Giáo trình Lý luận về nhà nước pháp quyền - Đinh Ngọc Thắng (Phần 1)
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
1. BẢN CHẤT, NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN
1.1. Bản chất, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
1.1.1 Nhà nước pháp quyền – giá trị phổ biến của nền dân chủ
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong
việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ
lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội
học, sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền
được các nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn
đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: nhà nước pháp quyền là
nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành
theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và
công lý. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể
thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế
ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý luận về nhà nước pháp quyền - Đinh Ngọc Thắng (Phần 1)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Đinh Ngọc Thắng GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Vinh - 2011 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Đinh Ngọc Thắng GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 3 Phân công biên soạn: - Chủ biên: Đinh Ngọc Thắng - Các tác giả: Đinh Ngọc Thắng : Chương 1 đến Chương 3 4 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 1. BẢN CHẤT, NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Bản chất, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền 1.1.1 Nhà nước pháp quyền – giá trị phổ biến của nền dân chủ Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học, sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền được các nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: nhà nước pháp quyền là nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép được coi như một trong những nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Khía cạnh khác của Nhà nước pháp quyền, hầu như đối lập với yêu cầu kiểm soát và kiềm chế đối với bộ máy nhà nước là yêu cầu về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. ở khía cạnh này, nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm bằng pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Những công chức và cơ quan thực thi pháp luật không được có những hành vi hoặc quyết định hạn chế hay tước quyền tự do, dân chủ và tiếp cận công lý của người dân mà không dựa trên những cơ sở chắc chắn của pháp luật. Công dân được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm được coi là nguyên tắc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong Nhà nước pháp quyền. Như vậy, có thể thấy Nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được hợp pháp hoá bởi pháp luật. Pháp luật là nền tảng của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho nhà nước pháp quyền phải như thế nào? Đương nhiên, một hệ thống pháp luật với những quy định hạn 5 chế quyền tự do dân chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, công lý không được bảo đảm, chưa kể đến việc thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thì không thể trở thành nền tảng của nhà nước pháp quyền, bởi vì không đáp ứng được yêu cầu thứ hai của nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân và công lý. Như vậy, xét ở khía cạnh giá trị đạo đức xã hội thì pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải phục vụ và bảo đảm được các yếu tố này. Nói như Josef Thesing thì nhà nước pháp quyền phải dựa trên “vị trí tối thượng của pháp luật và khái niệm về đạo đức của công lý”1. Về phương diện lý luận, Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế – xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ. Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau: - Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển. - Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. 1 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, T. 34. 6 Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. 1.1.2.Tính phổ biến và tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền và các mô hình tương ứng Thành tựu khoa học pháp lý hiện đại đã cho thấy Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ: (i) với tính cách là học thuyết, là tư tưởng; (ii) với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực thi dân chủ. Từ phương diện lý thuyết, học thuyết về Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc và lịch sử phát triển cùng với nguồn gốc và lịch sử của các học thuyết chính trị – pháp lý nói chung và của các trào lưu tư tưởng chính trị nói riêng. Đó là lịch sử đấu tranh vì mục tiêu xác lập những cách thức cầm quyền tốt cho người dân, chống sự lạm quyền và vi phạm các lợi ích hợp pháp của công dân. Nói một cách khái quát hơn – lịch sử của các học thuyết về Nhà nước pháp quyền là lịch sử của những tư tưởng, những quan điểm xoay quanh cái trục quan hệ giữa Nhà nước và xã hội, giữa hai phạm trù giá trị là quyền lực và pháp luật. Bên cạnh đó, với tính cách là một giá trị phổ biến của nhân loại, Nhà nước pháp quyền luôn được hiểu là phương thức tổ chức quyền lực Nhà nước và thực thi nền dân chủ với các đặc điểm: (i) Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa hợp hiến; (ii) pháp luật giữ vị trí chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong xã hội, Nhà nước cũng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật; (iii) bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư pháp; (iv) pháp luật 7 phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải bảo đảm tính công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời; (v) tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền con người. Trên cơ sở những thuộc tính phổ biến trên, nhiều nhà nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng, các Nhà nước, khi thiết kế mô hình và bắt tay vào xây dựng chế độ Nhà nước pháp quyền đều không thể không tính đến truyền thống lịch sử, văn hoá và bối cảnh chính trị cụ thể của từng nước. Tuy nhiên, những “biến thể” đó chỉ có thể liên quan đến những yếu tố (hay còn gọi là những đặc trưng) không thuộc đặc trưng cơ bản. Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị của Việt Nam, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền có thể được coi là yếu tố đặc trưng riêng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam mà ở nhiều nước có chế độ Nhà nước pháp quyền không có. Như vậy, mô hình có tính đặc trưng riêng cho từng quốc gia. Mô hình bảo đảm trước hết các yếu tố cơ bản của chế độ Nhà nước pháp quyền và những yếu tố đặc thù. Mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản với các yếu tố đặc thù ấy là mối liên hệ biện chứng giữa cái chung, cái phổ biến với cái riêng, cái đặc thù, hoàn toàn thống nhất và chấp nhận được nhau như những giá trị nhất quán. Sẽ không có và không thể xác lập và khẳng định được chế độ Nhà nước pháp quyền nếu các yếu tố đó loại trừ, vô hiệu lẫn nhau, đối nghịch với nhau với tính cách là những giá trị xã hội. Vậy, những yếu tố đặc thù của một chế độ Nhà nước pháp quyền cụ thể đó là gì? Vì sao lại có sự biến thể (modification) như vậy? Có thể nói rằng, lý do của sự khác biết ấy là hết sức đa dạng có thể nêu lên một số nhóm lý do như sau. Thứ nhất, đó là sự khác biệt về cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước. Chẳng hạn, ở Thái Lan, Nhật Bản, Campuchia cơ cấu quân chủ vẫn tồn tại, nhưng bên cạnh đó là một chế độ Nhà nước pháp quyền. Vì thế, chế độ Nhà nước pháp quyền đó đương nhiên phải biết thích nghi tốt với chế độ quân chủ và ngược lại. Ở các nước phương Tây một yếu tố được coi như là hòn đá tảng của Nhà nước pháp quyền của họ là chế độ phân quyền rõ rệt trong một hệ thống chính trị đa đảng có đảng đối lập, có các nhóm lợi ích và xã hội dân sự. Nhà nước pháp quyền theo mô hình ấy phải là cơ sở cho một chế độ dân chủ đa nguyên nhằm tạo 8 ra những cơ chế cần thiết cho sự thể hiện các lợi ích và cân bằng quyền lực, bảo đảm tính pháp lý và sự hợp pháp của quyền lực nhà nước. Như vậy, đặc điểm của chế độ Nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào đặc điểm của chế độ dân chủ và là bệ đỡ cho chế độ dân chủ đó2. Giáo sư Josef Thesing của Cộng hoà Liên bang Đức đã viết như sau: “Ở bất cứ nơi nào chế độ pháp quyền hình thành trên cơ sở một trật tự chính trị, thì ở nơi đó nó cũng dạy cho người dân biết phải giải quyết xung đột về giá trị hoặc lợi ích theo quy định pháp luật chứ không dùng đến bạo lực”3. Nói cách khác, chế độ pháp quyền phải gắn liền và hài hoà với chế độ dân chủ, với phương thức tổ chức và hoạt động của nền chính trị và hệ thống chính trị. Do đó, sự khác biệt và đa dạng của mô hình dân chủ chắc chắn sẽ tạo nên sự khác biệt và sự đa dạng của các mô hình Nhà nước pháp quyền. Từ đó, chúng ta thấy trong khuôn mẫu chung của chế độ dân chủ chính trị đa đảng và của chế độ phân quyền vẫn tồn tại những cách thiết kế mô hình nhà nước pháp quyền ở Hoa Kỳ, ở Pháp, ở CHLB Đức, ở Nhật Bản v.v. Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa với các tổ chức thể chế nhiều đảng (8 đảng) hợp tác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và trong khuôn khổ của một hệ thống chính trị như vậy, Trung Quốc đã chủ trương phát triển kinh tế thị trường, cải cách mở cửa và xây dựng chế độ pháp trị. Ở nước ta, Đảng đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện khẳng định vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, với cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát huy vai trò làm chủ và sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Như vậy, mặc dù có cùng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa với chính quyền thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhưng mô hình Nhà nước pháp quyền của Việt Nam có sự khác nhau với mô hình Nhà nước pháp trị của Trung Quốc. 2Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 13 -14. 3Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 14. 9 Thứ hai, đó là sự khác biệt về tính chất của nền kinh tế thị trường của các nước khác nhau. Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, một chế độ Nhà nước pháp quyền chỉ có thể được bắt tay vào xây dựng, hình thành và phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bởi vì, chỉ trong một nền kinh tế thị trường mới cần đến sự bảo đảm từ sự quản lý nhà nước nhằm duy trì và phát triển tự do, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường, kích thích sáng kiến và cạnh tranh lành mạnh.Tuy nhiên, kinh tế thị trường có những đặc điểm riêng ở mỗi nước và do đó nó đòi hỏi những mô hình đặc thù phù hợp của chế độ Nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường được Đảng và Nhà nước ta xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN có chức năng bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành không chỉ theo cơ chế thị trường mà phải tạo ra những cơ sở pháp lý và chính sách để cơ chế kinh tế đó phù hợp và thúc đẩy đạt được các mục tiêu xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ ba, đó là sự khác biệt của văn hoá và đạo đức truyền thống T\ừ quan niệm khác nhau về mối liên hệ giữa pháp luật với các yếu tố đạo đức xã hội đã dẫn đến hai mô hình Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền thực chứng cứng nhắc và Nhà nước pháp quyền khoan dung, dựa trên nền tảng văn hoá và đạo đức xã hội. Theo mô hình Nhà nước pháp quyền thực chứng, mọi cá nhân và tổ chức đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trật tự pháp luật theo yêu cầu của nguyên tắc pháp lý đó. Mô hình Nhà nước pháp quyền khoan dung không phủ nhận các chuẩn mực pháp lý. Tuy nhiên, theo quan niệm này, điều cốt lõi trong quan hệ giữa pháp luật, Nhà nước và đạo đức là ở chỗ Nhà nước tạo ra các cơ cấu pháp lý để giúp cá nhân hành động không chỉ theo pháp luật mà theo cả các nguyên tắc đạo đức và cuối cùng ai cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nền tảng đạo đức của chế độ pháp trị ở đây chính là khoan dung, tự do và bình đẳng. Nhà nước pháp quyền bảo đảm để mỗi cá nhân tự do thực thi trách nhiệm. Thứ tư, đó là sự khác biệt về truyền thống pháp luật. Nhiều công trình nghiên cứu so sánh về pháp luật đã cho thấy rằng, cách thức tổ chức quyền lực nhà 10 nước ở những mức độ lớn được quyết định bởi đặc điểm của hệ thống pháp luật. Điều này không có gì khó hiểu, bởi vì suy cho cùng, áp dụng pháp luật là lý do tồn tại quan trọng của các thiết chế quyền lực. Với nghĩa đó, chúng ta thấy có mô hình tổ chức và chức năng, thẩm quyền, vai trò, địa vị của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp có sự khác nhau và được phân biệt theo hai mô thức lớn là mô thức châu Âu lục địa và mô thức Anh – Mỹ, bởi có sự tồn tại của hai hệ thống pháp luật rất khác nhau: hệ thống pháp luật lục địa (châu Âu) và hệ thống thông luật (Common Law) của Anh – Mỹ. Như vậy, chúng ta có thể đi đến một kết luật chắc chắn rằng, có một mô hình phổ biến của Nhà nước pháp quyền với tính cách là những yêu cầu, ... g một hệ thống pháp luật hoàn thiện là đòi hỏi và cũng là điều kiện tiên quyết của Nhà nước pháp quyền. Không thể có Nhà nước pháp quyền ở bất cứ một quốc gia nào, nếu như ở đó nhà nước 39 chưa được tổ chức và hoạt động trên nền tảng của một hệ thống pháp luật có thể bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. 3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNHXH đầy khó khăn và do đó, không tránh khỏi sự thăng trầm. Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước đây, Cộng hoà XHCN Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của một Nà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi đến những năm Đổi mới, Nhà nước pháp quyền XHCN mới trở thành một khái niệm chính trị – pháp lý chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hoá trong sự nghiệp Đổi mới và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị – pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật của Nhà nước XHCN Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. 3.2.1. Nhận diện những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành Hệ thống pháp luật nước ta trong hơn hai thập kỷ qua đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Chính những thành tựu này trong lĩnh vực lập pháp đã giúp Việt Nam vượt qua những điều kiện về mặt thể chế mà WTO đặt ra đối với việc kết nạp các thành viên và đương nhiên đáp ứng được rất nhiều nhu cầu phát triển nội tại của đất nước. Bên cạnh đó, tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN cũng đòi hỏi hệ thống pháp luật Việt Nam tiếp tục cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Từ các yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, chúng tôi cho rằng, hệ thống pháp luật hiện hành đang tồn tại một số hạn chế lớn sau: Thứ nhất, rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy phạm pháp luật. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư pháp, tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 đến 30 tháng 11 năm 2008, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước 40 đã có tới 19126 văn bản, trong đó có 208 Luật, Bộ luật, 192 Pháp lệnh, 2097 Nghị định, 267 Nghị quyết và 36 Thông tư, 1213 Thông tư liên tịch19. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau để hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên 126 văn bản. Trong lĩnh vực môi trường thì có đến khoảng 300 văn bản pháp luật khác nhau đang còn hiệu lực. Nếu kể cả các văn bản pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành thì con số này sẽ rất đồ sộ. Hơn nữa, do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và, vì thế, kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, việc áp dụng, thực hiện không hề dễ dàng đối với cán bộ pháp luật có trình độ, chưa nói đến các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân. Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi. Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội cụ thể và từ đó, của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế. Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa 19 Nguồn: 41 đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật lại là văn bản pháp luật “khung” hay văn bản pháp luật “ống”. Phần lớn các văn bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban hành Nghị định để cụ thể hoá. Nhiều Nghị định của Chính phủ lại giao cho Bộ, Ngành, địa phương hướng dẫn thực hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành. Sự khác nhau trong ý kiến của Bộ Tài Nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng xung quanh quyết định của UBND TP Hồ Chí Minh về các giấy tờ nhà đất được giao dịch và của Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội về việc giao cho một cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là một ví dụ. Việc triển khai thực hiện pháp luật theo cách này thiếu kịp thời, khó mang lại hiệu quả cao, vì phải chờ văn bản của các cấp khác nhau. Thứ tư, tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế, nhất là nhìn nhận từ tính minh xác, tính minh định. Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch. Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao. Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật nhà ở, Luật đất đai, Bộ luật dân sự về một số vấn đề (như: hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công 42 luận nêu lên gần đây là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của nước ta. Cuối cùng, trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật và, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Ví dụ như tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật hình sự mà không quản lý công tác phòng chống tội phạm, xử lý tội phạm, giáo dục phạm nhânthì khó có được một chính sách hình sự hoàn chỉnh, ổn định, thúc đẩy, chứ không phải kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước20. 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang được hiện thực hoá trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà chúng ta chủ trương xây dựng, chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một nhà nước pháp quyền XHCN. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN có những tiêu chí riêng sau đây: Thứ nhất, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Trong một Nhà nước theo chế độ pháp trị, pháp luật mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền “bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì không thể có sự cùng tồn tại trong hoà bình và tự do”21. Với nhà nước pháp quyền XHCN thì giá trị của pháp luật phải bổ sung thêm yếu tố là bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, 20 Hà Hùng Cường, Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Nguồn : he-thong-phap-luat-111ap-ung-yeu-cau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn 21 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, Tr. 55. 43 công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan. Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta – Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng -an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48/NQ-TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, với sáu định hướng cho việc 44 xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; và hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Những nghiên cứu, đánh giá ban đầu ba năm thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW cho thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Những thành tựu to lớn mà Nghị quyết số 48/NQ-TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW trong ba năm qua cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ và sự nhận thức có lúc còn chưa đầy đủ về giá trị to lớn của Nghị quyết này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Một số định hướng, đặc biệt là “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” chưa được triển khai một cách toàn diện và triệt để. Do đó, đã đến lúc chúng ta cần tổ chức sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW. Mà cũng là đúng lúc, để có những nghiên cứu thấu đáo chuẩn bị cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng là để tiếp tục thực hiện các quan điểm và định hướng chiến lược của Nghị quyết số 48/NQ-TW. Chẳng hạn, những định hướng quan trọng như đến năm 2010 phải xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép; những định hướng cụ thể cho việc xây dựng luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp cần sớm được xác định lộ trình và những giải pháp thực hiện cụ thể. Trong thực tế, do nhận thức chưa đầy đủ, việc triển khai thực hiện các quan điểm và định hướng chiến lược đúng đắn của Nghị quyết còn gặp phải những khó 45 khăn, cản trở nhất định ngay từ phía một số cơ quan nhà nước. Xu thế “status quo” (giữ nguyên hiện trạng, không cần thay đổi) không phải là không có trong các cơ quan có trách nhiệm trực tiếp thực hiện Nghị quyết22. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày quá trình phát triển nhận thức về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại 2. Khái niệm và các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền? 3. Khái quát quá trình nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền. 4. Trình bày các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. 5. Các yêu cầu của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền? 22 Hà Hùng Cường, Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Nguồn : he-thong-phap-luat-111ap-ung-yeu-cau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_luan_ve_nha_nuoc_phap_quyen_dinh_ngoc_thang_ph.pdf