sự tích lũy hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất. Tại điểm có hàm 
lượng Cd, Cr, Ni trong nước tưới thấp thì hàm lượng trong đất cũng rất thấp, ngược lại tại điểm có 
hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước tưới cao thì hàm lượng trong đất cũng tăng cao. 
Từ khóa: Đất nông nghiệp, Kim loại nặng, sông Nhuệ. 
1. MỞ ĐẦU1 
Hiện nay ô nhiễm kim loại nặng (KLN) trong 
môi trường đất đã trở thành vấn đề môi trường 
đáng báo động. Khác với chất thải hữu cơ có thể 
tự phân hủy trong đa số trường hợp, các KLN 
khi đã xâm nhập vào môi trường sẽ tồn tại lâu 
dài. KLN tích tụ vào các mô sống qua chuỗi 
thức ăn và tiềm ẩn rủi ro tích luỹ trong cơ thể 
con người. Quá trình này bắt đầu với nồng độ 
rất thấp của KLN tồn tại trong nước hoặc cặn 
lắng, sau đó được tích tụ nhanh trong các động 
vật và thực vật sống trong nước. Tiếp đến là các 
động vật khác sử dụng các động và thực vật này 
làm thức ăn, dẫn đến nồng độ các KLN được 
tích lũy trong cơ thể sinh vật trở nên cao hơn. 
Cuối cùng, ở sinh vật cao nhất trong chuỗi thức 
ăn (thường là con người), nồng độ KLN sẽ đủ 
lớn để gây độc. Ngày nay tại các vùng ven đô 
này, do tình trạng khan hiếm nguồn nước tưới 
1 Đại học Thủy lợi. 
nên người ta thường tái sử dụng nước thải làm 
nước tưới cho canh tác nông nghiệp. Việc tái sử 
dụng nước thải làm nước tưới đã mang lại cả tác 
dụng có lợi và có hại, đó là tận dụng được 
nguồn dinh dưỡng trong nước thải tuy nhiên 
trong nguồn nước thải này có chứa rất nhiều 
nhân tố gây hại như KLN, các chất hữu cơ độc 
hại khó phân hủy, các loại vi trùng gây bệnh, 
v.v... có hại cho sức khỏe con người. Những 
chất độc hại trên một phần sẽ tích lũy trên cây 
lương thực, rau quả và sẽ để lại hậu quả nghiêm 
trọng cho con người nếu ăn phải, phần còn lại sẽ 
tích lũy vào môi trường đất. 
Sông Nhuệ bắt nguồn từ cống Liêm Mạc - 
Hà Nội chảy dọc theo thành phố Hà Nội đến tận 
Phủ Lý - Hà Nam. Sông Nhuệ có diện tích lưu 
vực 1070 km2 (Trịnh et al., 2007). Nước từ hệ 
thống sông Tô Lịch và Kim Ngưu - Hà Nội 
thường xuyên xả vào sông Nhuệ với lưu lượng 
trung bình từ 11 - 17m3/s, lưu lượng cực đại đạt 
30m3/s (Trịnh et al., 2007). Theo nhiều kết quả 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 27 
nghiên cứu, hàm lượng Cd, Cu, Cr, Pb, Zn, Ni 
trong nước của hệ thống sông Tô Lịch và Kim 
Ngưu khá cao do sự đổ thải trực tiếp từ các nhà 
máy, xí nghiệp dọc hai bên bờ sông (Nguyen et 
al., 2007; Ho et al., 2000). Ngoài ra, dọc theo 
sông Nhuệ còn có rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, 
làng nghề thủ công sản xuất và chế biến kim 
loại đã thải trực tiếp chất thải xuống dòng sông 
không qua xử lý. Vì thế, nước sông Nhuệ được 
dự đoán có độ ô nhiễm KLN rất cao, đặc biệt là 
tại địa điểm chảy qua huyện Thanh Trì nơi giao 
nhận nước thải từ hệ thống sông Tô Lịch và 
Kim Ngưu. Sông Nhuệ cung cấp nước tưới cho 
hơn 100.000 ha đất nông nghiệp, trong đó bao 
gồm 80.000 ha đất nông nghiệp thuộc vùng Hà 
Nội và 20.000 ha đất nông nghiệp vùng Hà Nam 
(Trịnh et al., 2007). Do đó, việc nghiên cứu hàm 
lượng Cd, Cr, Ni trong đất nông nghiệp do ảnh 
hưởng của nước sông Nhuệ là cần thiết cho 
công tác quản lý môi trường sông Nhuệ. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1 Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 
Các mẫu đất - nước được lấy tại thời điểm 
6/2016 dọc theo chiều dài sông Nhuệ từ cống 
Liêm Mạc - Hà Nội đến Phủ Lý - Hà Nam. Vị 
trí lấy mẫu và các ký hiệu mẫu được mô tả trong 
hình 1 và bảng 1. 
 Các mẫu nước (12 mẫu) được lấy ở độ sâu 
trung bình 20 cm theo TCVN 6663-2011, theo 
phương pháp hỗn hợp tại nhiều điểm khác nhau 
với cùng một đối tượng, chứa trong các bình 
polime 0,5 lít cho vào 2ml HNO3 đặc để bảo 
quản dùng để đo hàm lượng Cd, Cr, Ni. 
Các mẫu đất nghiên cứu (12 mẫu) được lấy ở 
tầng đất mặt (0 - 20 cm), theo TCVN 7538 (2)-
2005. Mẫu sau khi lấy về, làm khô ở nhiệt độ 
phòng, nghiền và rây mẫu qua rây 2 mm. Mẫu 
này được sử dụng để xác định hàm lượng Cd, 
Cr, Ni. 
Hình 1. Sơ đồ vị trí lấy mẫu 
2.2 Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1 Phân tích hàm lượng KLN tổng số 
trong nước 
Xác định kim loại nặng trong nước theo 
phương pháp của Eaton et at.,1995. Các mẫu 
nước được lấy được lọc qua phễu lọc loại bỏ các 
chất lơ lửng. Dịch lọc thêm 1 M HNO3 để xác 
định hàm lượng Cd, Cr, Ni trên máy AAS 
(AAS-Solar S2 Thermo electronic cooporation) 
2.2.2. Phân tích hàm lượng KLN tổng số 
trong đất 
Mẫu đất qua rây 2 mm được phá hủy trong 
bình Kjeldahl với dung dịch cường thủy (tỷ lệ 
đất/dung dịch: 1/10). Mẫu sau khi để nguội 
được chuyển vào bình định mức 50 ml và lọc 
qua giấy lọc loại xenlulo không tro, có cỡ lỗ 
trung bình khoảng 8µm và có đường kính 150mm. 
Dịch lọc được sử dụng để xác định hàm lượng 
Cd, Cr, Ni trên máy AAS (Perkin Elmer AA 
800) (Committee of Soil Standard Methods for 
Analyses and Measurements, 1986). 
Bảng 1. Vị trí lấy mẫu và kí hiệu mẫu 
Mẫu nước Mẫu đất 
Ký hiệu Tọa độ Ký hiệu Tọa độ Cây trồng 
Vị trí 
lấy mẫu 
N1 21
o5’14,34”N 
105o46’14,69”E Đ1 
21o5’13,88”N 
105o46’11,00”E Màu Thụy Phương - Hà Nội 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 28 
N2 21
o3’21,44”N 
105o46’21,42”E Đ2 
21o3’22,02”N 
105o46’17,66”E Màu Phú Diễn - Hà Nội 
N3 20
o58’29,63”N 
105o46’48,58”E Đ3 
20o58’29,50”N 
105o46’47,77”E Màu Vạn Phúc - Hà Nội 
N4 20
o57’23,34”N 
105o48’10,09”E Đ4 
20o57’19,19”N 
105o48’05,62”E Lúa Hữu Hòa - Hà Nội 
N5 20
o57’16,63”N 
105o48’31,26”E Đ5 
20o57’16,45”N 
105o48’31,77”E Màu Thanh Liệt - Hà Nội 
N6 20
o56’02,71”N 
105o48’05,53E Đ6 
20o55’58,26”N 
105o48’04,26E Lúa Tả Thanh Oai - Hà Nội 
N7 20
o54’33,29”N 
105o48’26,91”E Đ7 
20o54’34,52”N 
105o48’28,53”E Lúa Đại Áng - Hà Nội 
N8 20
o55’17,61”N 
105o47’30,01”E Đ8 
20o55’18,09”N 
105o47’26,00”E Lúa Cự Đà - Hà Tây 
N9 20
o53’03,02”N 
105o49’58,61”E Đ9 
20o53’01,35”N 
105o50’00,72”E Lúa Nhị Khê - Hà Tây 
N10 20
o52’02,44”N 
105o49’59,6 ”E Đ10 
20o52’06,09”N 
105o50’03,03 ”E Lúa Hiền Giang - Hà Tây 
N11 20
o47’25,62”N 
105o50’17,63”E Đ11 
20o47’26,07”N 
105o50’13,79”E Màu Đồng Quan - Hà Tây 
N12 20
o35’44,17”N 
105o55’32,52”E Đ12 
20o35’45,00”N 
105o55’35,29”E Màu Hoàng Đông - Hà Nam 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong nước sông 
Nhuệ 
Hàm lượng Cd đo được tại các điểm lấy mẫu 
đều nhỏ hơn 0.001 mg/L. Hàm lượng Cr, Ni 
trong các mẫu nước sông Nhuệ được trình bày ở 
hình 2. Hình 2 chỉ ra rằng hàm lượng Cr và Ni 
trong các mẫu nước tại sông Nhuệ có sự khác 
nhau giữa các vị trí lấy mẫu. 
Hàm lượng Cr, Ni trong các mẫu nước giao 
động từ 0,002 mg/L- 0,006 mg/L; 0,013-0,025 
mg/L. Hàm lượng Cd, Cr, Ni đo được đều nằm 
trong tiêu chuẩn cho phép đối với chất lượng 
nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt 
cột A2 - QCVN 08:2008/BTNMT. 
Hình 2 cho thấy hàm lượng Cr, Ni trong 
nước tại điểm thượng nguồn (lấy nước từ sông 
Hồng qua cống Liên Mạc) có giá trị rất thấp. 
Hàm lượng Cr, bắt đầu tăng nhanh từ vị trí N3 
đến vị trí N5 và N6 nguyên nhân của sự tăng 
nhanh này do tại vị trí N3 bắt đầu tiếp nhận 
nguồn nước thải ô nhiễm từ khu công nghiệp và 
nước thải các hộ dân cư. Điển hình như cụm 
công nghiệp Phú Minh (xã Cổ Nhuế, Từ Liêm) 
do công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Việt Hà 
làm chủ đầu tư, và KCN Từ Liêm, nước thải từ 
các khâu rửa khuôn mẫu sau khi đúc nhôm, rửa 
bản kẽm, nhuộm vải, bao nhựa chưa có hệ 
thống xử lý nước thải tập trung, nên toàn bộ 
nước thải từ cụm công nghiệp xả thẳng ra sông 
Nhuệ. Còn tại vị trí N5 thì nhận một lượng lớn 
nước thải sinh hoạt từ sông Tô Lịch và nước 
thải từ một số các cơ sở sản xuất công nghiệp 
rất ô nhiễm không qua xử lý như: Công ty Cổ 
phần cơ khí 75 ở xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh 
Trì. Từ vị trí N9 đến vị trí N12 do không tiếp 
nhận thêm nguồn ô nhiễm nào khác cộng với 
quá trình tự làm sạch và pha loãng bởi các 
nguồn nước khác như sông Đáy qua kênh Vân 
Đình nên hàm lượng Cr đã giảm dần. 
Hàm lượng Ni có giá trị thấp nhất tại điểm 
thượng nguồn lấy nước từ sông Hồng qua cống 
Liên Mạc (N1). Hàm lượng Ni trong các mẫu 
nước có giá trị cao tại một số vị trí như N6, N7. 
Tại vị trí N6 - N7 hàm lượng Ni tăng cao do các 
điểm này tiếp nhận nguồn nước thải từ khu công 
nghiệp Văn Điển, đặc biệt là Nhà máy Pin Văn 
Điển nên hàm lượng Ni khá cao. 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 29 
Hình 2. Hàm lượng kim loại Cr, Ni trong nước 
sông Nhuệ 
QCVN 08:2008/BTNMT: QUY CHUẨN 
KỸ THUẬT QUỐC GIA VỀ CHẤT LƯỢNG 
NƯỚC MẶT 
Cột A2 - Dùng cho mục đích cấp nước sinh 
hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý phù 
hợp; bảo tồn động thực vật thủy sinh, hoặc các 
mục đích sử dụng như loại B1 và B2. 
Cột B1 - Dùng cho mục đích tưới tiêu thủy 
lợi hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu cầu 
chất lượng nước tương tự hoặc các mục đích sử 
dụng như loại B2 
3.2. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu đất 
Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu đất 
sông Nhuệ được thể hiện trên hình 3. Hình 3 
cho thấy hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu 
đất sử dụng nước tưới của sông Nhuệ có sự 
khác nhau giữa các điểm lấy mẫu. Hàm lượng 
Cd, Cr, Ni trong các mẫu đất giao động từ 0,15 
mg/kg – 0,64 mg/kg; 40,2 mg/kg – 59,7 mg/kg; 
32,1 mg/kg – 48,5 mg/kg. 
Hàm lượng Cd thấp ở vị trí đầu nguồn Đ2, 
Đ3, tăng lên ở các vị trí giữa nguồn Đ5 và Đ6 
và giảm dần về các vị trí cuối nguồn. Hàm 
lượng Cd tại các điểm Đ5 và Đ6 cao hơn so với 
các điểm khác nguyên nhân do các vị trí này sử 
dụng nước tưới có hàm lượng Cd trong nước 
cao hơn các vị trí khác. 
Hàm lượng Cr trong các mẫu đất sử dụng 
nước tưới của sông Nhuệ tăng từ vị trí Đ1 đến vị 
trí Đ5, Đ6 và giảm dần từ Đ7 cho đến Đ10 và 
tăng lại ở vị trí Đ11. Hàm lượng Cr trong mẫu 
đất và các mẫu nước tại vị trí giữa sông Nhuệ 
đều có giá trị khá cao qua đó cho thấy hàm lượng 
Cr trong các mẫu đất chịu ảnh hưởng lớn từ hàm 
lượng Cr trong nước tưới của sông Nhuệ. 
Hàm lượng Ni thấp ở vị trí đầu nguồn Đ2 
tăng lên ở vị trí Đ4 và Đ5 và giảm dần về các vị 
trí cuối nguồn. 
Hình 3. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất 
sử dụng nước tưới sông Nhuệ 
Hình 3 cho thấy lưu vực sông bị ô nhiễm Cd, 
Cr, Ni nhất tại vị trí Đ5 - Đ6. Tại các khu vực 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 30 
này hàm lượng Cd, Cr, Ni có giá trị cao hơn rất 
nhiều so với các khu vực khác của lưu vực sông 
Nhuệ. Sự biến đổi giá trị của các kim loại nặng 
(Cr, Ni, Cd) trong các mẫu đất nghiên cứu khá 
tương đồng với sự biến đổi giá trị của các kim 
loại nặng (Cr, Ni, Cd) trong các mẫu nước 
tương ứng về không gian. Các kết quả nghiên 
cứu có giá trị tương đồng với kết quả của các 
nghiên về hàm lượng kim loại nặng (Cd, Cr, Ni) 
trong các mẫu đất ở ngoại thành Hà nội 
(Nguyen et al., 2007; Ho et al., 2000). 
3.3. Đánh giá ảnh hưởng của nước sông 
Nhuệ đến hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất sử 
dụng nước tưới từ sông Nhuệ 
Để đánh giá mối tương quan giữa hàm lượng 
Cd, Cr, Ni trong nước và hàm lượng Cd, Cr, Ni 
trong đất sử dụng nước tưới từ sông Nhuệ, sử 
dụng phương pháp phân tích tương quan bằng 
việc tính toán hệ số tương quan Pearson 
(Cantwell at al., 2002). Kết quả tính toán mối 
tương quan giữa hàm lượng Cd, Cr, Ni trong 
nước với hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất được 
trình bày ở hình 4. Hình 4 cho thấy hệ số tương 
quan Pearson khá cao giao động từ 0,61 – 0,76. 
Hệ số tương quan này chứng tỏ vị trí có hàm 
lượng Cr, Ni trong nước tưới cao thì hàm lượng 
kim loại nặng trong đất cũng rất cao. Việc sử 
dụng nước tưới của sông Nhuệ ảnh hưởng đến 
hàm lượng của các kim loại nặng trong đất. 
Hình 4. Mối tương quan giữa hàm lượng Cr, Ni 
trong nước và trong đất 
4. KẾT LUẬN 
 Chất lượng nước tưới của sông Nhuệ có sự 
biến đổi mạnh mẽ theo chiều dài dòng sông. 
Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu nước giao 
động từ <0,001 mg/L; 0,002 mg/L- 0,006 mg/L; 
0,013-0,025 mg/L, đều nằm trong tiêu chuẩn 
cho phép đối với chất lượng nước mặt dùng cho 
mục đích cấp nước sinh hoạt cột A2 - QCVN 
08:2008/BTNMT. Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong 
các mẫu đất giao động từ 0,15 mg/kg – 0,64 
mg/kg; 40,2 mg/kg – 59,7 mg/kg; 32,1 mg/kg – 
48,5 mg/kg. 
Hàm lượng Cd, Cr, Ni trong các mẫu nước 
và đất sử dụng nước tưới của sông Nhuệ có sự 
khác nhau giữa các điểm lấy mẫu. 
Mối tương quan giữa hàm lượng Cd, Cr, Ni 
trong nước với hàm lượng Cd, Cr, Ni trong đất 
khá cao, hệ số tương quan Pearson giao động từ 
0,61 - 0,76. Quá trình sử dụng nước sông Nhuệ 
để làm nước tưới cho nông nghiệp cũng đã tích 
lũy một lượng lớn hàm lượng KLN trong đất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Quy chuẩn Quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08), (2008). Bộ Tài nguyên Môi trường. 
Tiêu chuẩn Việt Nam về lấy mẫu nước mặt (TCVN 6663), (2011). Bộ Tài nguyên Môi trường 
Tiêu chuẩn Việt Nam về lấy mẫu đất (TCVN 7538 -2), (2005). Bộ Khoa học Công Nghệ 
Committee of Soil Standard Methods for Analyses and Measurements, (1986), Soil Standard 
Methods for Analyses and Measurements, Hakuyusha, Tokyo. 
Eaton, A.D., Clesceri, L.S., Greenberg, A.E. (Eds.), (1995), Standard Methods for Examination of 
Water and Wastewater. 19th ed, American Public Health Association, Washington. 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 59 (12/2017) 31 
Ho, T.L.T., and K. Egashira, (2000), Heavy metal Characteristic of River Sediment in Hanoi, 
Vietnam, Communication Soil Science Plant Analysis: 31, 2901-2916. 
Ministry of Science Technology and Environment, MOSTE of Vietnam, (2008), The standard for 
the water and soil. 
Nguyen, T. L. H., M. Ohtsubo, L. Y. Loretta, and T. Higashi, (2007), Heavy Metal Pollution of the 
To-Lich and Kim-Nguu River in Hanoi City and the Industrial Source of the Pollutants, Journal 
of Agricultural Faculty Kyushu University: 52 (1), 141-146. 
Trinh, A. D., Vachaud, G., Bonnet, M.P., Prieur, N., Vu, D. L., and Le, L.A, (2007), Experimental 
investigation and modeling approach of the impact of urban waste on a tropical river: a case 
study of the Nhue River, Hanoi, Vietnam, Journal of Hydrology: 334, 347-358. 
Abstract: 
CONCENTRATION OF Cd, Cr, Ni IN THE WATER AND SOIL 
ON THE NHUE RIVER SYSTEM 
The heavy metal pollution of water in the Nhue River, that receives wastewater from the To Lich 
and Kim Nguu River system, was investigated together with the effects of use of this water for the 
irrigation of the surrounding farmland. Twelve water samples and 12 soils samples were collected 
from 12 locations in the Nhue River i 6/2016 for heavy metal analyses. The concentration of Cd, Cr 
and Ni in the water samples ranged from <0,001 mg/L; 0,002 mg/L- 0,006 mg/L; 0,013-0,025 mg/L, 
were in the limitation of Vietnamese standard for suface water that used for domestic purpose (A2 - 
QCVN 08:2008/BTNMT). The concentration of Cd, Cr, Ni in the soil samples ranged from 0,15 
mg/kg – 0,64 mg/kg; 40,2 mg/kg – 59,7 mg/kg; 32,1 mg/kg – 48,5 mg/kg. The results showed that 
heavy metal concentrations of Cd, Cr, Ni in the soil samples were much different between locations. 
The relation coefficient between heavy metal concentration of Cd, Cr, Ni of water sample and soil 
sample was very high, Pearson coefficient ranged from 0.61-0.76 for Cd, Cr and Ni. The results 
showed that using irrigation water from the Nhue River effected to cumulate heavy metal 
concentration in the agrilculrural soil. 
Keywords: Agricultural Soil, Heavy Metal, Nhue River. 
Ngày nhận bài: 31/7/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 06/9/2017 

File đính kèm:

  • pdfham_luong_cd_cr_ni_trong_nuoc_va_dat_nong_nghiep_tren_he_tho.pdf