GOLD 2019 và quan điểm của hội phổi Việt Nam trong thực hành quản lý và điều trị COPD tại Việt Nam

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiếp cận và xử trí COPD thực sự là một quá trình thay đổi theo hiểu biết về bản chất bệnh học trong bệnh lý này. Từ nhận thức đơn giản là viêm tăng bạch cầu đa nhân trung tính và tắc nghẽn cho đến viêm với đặc tính đa dạng tác động bệnh học và phản ứng của cơ thể. Từ năm 2013, tài liệu Sáng kiến toàn cầu cho bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (Global initiative for COPD, GOLD) chuyển hướng khuyến cáo tiếp cận bệnh nhân COPD không chỉ dựa trên phân loại mức độ tắc nghẽn (đánh giá bằng giá trị %FEV1 sau thuốc dãn phế quản so với giá trị dự đoán) mà còn dựa trên triệu chứng (1). Đến năm 2017, với phân loại bệnh nhân theo phân nhóm A-D, GOLD gần như xem triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân là yếu tố chính để tiếp cận điều trị (1). Vào khoảng thời gian này, nhiều tài liệu hướng dẫn quốc gia (national guideline) cũng có đồng quan điểm như vậy, như tài liệu hướng dẫn của Czech 2013 (2), Nhật 2013 (3), của Nga năm 2014 (4). Đây là khuynh hướng tiếp cận bệnh nhân cơ bản dựa trên triệu chứng và xem cải thiện triệu chứng, nhất là đợt cấp, là tiêu chí đích trong điều trị COPD. Trên tiêu chí đích là triệu chứng, vấn đề phenotype (hay còn gọi là kiểu hình) đang được xem là chìa khóa tiếp cận hợp lý trong điều trị

pdf 15 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "GOLD 2019 và quan điểm của hội phổi Việt Nam trong thực hành quản lý và điều trị COPD tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: GOLD 2019 và quan điểm của hội phổi Việt Nam trong thực hành quản lý và điều trị COPD tại Việt Nam

GOLD 2019 và quan điểm của hội phổi Việt Nam trong thực hành quản lý và điều trị COPD tại Việt Nam
18
Hô hấp số 19/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếp cận và xử trí COPD thực sự là một quá trình 
thay đổi theo hiểu biết về bản chất bệnh học trong 
bệnh lý này. Từ nhận thức đơn giản là viêm tăng 
bạch cầu đa nhân trung tính và tắc nghẽn cho đến 
viêm với đặc tính đa dạng tác động bệnh học và 
phản ứng của cơ thể. Từ năm 2013, tài liệu Sáng 
kiến toàn cầu cho bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 
(Global initiative for COPD, GOLD) chuyển 
hướng khuyến cáo tiếp cận bệnh nhân COPD 
không chỉ dựa trên phân loại mức độ tắc nghẽn 
(đánh giá bằng giá trị %FEV
1
 sau thuốc dãn phế 
quản so với giá trị dự đoán) mà còn dựa trên triệu 
chứng (1). Đến năm 2017, với phân loại bệnh nhân 
theo phân nhóm A-D, GOLD gần như xem triệu 
chứng lâm sàng trên bệnh nhân là yếu tố chính 
để tiếp cận điều trị (1). Vào khoảng thời gian 
này, nhiều tài liệu hướng dẫn quốc gia (national 
guideline) cũng có đồng quan điểm như vậy, như 
tài liệu hướng dẫn của Czech 2013 (2), Nhật 2013 
(3), của Nga năm 2014 (4). Đây là khuynh hướng 
tiếp cận bệnh nhân cơ bản dựa trên triệu chứng và 
xem cải thiện triệu chứng, nhất là đợt cấp, là tiêu 
chí đích trong điều trị COPD. Trên tiêu chí đích 
là triệu chứng, vấn đề phenotype (hay còn gọi là 
kiểu hình) đang được xem là chìa khóa tiếp cận 
hợp lý trong điều trị. Gần đây, theo một quan điểm 
rõ ràng và khá độc lập, bản cập nhật guideline 
Nga năm 2017 (5) còn đưa ra khái niệm trị liệu 
cơ bản chung, không phụ thuộc triệu chứng cũng 
như nguy cơ và đề xuất cách tiếp cận không sử 
dụng phân nhóm A-D mà theo cách triệu chứng 
đáp ứng với điều trị như thế nào. Cũng trong tài 
liệu này, các chuyên gia Nga cho rằng tài liệu 
hướng dẫn (guideline) không thể chỉ là sản phẩm 
độc lập của các hội chuyên ngành mà không cần 
quan tâm đến khả năng áp dụng trong thực hành 
vốn rất phức tạp và thái độ của các nhà quản lý 
y tế (5). Khái niệm “lấp khoảng trống” đã được 
nói đến và một trong những giải pháp mà bản cập 
nhật này hướng tới đó là phân tuyến thực hành: đa 
khoa hay chuyên khoa (5). 
Từ nhiều năm nay, GOLD guideline là tài 
liệu được nhiều thầy thuốc thực hành ở Việt Nam 
biết và tham khảo. Mới đây GOLD công bố tài 
liệu báo cáo 2019 (6). Trong phiên bản này, Ủy 
ban khoa học của GOLD (GOLD Scientific 
Committee) cho rằng còn có nhiều vấn đề chưa 
đồng thuận (controversies) mà trong đó có những 
điểm rất quan trọng như nên hay không bắt buộc 
chẩn đoán COPD dựa vào tình trạng tắc nghẽn 
?, Có cần có chiến lược case-finding COPD hay 
không ?, Có cần điều trị theo phenotype ngay từ 
đầu ? và Phòng đợt cấp COPD như thế nào ? (7).
Có một quan điểm mà Hội Lao và Bệnh phổi 
Việt Nam (nay là Hội Phổi Việt Nam) cho là rất rõ 
Biên bản đồng thuận chuyên gia
GOLD 2019 VÀ QUAN ĐIỂM CỦA HỘI PHỔI VIỆT NAM TRONG 
THỰC HÀNH QUẢN Lý VÀ ĐIỀU TRỊ COPD TẠI VIỆT NAM
TS.BS NGUyễN VăN THÀNH (T/M Ban biên soạn) 
PCT Hội Phổi Việt Nam
PGS.TS.BS. Đinh Ngọc Sỹ, GS.TS.BS. Đỗ Quyết, PGS.TS.BS. Nguyễn Viết Nhung, PGS.TS.BS. Trần 
Văn Ngọc, PGS.TS.BS. Nguyễn Huy Lực, PGS.TS.BS. Tạ Bá Thắng, PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Hồi, 
PGS.TS.BS. Nguyễn Đình Tiến, PGS.TS.BS. Lê Tiến Dũng, TS.BS. Nguyễn Văn Thọ, TS.BS. Lê Thị 
Thu Hương, TS.BS. Nguyễn Văn Thành, ThS.BS. Cao Thị Mỹ Thúy, ThS.BS. Nguyễn Như Vinh, 
TS.BS. Võ Phạm Minh Thư, BS.CK II Nguyễn Đình Duy.
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
19
Hô hấp số 19/2019
ràng rằng mỗi quốc gia, với những tính riêng có về 
chủng tộc, văn hóa, hệ thống xã hội và kinh tế, cần 
có cách tiếp cận phù hợp để đạt được hiệu quả cao 
nhất trong quản lý và điều trị COPD. Đây cũng là 
điểm mà M. Nishimura, một thành viên Ban soạn 
thảo GOLD nhận định, rằng GOLD guideline 
không lấp được sự khác biệt về vùng, sắc tộc, cách 
tiếp cận của hệ thống chăm sóc y tế (8). 
Trên tinh thần như vậy, Hội Phổi Việt Nam 
phối hợp cùng Tổng Hội Y học Việt Nam tổ 
chức Hội thảo khoa học đồng thuận chuyên gia 
(VINACEEP) lần thứ 5 với chủ đề “GOLD 2019 
và quan điểm của Hội Phổi Việt Nam”. Nội dung 
cơ bản của VINACEEP 5 là hướng tới thảo luận 
và tạo được đồng thuận trong các nội dung:
1. Tăng cường khả năng chẩn đoán được 
COPD, nhất là chẩn đoán sớm, bằng chiến lược 
tầm soát ca bệnh (case-finding).
2. Thực hành quản lý và điều trị COPD theo 
phân tuyến chức năng.
3. Tiếp cận điều trị COPD theo triệu chứng 
và kiểu hình (phenotype).
4. Phòng đợt cấp, nhất là điều trị bằng thuốc.
Biên bản đồng thuận của VINACEEP 5 sẽ 
được công bố trên các tạp chí khoa học trong 
nước sau sự kiện và trong Tạp chí Hô hấp số 19 
(ấn bản của Hội). Ban soạn thảo biên bản đồng 
thuận VINACEEP 5 sẽ rất hân hạnh và cám ơn 
những ý kiến góp ý, bình luận về những nội dung 
liên quan.
2. THỰC TẾ VIỆT NAM
Một nghiên cứu gần đây, nghiên cứu thuộc dự án 
ENHANCE (9), thực hiện khảo sát thực trạng quản 
lý và điều trị bệnh nhân COPD trên 6 bệnh viện 
tuyến cuối của Việt Nam, trong đó gồm cả bệnh 
viện đa khoa và bệnh viện chuyên khoa cho thấy 
còn nhiều khoảng trống trong thực hành. Bệnh 
nhân khảo sát là những trường hợp đã được quản 
lý và điều trị ít nhất từ 3 tháng trở lên. Thuốc đã 
chỉ định điều trị gồm 6 dạng phác đồ, trong đó 
quản lý bằng LAMA chỉ chiếm 5,6%. Không có 
trường hợp nào sử dụng LABA đơn độc. Số bệnh 
nhân sử dụng phác đồ có ICS lên tới 92,7%. Đánh 
giá bệnh nhân vào thời điểm tái khám lần cuối có 
54,0% bệnh nhân có nhiều triệu chứng (CAT≥10), 
37,9% bệnh nhân COPD còn hút thuốc lá và 36,1% 
bệnh nhân có nhiều đợt cấp trong 12 tháng trước. 
Một điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu này là có 
khoảng 50% số bệnh nhân đang được quản lý và 
điều trị ở ngoài tỉnh hoặc ngoài miền nơi bệnh 
nhân đang sống. Một nghiên cứu khác thực hiện 
khảo sát trên các thầy thuốc đa khoa tham gia làm 
đánh giá đào tạo y khoa liên tục (CME) vào năm 
2019 (bài đang công bố) cho thấy khi khám lần đầu 
bệnh nhân COPD, khoảng trống lớn nhất nằm ở kỹ 
năng chẩn đoán, quyết định xử trí và điều trị. Từ 2 
nghiên cứu này có thể có những kết luận: 1) Hiệu 
quả chẩn đoán và quản lý điều trị COPD ngay cả ở 
tuyến chuyên khoa cũng đang còn ở mức thấp và 
2) Dường như công việc chẩn đoán và quản lý điều 
trị COPD đang được xem là của các bác sỹ chuyên 
khoa. Khái niệm về bệnh và xử trí COPD trong các 
bác sỹ đa khoa là khá mơ hồ (bảng 1). Điều này lại 
hoàn toàn ngược lại với quan điểm chung cho rằng 
COPD là bệnh lý mang tính cộng đồng cao, có thể 
xếp vào nhóm các bệnh không lây nhiễm ở cộng 
đồng và quản lý điều trị cơ bản là do y tế tuyến đầu, 
y tế đa khoa chịu trách nhiệm. 
Bảng 1. Kết quả khảo sát kỹ năng thực hành các bác sỹ tham gia CME
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
20
Hô hấp số 19/2019
Nhìn vào thực tế, không chỉ ở Việt Nam, cho 
thấy ở tuyến y tế ban đầu (bác sỹ đa khoa, bác 
sỹ gia đình) đo chức năng hô hấp (spirometry) ít 
khi được thực hiện (10). Trong khi kết quả đo từ 
các bác sỹ đa khoa thường có lỗi và có khuynh 
hướng đánh giá dưới mức mức độ giảm chức 
năng hô hấp (11). Nhìn từ một góc độ khác, trên 
những bệnh nhân đã có chẩn đoán COPD và điều 
trị, trong một nghiên cứu ở cộng đồng năm 2007 
ở Bỉ (12), chỉ có khoảng 1/3 số bệnh nhân được 
đo spirometry, trong khi các bác sỹ vẫn cho rằng 
chẩn đoán COPD như vậy là không chắc chắn 
trên một nửa số bệnh nhân. Khi phân tích nguyên 
nhân khiến cho thực hành COPD không được 
như các guideline khuyến cáo cần phải đề cập 
tới 2 khía cạnh: 1) Trở ngại thực tế khi triển khai 
spirometry trong thực hành thường quy và 2) Giá 
trị của chẩn đoán COPD không spirometry. Trong 
một nghiên cứu, các bác sỹ đa khoa cho rằng việc 
thực hiện spirometry có những trở ngại như sau: 
thiếu khả năng duy trì chất lượng hoạt động tốt 
trang thiết bị, thiếu kiến thức trong việc thực hiện 
đo, bệnh nhân không sẵn sàng thực hiện, tăng chi 
phí khám và quản lý, tăng thời gian khám, không 
đủ tự tin phân tích kết quả (13). Cũng không thể nói 
những lý giải như trên là hoàn toàn vô lý. Như 
vậy, nếu không có quy trình tiếp cận chẩn đoán 
một cách rõ ràng, khả thi và hệ thống, việc chẩn 
đoán quá mức hay dưới mức là hoàn toàn có thể 
xảy ra. Ở Việt Nam, chúng ta cũng không có cơ sở 
để nói rằng thực trạng chẩn đoán, quản lý điều trị 
COPD ở cộng đồng, nhất là ở y tế tuyến chăm sóc 
ban đầu, có thể tốt hơn những đánh giá trên. Thí 
dụ, năm 2012, NV Thành và cs trong một nghiên 
cứu ở cộng đồng ghi nhận 89,1% bệnh nhân 
COPD không biết mình bị COPD và 100% bệnh 
nhân vẫn tiếp tục hút thuốc lá (14). Một nghiên cứu 
khác ở cộng đồng gần đây, năm 2016, NĐ Thọ 
ghi nhận ở cộng đồng có đến 91,3% bệnh nhân 
COPD không được chẩn đoán (số liệu cá nhân, 
luận án tiến sỹ năm 2018). Chúng ta còn thiếu 
dữ liệu đánh giá thực trạng chẩn đoán COPD ở 
cộng đồng. Theo NV Nhung (năm 2011): “Chỉ có 
một số ít bệnh nhân được quản lý thích hợp và 
điều trị hiệu quả” mà nguyên nhân được cho là 
do có những bất cập của hệ thống y tế hiện nay 
trong đó có vai trò của Bảo hiểm y tế và những 
vấn đề giống như đã ghi nhận của các nước khác 
(như hiểu biết của người dân về bệnh, kiến thức 
và năng lực chuyên môn của cán bộ y tế, nhất 
là tuyến y tế cơ sở) (15). Một thực tế đáng ngại là 
ngay cả khi bệnh nhân vào đợt cấp cần nhập viện 
điều trị, khi xuất viện, thông thường bệnh nhân 
không được xem xét một kế hoạch đặt trong một 
hệ thống để theo dõi, chẩn đoán và có các biện 
pháp điều trị thích hợp (15).
Trên cơ sở những nhận xét về khoảng trống 
trong thực hành như trên cho thấy ở Việt Nam vấn 
đề có tính then chốt đó là chẩn đoán, đặc biệt là 
chẩn đoán sớm và tiếp nhận quản lý điều trị. Bên 
cạnh đó, vấn đề nhận dạng bệnh học COPD trên 
từng người bệnh để từ đó có chẩn đoán đúng và 
trị liệu đúng đang được xem là còn nhiều phức tạp 
từ nhận thức tới tiếp cận thực hành. Mặc dù các 
tài liệu hướng dẫn quốc gia, quốc tế đã khá đồng 
thuận trong thuật ngữ điều trị theo “cá thể hóa” 
(personalized treatment) nhưng thực tế thực hành 
ở Việt Nam, để tiếp cận và áp dụng thuần thục 
quan điểm này, các kỹ năng thực hành chẩn đoán 
và điều trị của thầy thuốc là đáng quan tâm nhất 
và rất cần được cải thiện.
3. CÁC ĐỀ XUẤT 2019
Tăng cường khả năng chẩn đoán được COPD, 
nhất là chẩn đoán sớm, bằng chiến lược 
tầm soát cơ hội ca bệnh (opportunistic case-
finding).
Chiến lược tăng cường tầm soát ca bệnh (case 
finding) sẽ làm tăng khả năng chẩn đoán được 
bệnh sớm, cải thiện tiên lượng điều trị nhưng sẽ 
làm tăng số bệnh nhân được quản lý và điều trị. 
Liệu làm như vậy có làm tăng gánh nặng chăm 
sóc y tế, chi phí bảo hiểm y tế không?. Theo các 
nghiên cứu ở Trung Quốc trong khoảng từ 2002-
2015, chỉ khoảng <30% số bệnh COPD được 
chẩn đoán và khoảng 50% trong số họ được quản 
lý điều trị. Chí phí điều trị chiếm từ 33,3% tới 
118,1% thu nhập trung bình/người bệnh, trong 
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
21
Hô hấp số 19/2019
đó chủ yếu là chi phí cho nhập viện điều trị (16). 
Trong một nghiên cứu phân tích chi phí điều trị 
khi nhập viện, S.Mulpuru và cs (năm 2017) (17) ghi 
nhận bệnh càng nặng, chi phí điều trị càng cao mà 
trong đó chi phí chăm sóc và trị liệu thay thế do 
giảm chức năng (chi phí chăm sóc không phải là 
thuốc, alternate level of care, ALC) làm tăng chi 
phí nhiều nhất (OR 23,5; CI 95% 14,1-39,2). Các 
tác giả này kết luận chẩn đoán sớm và cải thiện 
chăm sóc trên bệnh nhân mạn tính là yêu cầu bắt 
buộc để làm tăng chất lượng sống của người bệnh 
và giảm chi phí. Một nghiên cứu khác ở Đài Loan, 
phân tích khuynh hướng sử dụng nguồn lực y tế 
và thuốc trên bệnh nhân COPD trong khoảng thời 
gian 2004-2010 (18), cho thấy số bệnh nhân được 
quản lý điều trị tăng 296% ở năm cuối nghiên cứu 
so với năm đầu nghiên cứu trong khi tổng chi phí 
điều trị lại giảm ở năm cuối so với năm đầu nghiên 
cứu. Các tác giả kết luận giảm chi phí là do tăng 
hiệu quả quản lý và điều trị ở cộng đồng, từ đó làm 
giảm chi phí nhập viện, điều trị ở ICU. Có một 
thực tế ở Việt Nam là tình hình nhập viện do đợt 
cấp COPD ngày càng tăng, ở cả bệnh viện chuyên 
khoa và đa khoa. Sẽ không ngạc nhiên nếu không 
có những tác động căn cơ và hệ thống, các khoa 
trong bệnh viện và ICU sẽ là “túi chứa” COPD 
giai đoạn cuối, đợt cấp COPD và các biến chứng 
khác trên bệnh nhân COPD. Kết cục là chi phí y 
tế sẽ ngày càng tăng, sức khỏe và chất lượng sống 
của người bệnh giảm như sơ đồ minh họa (hình 2).
Hình 2. Sơ đồ minh họa tác động giữa chăm sóc y tế và chi 
phí trong COPD.
Có 2 phương pháp tầm soát ca bệnh (case-
finding) là tầm soát ca bệnh chủ động (active) 
và tầm soát ca bệnh cơ hội (opportunistic). Tầm 
soát ca bệnh chủ động là gửi thư thông báo câu 
hỏi tầm soát trước, khám tầm soát cộng đồng trên 
người có yếu tố nguy cơ và tầm soát ca bệnh cơ 
hội là nhân dịp bệnh nhân đến khám vì bất kỳ lý 
do gì (khám sức khỏe định kỳ, khám vì một bệnh 
lý khác, khám bệnh vì một đợt cấp bệnh hô hấp).
Những phân tích về lợi ích chẩn đoán sớm và 
yêu cầu tập trung phát hiện bệnh trên nhóm nguy 
cơ là rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều rào cản từ bệnh 
nhân để xác định nguy cơ và triệu chứng trên 
người bệnh nhất là khi tầm soát bệnh chủ động (19-
21) như tuổi cao không hiểu câu hỏi của thầy thuốc, 
thiếu nhận biết về triệu chứng, né tránh nói thật, 
nhất là hút thuốc lá và trạng thái sức khỏe không 
tốt do e ngại tâm lý. Khi hỏi bệnh, cần có ngôn 
từ xác định nguy cơ và triệu chứng hô hấp trên 
bệnh nhân thật đơn giản, gần gũi, thân thiện, bằng 
nhiều cách thể hiện, tránh quy kết sớm và nhận 
định tiêu cực (22). Đồng thời thực hiện tầm soát 
cũng tránh làm tăng thêm thời gian khám bệnh 
thường quy của thầy thuốc (19).
Kết hợp với xác định các yếu tố nguy cơ, 
đo chức năng hô hấp bằng dụng cụ thổi đơn giản 
như lưu lượng đỉnh kế (peak flow meter, PFM) 
làm tăng khả năng chẩn đoán xác định (giảm nhu 
cầu xác định bằng spirometry), giảm chi phí (20, 
20a). Trong một nghiên cứu năm 2013, A. Jithoo 
và cs cho thấy đối với COPD trung bình-nặng, 
việc sử dụng PFM giúp làm giảm yêu cầu xác 
định bằng spirometry xuống còn 19-22%. Đối với 
COPD nặng, số trường hợp cần xác định lại bằng 
spirometry xuống thấp hơn, chỉ còn 9%. Các tác 
giả cũng nhận thấy chiến lược tiếp cận với PFM 
như vậy sẽ có chi phí thấp nhất (20). 
Yếu tố tuổi là nguy cơ không nên trẻ hơn 40 
vì tỷ lệ COPD trong nhóm người trẻ thấp, dễ rơi 
vào bẫy giá trị FEV
1 
thấp bình thường (LLN), 
không nên quá già (>70) vì khả năng đo chức 
năng hô hấp kém và khó xác định triệu chứng 
nguy cơ (20,21). Thuốc lá, nhất là đang hút là yếu 
tố nguy cơ xác định COPD cao nhất (hình 4) (22) 
do vậy hút thuốc lá là yếu tố chỉ điểm quan trọng 
nhất, cần được lưu ý đặc biệt.
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
22
Hô hấp số 19/2019
Hình 5. Tỷ lệ bệnh nhân phát hiện được (yield) và số 
bệnh nhân cần để phát hiện được 1 ca bệnh (NNS) bằng 
phương pháp tầm soát ca bệnh chủ động (targed) và cơ hội 
(opportunistic) (21)
Các phân tích cho thấy tầm soát ca bệnh cơ 
hội làm giảm chi phí do chi phí khám bệnh ít hơn 
nhưng hiệu quả tầm soát có thể cao hơn tầm soát 
ca bệnh chủ động (21-2 ...  tố then chốt để đảm bảo 
hiệu quả cao nhất, tuân thủ điều trị tốt nhất, chi 
phí thấp nhất (44). Giải quyết tốt vấn đề tuyến chức 
năng và tích hợp hoạt động trong một hệ thống 
chúng ta hoàn toàn chủ động trong việc xử trí 
những khoảng trống thực hành. 
Điều trị phòng đợt cấp
 Phòng đợt cấp là mục tiêu chính trong điều 
trị COPD. Một phân nhóm bệnh nhân có khuynh 
hướng nhiều đợt cấp (36) và đợt cấp luôn là gánh 
nặng đối với chăm sóc y tế và tiên lượng bệnh. 
Như đã phân tích ở phần đặt vấn đề, bệnh COPD 
sau đợt cấp và nhất là sau đợt cấp nặng cần nhập 
viện thường không được đặt trong một kế hoạch 
theo dõi, chăm sóc và điều trị phòng đợt cấp nên 
tình trạng tái phát và tái nhập viện cao. Trong 
khuôn khổ một biên bản đồng thuận chuyên gia, 
nội dung điều trị dự phòng đợt cấp được đặt ra 
như là điểm nhấn mạnh để cải thiện một khoảng 
trống thực hành rất phổ biến ở Việt Nam.
Bên cạnh những trị liệu không sử dụng thuốc 
như uống đủ nước, dinh dưỡng đầy đủ (nhất là 
đối với những bệnh nhân có BMI thấp), vắc-xin 
phòng cúm và phế cầu, bỏ thuốc lá và thay đổi 
thói quen để cải thiện chức năng vận động, về 
sử dụng thuốc có ba câu hỏi cần trả lời khi bệnh 
nhân chuẩn bị xuất viện sau đợt cấp: 1) Thuốc 
điều trị tiếp theo trong ít nhất 1 tháng là gì ?, 2) 
Bệnh nhân sử dụng thuốc đó có thuận lợi không ? 
và 3) Kế hoạch tái khám và quản lý tiếp theo là 
gỉ?. Tất cả những vấn đề trên cần được xem xét 
bằng một kế hoạch (hay nên gọi là gói chăm sóc 
sau đợt cấp nặng).
Bảng 4. Các can thiệp giảm đợt cấp
Phân loại trị liệu Cụ thể
Thuốc dãn phế quản LABAs, LAMAs, LABA+LAMA
Phác đồ có chứa ICS ICS-LABA, ICS-LABA-LAMA
Kháng viêm không steroid Roflumilast (kháng PDE
4
)
Kháng viêm do nhiễm trùng Vắc-xin, Macrolide kéo dài
Thuốc điều biến dịch tiết (mucoactive) N-Acetylcysteine, Carbocysteine 
Các trị liệu khác Ngưng thuốc lá, phục hồi chức năng, trị liệu giảm thể tích phổi
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
29
Hô hấp số 19/2019
KẾT LUẬN
GOLD là một tài liệu quan trọng mang tính toàn 
cầu trong hướng dẫn thực hành COPD. Tuy 
nhiên, khi áp dụng GOLD, mỗi quốc gia cần có 
quan điểm triển khai các hướng dẫn dựa trên y 
học bằng chứng sao cho phù hợp với hoàn cảnh 
thực tế của mình. Hướng tới xây dựng được một 
hướng dẫn đơn giản, dễ áp dụng, thích hợp với 
công tác quản lý y tế ở Việt Nam, tài liệu này rất 
mong nhận được sự đón nhận và áp dụng của các 
thầy thuốc thực hành và các nhà quản lý. Sẽ rất 
cần có các nghiên cứu đánh giá và bổ sung cho 
tài liệu này. Ban soạn thảo chân thành cám ơn và 
hy vọng Bản đồng thuận này sẽ ngày càng hoàn 
thiện với những nghiên cứu từ thực tế Việt Nam 
và những góp ý của các thầy thuốc khi sử dụng. 
Bảng 5. Chỉ định điều trị theo tuyến và theo phenotype
Minh bạch: 
Ban soạn thảo VINACEEP 5 không có mâu thuẫn lợi ích có liên quan cần khai báo.
Lời cám ơn: 
VINACEEP 5 chân thành cám ơn công ty GlaxoSmithKline, công ty Boehringer Ingelheim đã tài trợ tài 
chính tổ chức hội thảo khoa học. 
VINACEEP 5 chân thành cám ơn các nhà khoa học đã tham gia, gửi bài báo cáo, góp ý phản biện nội dung 
cho Biên bản đồng thuận này. 
Xác nhận: 
Tài liệu này được Hội Phổi Việt Nam và Tổng hội Y học Việt Nam phê duyệt, công bố dưới dạng tài liệu lưu 
hành nội bộ trong cán bộ y tế và trên trang web của Hội (www://hoitho-cuocsong.org.vn)
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
30
Hô hấp số 19/2019
 1. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (GOLD) report 2013, 2017, 2018
2. Vladimir Koblizek, Jan Chlumsky, Vladimir Zindr et 
al. Chronic Obstructive Pulmonary Disease: Official 
diagnosis and treatment guidelines of the 0Czech 
Pneumological and Phthisiological Society; a novel 
phenotypic approach to COPD with patient-oriented 
care. Biomed Pap Med Fac Univ Palacky Olomouc 
Czech Repub. 2013 Jun; 157(2):189-201.
3. Japanese Respiratory Society. Guidelines for the 
Diagnosis and Treatment of COPD. 4th edition. 
Japanese Respiratory Society; 2013. Available 
from: https://www.jrs.or.jp/modules/guidelines/
index.php?content_id=1.
4. A.G.Chuchalin, S.N.Avdeev, Z.R.Aysanov, 
A.S.Belevskiy, I.V.Leshchenko, 
N.N.Meshcheryakova, S.I.Ovcharenko, 
E.I.Shmelev. Russian Respiratory Society 
Federal guidelines on diagnosis and treatment 
of chronic obstructive pulmonary disease. 2014 
5. Kirill A Zykov, Svetlana I Ovcharenko. 
Approaches to drug therapy for COPD in Russia: 
a proposed therapeutic algorithm. International 
Journal of COPD 2017:12 1125–1133
6. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (report 2019)
7. Criner GJ, Martinez FJ, Aaron S,
 Agusti A, 
Anzueto et al. A Current Controversies in Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease. A Report from 
the Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease Scientific Committee. Ann Am Thorac 
Soc. 2019 Jan;16(1):29-39. 
8. M.Nishimura. Lessons for COPD from the GOLD 
2017 report. Respirology (2017) 22, 621
9. Nguyễn Văn Thành, Đinh Ngọc Sỹ, Cao Thị Mý 
Thúy, Nguyễn Đình Duy, Nguyễn Thanh Hồi, Vũ 
Ngọc Trường, Vũ Văn Thành, Lê Thị Thu Hương. 
Thực trạng và quản lý hen, COPD ở Việt Nam. 
Y học Việt Nam số 1, tháng 10/2018. 149-153.
10. Matheson MC, Abeysena C, Raven JM, et al. 
How have we been managing chronic obstructive 
pulmonary disease in Australia? Intern Med J 
2006;36(2):92-9.
11. den Otter JJ, de Bruyn-Schmidt MA, Wolters 
MJ, et al. Lung function measurement in general 
practice. General practice measurements 
compared with laboratory measurements during 
the DIMCA trial. Fam Pract 2000; 17(4):314-16. 
12. Buffels J, Degryse J, Liistro G. Diagnostic 
certainty, co-morbidity and medication in a 
primary care population with presumed airway 
obstruction: the DIDASCO2 study. Prim Care 
Respir J 2009;18(1):34-40. 
13. Julia AE Walters, Emily Hansen, Peter Mudge 
et al. Barriers to the use of spirometry in general 
practice. Australian Family Physician Vol. 34, No. 
3, March 2005
14. Nguyễn Văn Thành, Cao Thị Mỹ Thúy, Võ Phạm 
Minh Thư và cs. Xây dựng mô hình hệ thống 
quản lý và điều trị hiệu quả COPD và Hen phế 
quản trong bệnh viện và ở cộng đồng. NXB Y 
Học 2012, tr. 57-69
15. NV Nhung. Giải pháp cho quản lý hen và bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính ở Việt Nam. Tạp chí Lao 
và bệnh phổi số 3. 4/2011
16. Bifan Zhu, Yanfang Wang, Jian Ming et al. 
Disease burden of COPD in China: a systematic 
review. International Journal of COPD 2018:13 
1353–1364
17. Sunita Mulpuru, Jennifer McKay, Paul Eronksley 
et al. Factors contributing to high-cost hospital 
care for patients with COPD. International 
Journal of COPD 2017:12 989–995
18. Ying-Huang Tsai, Tsung-Ming Yang, Chieh-Mo 
Lin et al. Trends in health care resource utilization 
and pharmacological management of COPD in 
Taiwan from 2004 to 2010. International Journal 
of COPD 2017:12 2787–2793
19. Alexandra Enocson, Kate Jolly, Rachel Elizabeth 
Jordan et al. Case-finding for COPD in primary 
care: a qualitative study of patients’ perspectives. 
International Journal of COPD 2018:13 1623–1632
20. Anamika Jithoo, Paul L. Enright, Peter Burney et 
al. Case-finding options for COPD: results from 
the Burden of Obstructive Lung Disease Study. 
Eur Respir J 2013; 41: 548–555 
20a Fernando J. Martinez, David Mannino, Nancy 
Kline Leidy et al. A New Approach for Identifying 
Patients with Undiagnosed Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease. Am J Respir Crit Care Med 
Vol 195, Iss 6, pp 748–756, Mar 15, 2017
21. Shamil Haroon, Peymane Adab, Carl Griffin 
and Rachel Jordan. Case finding for chronic 
obstructive pulmonary disease in primary care: a 
pilot randomised controlled trial. Br J Gen Pract 
2013; DOI: 10.3399/bjgp13X660788
Tài liệu tham khảo
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
31
Hô hấp số 19/2019
22. Rachel E Jordan, Kin-bong Hubert Lam, Kar Keung 
Cheng et al. Case finding for chronic obstructive 
pulmonary disease: a model for optimising a 
targeted approach. Thorax. 2010 June ; 65(6): 
492–498. doi:10.1136/thx.2009.129395
23. Vaya Konstantikaki , Konstantinos Kostikas, 
Markos Minas et al. Comparison of a network of 
primary care physicians and an open spirometry 
programme for COPD Diagnosis. Respiratory 
Medicine (2011) 105, 274e281
24. Rachel E Jordan, Peymané Adab, Alice Sitch, 
Alexandra Enocson et al. Targeted case finding 
for chronic obstructive pulmonary disease versus 
routine practice in primary care (TargetCOPD): 
a cluster-randomised controlled trial. Lancet 
Respir Med 2016; 4: 720–30
25. Homer Boushey, Paul Enright, Jonathan Samet. 
Spirometry for Chronic Obstructive Pulmonary 
Disease Case Finding in Primary Care?. Am J 
Respir Crit Care Med Vol 172. pp 1481–1486, 2005
26. Tjard R Schermer, Bas Robberts, Alan J Crockett 
et al. Should the diagnosis of COPD be based 
on a single spirometry test?. npj Primary Care 
Respiratory Medicine (2016) 26, 16059
27. Bartolomé R. Celli, Alvar Agustí.COPD: time to 
improve its taxonomy?. ERJ Open Res 2018; 4: 
00132-2017 
28. Agusti A, Fabbri LM, Singh D, et al. Inhaled 
corticosteroids in COPD: Friend or foe?. 
Eur Respir J 2018; in press (https://doi.
org/10.1183/13993003.01219-2018). 
29. Alan G Kaplan. Applying the wisdom of stepping 
down inhaled corticosteroids in patients with 
COPD: a proposed algorithm for clinical practice. 
International Journal of COPD 2015:10 2535–2548
30. Peter J Barnes. Glucocorticosteroids: current and 
future directions. British Journal of Pharmacology 
(2011) 163 29–43
31. Siva R, Green RH, Brightling CE, et al. Eosinophilic 
airway inflam mation and exacerbations of 
COPD: a randomised controlled trial. Eur Respir 
J. 2007;29:906–913. 
32. Saetta M, Di Stefano A, Maestrelli P, et al. Airway 
eosinophilia in chronic bronchitis during exacerbations. 
Am J Respir Crit Care Med. 1994;150:1646–1652.
33. Brightling CE, McKenna S, Hargadon B, et al. 
Sputum eosinophilia and the short term response 
to inhaled mometasone in chronic obstructive 
pulmonary disease. Thorax. 2005;60:193–198.
34. Leigh R, Pizzichini MM, Morris MM, et al. 
Stable COPD: predicting benefit from high-dose 
inhaled corticosteroid treatment. Eur Respir J. 
2006;27:964–971.
35. Kitaguchi Y, Komatsu Y, Fujimoto K, et al. 
Sputum eosinophilia can predict responsiveness 
to inhaled corticosteroid treatment in patients 
with overlap syndrome of COPD and asthma. Int 
J Chron Obstruct Pulmon Dis. 2012;7:283–289.
36. Hurst JR, Vestbo J, Anzueto A, et al. Evaluation of 
COPD longitudinally to identify predictive surrogate 
endpoints (ECLIPSE) investigators. Susceptibility 
to exacerbation in chronic obstructive pulmonary 
disease. N Engl J Med. 2010;363(12):1128–1138.
37. Nobuyuki Hizawa. LAMA/LABA vs ICS/LABA in 
the treatment of COPD in Japan based on the 
disease phenotypes. International Journal of 
COPD 2015:10 1093–1102
38. Konstantinos Kostikas, Andreas Clemens, 
Francesco Patalano.The asthma–COPD overlap 
syndrome: do we really need another syndrome 
in the already complex matrix of airway disease? 
International Journal of COPD 2016:11 1297–1306
39. Luis Pérez-de-Llano, Borja G. Cosio, on behalf of 
the CHACOS study group. Asthma-COPD overlap 
is not a homogeneous disorder: further supporting 
data. Respiratory Research 2017, 18:183
40. Don D. Sin, Marc Miravitlles, David M. Mannino 
et al. What is asthma−COPD overlap syndrome? 
Towards a consensus definition from a round 
table discussion. Eur Respir J 2016; 48: 664–673
41. Marc Miravitlles, Bernardino Alcázar, Francisco 
Javier Alvarez, et al. What pulmonologists think 
about the asthma–COPD overlap syndrome. 
International Journal of COPD 2015:10 1321–1330
42. Miriam Barrecheguren, Miguel Román-Rodríguez, 
Marc Miravitlles. Is a previous diagnosis of asthma 
a reliable criterion for asthma–COPD overlap 
syndrome in a patient with COPD?. International 
Journal of COPD 2015:10 1745–1752
43. Andrea Zanini, Francesca Cherubino, Elisabetta 
Zampogna et al. Bronchial hyperresponsiveness, 
airway inflammation, and reversibility in patients 
with chronic obstructive pulmonary disease. 
International Journal of COPD 2015:10 1155–1161
44. Peter Lange, David M Halpin, Denis EO’Donnell 
et al. Diagnosis, assessment, and phenotyping 
of COPD: beyond FEV1. International Journal of 
COPD 2016:11 (Special Issue 1st World Lung 
Disease Summit) 3–12
 Biên Bản đồng thuận chuyên gia
32
Hô hấp số 19/2019
44. Bravein Amalakuhan, Sandra G Adams. Improving 
outcomes in chronic obstructive pulmonary 
disease: the role of the interprofessional approach. 
International Journal of COPD 2015:10 1225–1232
45. David MG Halpin, Marc Miravitlles, Norbert 
Metzdorf, Bartolomé Celli. Impact and prevention 
of severe exacerbations of COPD: a review of 
the evidence. International Journal of COPD 
2017:12 2891–2908
46. Wedzicha JA, Calverley PMA, Albert RK, et al. 
Prevention of COPD exacerbations: a European 
Respiratory Society/American Thoracic Society 
guideline. Eur Respir J 2017; 50: 1602265
47. Gerard J. Criner, Jean Bourbeau, Rebecca 
L. Diekemper et al. Prevention of Acute 
Exacerbations of COPD. American College of 
Chest Physicians and Canadian Th oracic Society 
Guideline. Chest 2015; 147 ( 4 ): 894 - 942
Các chữ viết tắt:
Chữ viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh tương đương
ACOS Hội chứng hen-COPD chồng lấp Asthma–COPD overlap syndrome
BMI Chỉ số khối cơ thể Body mass index
CAT Bảng đánh giá lâm sàng COPD COPD Assessment Test
COPD Bệnh phổi tác nghẽn mạn tính Chronic obstructive pulmonary disease
CRS Corticosteroid (thuốc)
ENHANCE Tăng cường chất lượng quản lý các bệnh hô hấp phổ 
biến ở Việt Nam (dự án do THYH-VN chủ trì)
Enhancing the quality of management for 
common respiratory (project)
FeNO Phân suất NO trong khí thở ra (tính bằng ppb) Fractional exhaled nitric oxide (parts per 
billion) 
GOLD Sáng kiến toàn cầu cho bệnh phổi tác nghẽn mạn tính Global Initiative for Chronic Obstructive 
Lung Disease
ICS Thuốc corticosteroid dạng hít Inhaled corticosteroid
ICU Khoa (đơn vị) chăm sóc đặc biệt (còn gọi là khoa hồi 
sức tích cực)
Intensive care unit (department)
LABA Thuốc dãn phế quản kích thích beta2 tác dụng dài Long-acting β2-agonist
LAMA Thuốc dãn phế quản kháng muscarinic tác dụng dài Long-acting muscarinic antagonist
LLN Giá trị thấp bình thường (chức năng hô hấp) Lower Limits of Normal (spirometry) 
mMRC Thang điểm đánh giá mức độ khó thở Modified Medical Research Council 
(Dyspnea Scale)
PDE4 Thuốc ức chế men phosphodiesterase-4 Phosphodiesterase-4 inhibitor
PEF Lưu lượng đỉnh thở ra (chức năng hô hấp) Peak expiratory flow
PFM Dụng cụ đo lưu lượng đỉnh (lưu lượng đỉnh kế) Peak flow meter
SABA Thuốc dãn phế quản kích thích beta2 tác dụng ngắn Short-acting β2-agonist
SAMA Thuốc dãn phế quản kháng muscarinic tác dụng ngắn Short-acting muscarinic antagonist
VINACEEP Biên bản đồng thuận chuyên gia Hô hấp Việt Nam (còn 
gọi là hội thảo đồng thuận)
Vietnam Consensus of Respiratory Expert 
Panel 

File đính kèm:

  • pdfgold_2019_va_quan_diem_cua_hoi_phoi_viet_nam_trong_thuc_hanh.pdf