Giáo trình Công nghệ tế bào thực vật (Phần 2)
Chƣơng 5. NUÔI CẤY TẾ BÀO TRẦN
5.1. Giới thiệu chung về nuôi cấy tế bào trần
Việc giới thiệu về quy trình sử dụng enzyme để cô lập tế bào trần thực vật
(Cooking 1960) đã đƣa ra một bộ mặt mới đầy hứa hẹn cho tế bào thực vật và nuôi
cấy mô và mở ra một lĩnh vực mới trong sinh học tế bào thực vật. Điều làm cho tế bào
trần có tác động mạnh nhƣ một hệ thống thí nghiệm đó là hệ enzyme phân hủy vách tế
bào làm lộ ra bề mặt màng tế bào nhƣ là một rào cản giữa môi trƣờng bên ngoài và
thành phần bên trong tế bào. Sự tiếp cận đến màng sinh chất có ý nghĩa là thí nghiệm
có thể đƣợc thiết lập để nghiên cứu và thao tác trên các thuộc tính của màng tế bào
điều mà không thể thực hiện đƣợc khi bị bao phủ bởi vách tế bào. Tế bào trần đƣợc sử
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực thí nghiệm từ nghiên cứu những tính chất vật lý
của màng sinh chất (Ruesink 1973) đến những nghiên cứu nhập bào và hấp thu các
phần tử (Willison et al. 1971), các bào quan (Potrykus 1975) và vi sinh vật (Davey và
Power 1975). Hơn thế nữa, do tính sẵn sàng có thể sử dụng tế bào trần cho các
phƣơng pháp phá vỡ tế bào để nhanh chóng thâu nhận các bào quan và các đại phân tử
mà không gặp phải sự biến dạng hƣ hỏng nhƣ các phƣơng pháp ly trích thông thƣờng
(Howland et al. 1975). Rất dễ nhanh chóng nhận thấy rằng các tính chất của màng
sinh chất dƣới một số điều kiện thuận lợi nào đó có thể chịu sự dung hợp và có khả
năng hình thành tế bào lai, cuối cùng dẫn đến sự tạo ra tế bào lai sinh dƣỡng liên quan
đến sự cải thiện năng suất thu hoạch mùa vụ (Nickell và Torey 1969). Do mỗi một tế
bào cách ly với tế bào khác trong quần thể tế bào trần và là một hệ thống đơn bào nên
có thể thao tác tƣơng tự nhƣ quần thể vi sinh vật. Tính chất này đƣợc khai thác thành
công trong thí nghiệm cho nhiễm đồng loạt bởi virus (Takebe 1975), nuôi cấy nhân
giống vô tính tế bào và phân lập các tế bào đột biến.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Công nghệ tế bào thực vật (Phần 2)
Chƣơng 5. NUÔI CẤY TẾ BÀO TRẦN 5.1. Giới thiệu chung về nuôi cấy tế bào trần Việc giới thiệu về quy trình sử dụng enzyme để cô lập tế bào trần thực vật (Cooking 1960) đã đƣa ra một bộ mặt mới đầy hứa hẹn cho tế bào thực vật và nuôi cấy mô và mở ra một lĩnh vực mới trong sinh học tế bào thực vật. Điều làm cho tế bào trần có tác động mạnh nhƣ một hệ thống thí nghiệm đó là hệ enzyme phân hủy vách tế bào làm lộ ra bề mặt màng tế bào nhƣ là một rào cản giữa môi trƣờng bên ngoài và thành phần bên trong tế bào. Sự tiếp cận đến màng sinh chất có ý nghĩa là thí nghiệm có thể đƣợc thiết lập để nghiên cứu và thao tác trên các thuộc tính của màng tế bào điều mà không thể thực hiện đƣợc khi bị bao phủ bởi vách tế bào. Tế bào trần đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực thí nghiệm từ nghiên cứu những tính chất vật lý của màng sinh chất (Ruesink 1973) đến những nghiên cứu nhập bào và hấp thu các phần tử (Willison et al. 1971), các bào quan (Potrykus 1975) và vi sinh vật (Davey và Power 1975). Hơn thế nữa, do tính sẵn sàng có thể sử dụng tế bào trần cho các phƣơng pháp phá vỡ tế bào để nhanh chóng thâu nhận các bào quan và các đại phân tử mà không gặp phải sự biến dạng hƣ hỏng nhƣ các phƣơng pháp ly trích thông thƣờng (Howland et al. 1975). Rất dễ nhanh chóng nhận thấy rằng các tính chất của màng sinh chất dƣới một số điều kiện thuận lợi nào đó có thể chịu sự dung hợp và có khả năng hình thành tế bào lai, cuối cùng dẫn đến sự tạo ra tế bào lai sinh dƣỡng liên quan đến sự cải thiện năng suất thu hoạch mùa vụ (Nickell và Torey 1969). Do mỗi một tế bào cách ly với tế bào khác trong quần thể tế bào trần và là một hệ thống đơn bào nên có thể thao tác tƣơng tự nhƣ quần thể vi sinh vật. Tính chất này đƣợc khai thác thành công trong thí nghiệm cho nhiễm đồng loạt bởi virus (Takebe 1975), nuôi cấy nhân giống vô tính tế bào và phân lập các tế bào đột biến. Giai đoạn chính trong sự phục hồi trở lại của tế bào trần trong môi trƣờng nuôi cấy tế bào nguyên vẹn là quá trình tổng hợp và phát sinh trở lại vách tế bào. Tế bào trần phân lập từ mô quả cà chua đƣợc khảo sát chi tiết đầu tiên quá trình cung cấp enzym để phục hồi trở lại vách tế bào (Pojnar et al. 1967). Mặc dầu báo cáo đầu tiên về enzyme phân lập của tế bào trần đƣợc công bố vào năm 1960 (Cocking 1960) nhƣng mãi đến 10 năm sau sự phân chia tế bào đầu tiên từ tế bào trần mới đƣợc báo cáo (Nagata và Takebe 1970) thí nghiệm khảo sát trên tế bào thịt lá thuốc lá tái tạo nhanh chóng vách tế bào mới và khoảng 60-80% số tế bào có vách mới đã phân cắt tế bào trong môi trƣờng nuôi cấy. Mô sẹo đƣợc hình thành thúc đẩy sự tạo thành cành non rồi sau đó là cây thuốc lá nguyên vẹn (Takebe et al. 1971). Cùng thời gan ấy Kao et al. (1970) quan sát sự tái tạo và phân chia ở tế bào trần cây đậu nành trong môi trƣờng nuôi cấy. Cuối năm 1970 đã chứng minh rõ nuôi cấy tế bào trần để tạo tập đoàn tế bào và cuối cùng là cây hoàn chỉnh đã trở nên là quy trình trong nhiều phòng thí nghiệm, và có nhiều loài đã đƣợc nhân bội ổn định. Tuy nhiên, còn có một số vấn đề cần khắc phục đƣợc nêu ra do Evans và Cocking (1978) đó là môi trƣờng nuôi cấy, yếu tố vật lý môi trƣờng, và yếu tố di truyền. Một trong những lý do protoplast không rời nhau ra là bề mặt tế bào có tích điện và chúng có khuynh hƣớng kết dính với nhau. Nghiên cứu bằng điện di có thể xác định bề mặt tế bào có tích điện (Grout and Coutts 1974) và có thể trong một số điều kiện thông thƣờng nào đó điện tích này là âm. Một trong những điều kiện tất yếu của yếu tố làm tan rã các tế bào là làm giảm thiểu điện tích này xuống làm cho tế bào tập hợp lại và màng tế bào sát lại gần nhau hơn. Một trong những hợp chất đầu tiên đƣợc ghi nhận gây ra sự tan rã là nitrate sodium (Power et al. 1970). Tế bào bóc trần để vào dung dịch muối này sẽ nhanh chóng đƣa đến sự kết tập lại, và thông qua việc khảo sát sự chuyển động của tế bào trần trong buồng điện di cho thấy rõ nitrate sodium giảm thiểu điện âm của tế bào trần (Grout và Coutts 1974). Polyethylene glycol (PEG) đƣợc chấp nhận rộng rãi nhƣ một tác nhân gây ra sự tan rã (Kao và Michayluk 1974, Wallin et al. 1974); xử lý tế bào trần với PEG gây ra một sự kết tập nhanh chóng với tế bào trần thực sự tan rã xãy ra trong thời gian hydrat hoá trở lại kết hợp với sự gỡ bỏ của PEG. Sự sử dụng nitrate sodium để thúc đẩy sự hoà nhập dẫn đến sự tạo thành tế bào lai thực vật về mặt di truyền, ví dụ khối u lai giữa Nicotiana glauca và Nicotiana langsdorfii do Carlson và cộng sự (Carlson et al. 1972). Những tiến bộ nỗi bật về yêu cầu phát triển những quy trình chọn lọc các tế bào lai sinh dƣỡng độc lập của các thuộc tính bất kỳ đã biết của lai hữu tính. Do vậy những nỗ lực hƣớng trực tiếp đến việc sử dụng các đột biến, và sử dụng những chọn lọc trên căn bản sự khác biệt xảy ra giữa tăng trƣởng thực vật tự nhiên và đáp ứng với môi trƣờng dinh dƣỡng và thuốc. Ở Nottingham Petunia đƣợc chọn cho những đánh giá này bởi vì đáp ứng của chúng đối với mô nuôi cấy và sự di truyền màu sắc cánh hoa đƣợc ổn định. Thực vật lai sinh dƣỡng của Petunia hybrida và P. parodii đã đƣợc tạo ra thành công vào năm 1976 (Power et al. 1976). Nhƣ đã đƣợc thảo luận bởi Cocking (1989), những thành công khi sử dụng các đối tƣợng của họ cà Solanaceae không tiến hành song song với thành công trong nuôi cấy tế bào trần ngũ cốc. Điều đáng nói là hơn hai mƣơi năm sau không một ai đạt đƣợc sinh sản ổn định tế bào trần lá ngủ cốc. Thành công chỉ đạt đƣợc trong mƣời năm gần đây trong việc tái tạo cây nguyên vẹn từ tế bào trần lúa, cô lập không phải từ lá nhƣng từ dịch treo nuôi cấy tế bào (Abdullah et al. 1986). Thành công ban đầu khi lấy tế bào trần của cây thuốc lá và cây Petunia để tái tạo vách tế bào rồi trải qua sự phân chia để tạo thành mô sẹo, sau đó phân hóa thành cơ quan để tạo thành rể và chồi non, làm lộ ra con đƣờng nghiên cứu sai về các loại cây ngủ cốc. Năm 1980 đã nhìn thấy đƣợc phƣơng pháp tinh vi mở rộng trong tái tạo lại cây nguyên vẹn từ gia tăng vững chắc số các loài cây và trong sản xuất tế bào lai sinh dƣỡng và cybrids, bao gồm ví dụ nhƣ các cá thể khác loài không có khả năng giao phối, Petunia parodii và Petunia parviflora (Powder et al. 1980). Quy trình đƣợc phát triển để tái tạo lại cây nguyên vẹn từ tế bào trần cô lập, không chỉ cho cây lúa, nhƣng còn ở cà chua, đậu nành, hạt lanh, cải bắp, rau diếp và các cây lai sinh dƣỡng giữa các loài khác nhau, có bộ máy di tuyền khác nhau của Lycopersicon, Nicotiana, Solanum, Glycine, Citrus, Brassica, Medicago và Trifolium spp (Bajaj 1989a). Thêm vào đó các quy trình đƣợc phát triển xa hơn cho các kỹ thuật vi tiêm, dung hợp bằng điện, flow cytometry, hấp thu và tích hợp DNA, cô lập nhân và nhiễm sắc thể từ tế bào trần (Bajaj 1989b). Việc khám phá ra tế bào trần có thể bị nhiễm bởi virus khảm thuốc lá (Cocking and Pojnar 1969) kích thích sự quan tâm về vấn đề hấp thu vào hệ thống tế bào trần, mà đỉnh điểm là sự biểu hiện của plasmid Ti trong vi khuẩn Agrobacterium gây khối u, đƣợc đƣa và tế bào trần để biến đổi tế bào trần, cung cấp bằng chứng đầu tiên về vai trò độc lập của plasmid Ti ở khía cạnh này (Davey et al. 1980). Điều này mở đƣờng cho việc sử dụng plasmid chuyển nạp trực tiếp cho tế bào trần dẫn đến việc tạo ra đƣợc các loại rau và ngũ cốc chuyển gen và các vụ thu hoạch cây trồng bằng chuyển nạp trực tiếp DNA cho tế bào trần, bao gồm các loại lúa chuyển gen có khả năng sinh sản theo phƣơng cách chuyển nạp bằng điện xung vào tế bào trần lúa plasmids chimaeric (Zang et al. 1988). Những nghiên cứu trên cây lúa chuyển gen minh họa vai trò của tế bào trần trong việc biến đổi tế bào ngũ cốc và làm cho vấn đề phân tử và tế bào tiếp cận nhau hơn. Khảo sát trên một vài chi tiết minh họa các nghiên cứu này đã phát triển nhƣ thế nào trong thập niên 1980. Sự tƣơng tác giữa virus với tế bào trần cô lập minh chứng poly-L- ornithine kích thích sự lây nhiễm, trong khi các nghiên cứu tiếp theo xác nhận rằng PEG cũng gia tăng sự thu hút virus và acid nhân của virus vào trong tế bào trần (Davey và Kumar 1983). Rồi sau đó những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980 đây là thời gian phối hợp giữa các kỹ thuật xác định plasmid Ti có thể chuyển nạp hay không vào tế bào trần thực vật. Nhƣ đã đề cập trƣớc đây các nghiên cứu bao gồm sự tƣơng tác của cấu trúc siêu xoắn của plasmid Ti từ dòng octopine của A. tumefaciens với dịch treo tế bào trần Petunia hybrida với sự có mặt của PLO, kết quả tạo ra một tập đoàn tế bào trần có biểu hiện tính chất có vị đắng của đỉnh tăng trƣởng trong môi trƣờng có hormone tự do và sự tổng hợp octopine, cả hai đều mã hoá bởi gen Ti T-DNA (Davey et al. 1980). Deshayes et al (1985) đóng gói pGV23 NEO, đây là một plasmid mang gen aminoglycoside phosphotranspherase type II (APH II; neomycin phosphotranspherase, NTP II) từ Tn5 có khả năng kháng kanamycin trong tế bào thực vật, vào trong thể tích chất béo (liposome) và dung hợp với plasmid có chứa túi của tế bào trần thuốc lá sử dụng PEG. Tập đoàn tế bào kháng kanamycin đƣợc cô lập ở 4.0´105. Mẫu cắt hạn chế DNA đƣợc chèn vào trong quá trình chuyển gen vào tế bào thực vật đƣợc chỉ định theo cách tích hợp kế nhau trong trình tự của plasmid, bao hàm sự tái tổ hợp đồng dạng giữa các trình tự trong khi chuyển nạp. Tiến bộ chính trong chuyển nạp trực tiếp DNA vào tế bào trần đạt đƣợc khi nó đƣợc chứng minh rằng trình tự T-DNA là không cần thiết cho sự chuyển nạp ổn định và biểu hiện của DNA lạ trong tế bào thực vật. Một gen lai có thể chọn lọc bao gồm vùng giải mã của gen Tn5 NPII dƣới sự kiểm soát của gen promoter CaMV VI đƣợc đƣa và tế bào trần thuốc lá nhƣ là một phần của E. coli (pABCD1) bằng cách xử lí hỗn hợp tế bào trần - plasmid bằng PEG 6000. Tập đoàn đã chuyển nạp sẽ đƣợc chọn lọc trong môi trƣờng có chứa 7 mg/ml kanamycin. Gen lạ sẽ đƣợc truyền qua cho thế hệ cây con bằng phép lai Mendel. Trong khi tế bào trần thuốc lá đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣ một hệ thống tiêu biểu cho các nghiên cứu DNA, các hệ thống tế bào trần khác, bao gồm lúa, cũng đƣợc quan tâm rộng rãi. Chuyển nạp gen hữu thụ cho Brassica napus đƣợc chuyển gen bởi pABD1 vào trong tế bào trần thịt lá bằng phƣơng pháp xung điện (Guerche et al. 1987). Tính kháng kanamycin đƣợc truyền qua thế hệ cây con qua con đƣờng hữu tính bởi lai một tính Mendel. Chuyển gen trực tiếp cũng chứng minh khả năng tạo hạt rau Vigna aconitifolia kháng kanamycin mô sẹo tái tạo từ tế bào trần sốc nhiệt xử lý bởi PEG và pLGV NEO 2103 (Kƣhler et al. 1987). Các nghiên cứu chuyển gen trực tiếp vào tế bào trần thực vật cũng cung cấp một hệ thống để quan sát sự biểu hiện gen trong khoảng thời gian vài giờ xử lý chuyển nạp. Các nghiên cứu biểu hiện gen tạm thời (ngắn ngủi) nhƣ vậy có ích trong việc đánh giá cấu trúc và gen khởi động khi gen reporter sẵn sàng có thể thử nghiệm ví dụ nhƣ CAT và b-glucurionidase. Rất hữu ích khi so sánh một vài tính chất chuyển nạp của tế bào trần thực vật và tế bào động vật. Thật vậy sự thúc đẩy để lƣợng định tính khả chuyển DNA trực tiếp vào tế bào thực vật, đặc biệt là tế bào thực vật đã đƣợc loại bỏ vách tế bào bằng enzym nhƣ trong trƣờng hợp tế bào trần thực vật, từ các báo cáo nuôi cấy mô tế bào động vật cho thấy có khả năng chọn và biểu hiện một nhóm gen và hệ gen DNA. Bây giờ cơ hội xuất hiện các thế hệ đột biến do đƣa các đột biến gen vào tế bào trần thực vật tƣơng tác với DNA; đó là các bằng chứng chứng tỏ rằng các mẫu DNA lớn có thể đƣa vào và biểu hiện ở tế bào động vật (Allshire et al. 1987). Tế bào trần có thể cô lập bằng enzyme từ một số nhóm tế bào ví dụ nhƣ từ tế bào biểu bì lá của thuốc lá rồi có thể tái tạo lại thành cây nguyên vẹn (Davey et al. 1974). Lông hút của rễ là sản phẩm tự nhiên của tế bào biểu bì rễ, và nó đã đƣợc chứng minh xử lý bằng enzyme có thể làm tiêu hủy đỉnh sinh trƣởng của lông hút và phóng thích tế bào trần (Cooking 1985). Tế bào trần cô lập từ rễ cây con, thân lá mầm, và lá mầm của Lotus corniculatus (sen) sẵn sàng phân chia trong môi trƣờng nuôi cấy để tạo ra mô sẹo và từ đó có thể sinh ra tế bào trần (Ahuja et al. 1983) điều đáng quan tâm là xác định tế bào trần từ lông hút rễ còn giữ tính chất nguyên thủy hay không. Xử lý rễ của cây con Lotus corniculatus với cellulase và pectinase phóng thích các tế bào trần của đầu rễ lông hút khi ủ trong môi trƣờng có enzym khoảng 1 phút. 10% của tế bào trần phân chia để tạo ra một tập đoàn tế bào mà sau đó tạo đƣợc chồi non. Cây tái tạo có kiểu hình và tế bào bình thƣờng. Các nghiên cứu trong tƣơng lai sẽ có thể làm cho một hệ thống nhƣ vậy đƣợc sử dụng để xác định nguồn gốc của tế bào trần có ảnh hƣởng hay không đến con đƣờng phát triển sau đó. Trong các tế bào trần cô lập từ dịch nuôi cấy để tái tạo cây nguyên vẹn cho thấy xãy ra qua sự phát sinh phôi dinh dƣỡng (Abdullah et al. 1986). Có thể chăng thay đổi con đƣờng phát triển này bằng kỹ thuật điện cao thế trong quá trình phân bào của dẫn suất tế bào trần thực vật nhƣ đã quan sát bởi Rech et al. (1987). Gần đây, Chand et al. (1988) quan sát thấy sự bóc trần tế bào cây dƣợc liệu thân gỗ Solanum dulcamara ở điện áp 250 đến 1250 vol/cm2 trong ba xung điện kế tiếp nhau mỗi xung kéo dài 10 - 50 ms đã kích thích sự tăng trƣởng của mô dẫn suất từ tế bào trần và cho thấy có gia tăng khả năng biệt hóa (Chand et al. 1988). Sẽ rất quan trọng để mở rộng các nghiên cứu này trên hệ thống tế bào trần. Sẽ có ích khi tế bào trần Physcomitrella tái tạo chỉ sản sinh một khối u khi đáp ứng với ánh sáng đơn cực, và tế bào phân cực này phân chia sau 24 giờ từ tế bào trần cô lập, từ hai tế bào con có hai mặt phát triển khác nhau (Jenkin và Cove 1983). Biến đổi con đƣờng phát triển có thể cung cấp đầu mối giải mã về sự phát triển tế bào thực vật, tế bào của nó và điều khiển phân tử. Có lẽ vấn đề quan tâm chính là sự tƣơng tác mới lạ giữa các đại phân tử, viruses và vi sinh vật và màng tế bào của tế bào trần. Điện xung để hình thành các lổ trên màng tế bào có thể đƣợc dùng để khảo sát theo hƣớng này. Hơn nữa, điều chủ yếu không phải là tất cả vách tế bào phải đƣợc bỏ đi; một lợi ích của nghiên cứu trên nhiều mảng. Nhƣ đã khám phá ở hoa sen Lotus rất dễ bỏ đi vách tế bào một cách nhanh chóng ở đầu lông hút của rễ bằng xử lý rễ cây con với một hỗn hợp cellulase và pectinase. Gần đây chúng ta đã quan sát cấu trúc nốt sần tạo ra ở rễ lúa, rễ cây con của cây cải cho dầu khi xử lý rễ với hỗn hợp enzyme cellulase và pectinase và cho nhiễm Rhizobium hay Bradyrhizobium (Al-Mallah et al. 1989 và 1990). Các nghiên cứu này bao gồm sự phân hủy một phần vách tế bào làm lộ ra một phần màng sinh chất của tế bào biểu mô có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu sự cộng sinh của Rhizobium đối với các cây trồng không phải họ đậu (Cooking và Davey 1991). 5.2. Phương pháp tách protoplast Có 3 phƣơng thức phân lập protoplast, đó là: - Cơ học (không dùng các enzyme). - Sử dụng enzyme tuần tự (qua hai bƣớc). - Sử dụng h ... c vào thời gian xử lý nhiệt độ tới hạn và phụ thuộc vào khả năng chịu nhiệt của giống (Converse và Tanne, 1984; Lozoya-Saldana và Merlin -Lara, 1984). Xử lý nhiệt có tác dụng tốt với đa số trƣờng hợp, song đôi khi mô tế bào của cây nhiễm virus nhƣng không bị loại trừ ở nhiệt độ cao do chủng virus vẫn có khả năng sinh sản ở nhiệt độ này (Dawson, 1976). Kết hợp xử lý nhiệt độ thấp với nuôi cấy đỉnh sinh trƣởng đã đƣợc sử dụng thành công để loại trừ virus khỏi khoai tây và hoa cúc (Paduch-Cichal và Kryczynski, 1987). Bên cạnh đó, ngƣời ta sử dụng kết hợp một số hoá chất ức chế virus nhƣ ribavirin, vidarabine có gốc adenine để tạo giống sạch bệnh (Cassells và Long, 1980; Stone, 1982). Các hoá chất chống virus thƣờng độc cho mô cây nên ứng dụng của kỹ thuật này vẫn còn hạn chế. 7.3.3. Nuôi cấy đỉnh phân sinh Ngƣời ta đã chứng minh đƣợc rằng nồng độ virus trong thực vật giảm dần ở bộ phận gần đỉnh sinh trƣởng riêng đỉnh phân sinh thì hoàn toàn sạch virus. Thực tế này đã đƣợc ứng dụng để làm sạch virus bằng cách tách đỉnh sinh trƣởng ở điều kiện vô trùng rồi nuôi cấy chúng thành thực vật hoàn chỉnh. Việc phân lập đỉnh phân sinh có kích thƣớc 0,01-0,1 mm rất khó khăn và việc tái sinh thành cây hoàn chỉnh cũng chỉ đạt đƣợc với tần số rất thấp (0,2-5%) vì vậy ngƣời ta thƣờng phân lập cả chồi ngọn và gọi nó là đoạn đỉnh (shoot tips) có kích thƣớc từ 0,1- 1 mm qua đó tính sạch bệnh của mẫu vật nuôi cấy bị giảm xuống nhƣng tốc độ tái sinh cây đƣợc tăng lên và đó chính là phƣơng pháp đƣợc ứng dụng trong thực tiễn. Khái niệm sạch virus của thực vật không có nghĩa là cần phải có đỉnh phân sinh hoàn toàn sạch, các phần tử virus mà nó đƣợc hoàn thiện trong quá trình phân hóa của các tế bào chƣa phân hóa. Vì vậy, trong thực tiễn phải giới hạn nồng độ virus và khối lƣợng mô phân hóa ở một mức nhất định nếu cần có thực vật sạch virus. Việc phối hợp xử lý nhiệt với nuôi cấy đỉnh phân sinh là phƣơng pháp rất thuận lợi bởi vì thông qua xử lý nhiệt quá trình sinh sản của virus trong chồi ngọn bị ức chế mạnh và thông qua quá trình phân hóa đỉnh phân sinh tính sạch virus sẽ đƣợc đảm bảo với độ xác suất cao, ở đây không đề cập đến vấn đề chọn các môi trƣờng thích hợp. Thông thƣờng ngƣời ta xử dụng môi trƣờng Murashige-Skoog hoặc White. Theo quan điểm lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn ngƣời ta thu đƣợc những kết quả khác nhau trong từng phòng thí nghiệm, nếu việc nuôi cấy đỉnh phân sinh đƣợc thực hiện trên quan điểm sản xuất lớn thì cần phải chú ý những mặt sau đây: (a) đảm bảo độ đồng nhất của giống trong tất cả các khâu nuôi cấy, (b) đảm bảo tốc độ sinh trƣởng nhanh và đều đối với một số lƣợng đỉnh phân sinh lớn đồng thời (c) kết quả đƣa cây ra đất cũng cần phải đƣợc bảo đảm. Các đỉnh sinh trƣởng sau khi phân lập cần đƣợc nuôi ở các buồng nuôi cây hoàn toàn khống chế về mặt khí hậu: nhiệt độ 22oC và 16 giờ chiếu sáng ở 1.000-3.000 lux . Khi đƣa cây tái sinh từ đỉnh phân sinh ra ngoài đất cần phải phủ nilon để chúng thích nghi dần với độ ẩm không khí thấp. Tốt nhất là nên trồng ở các buồng nuôi cây cách ly có thông khí và hoàn toàn sạch rệp lá. Từ tháng 10 đến tháng 3 cần phải chiếu sáng thêm, nhƣng trong mùa hè lại phải che bớt ánh sáng. 7.4. Kết quả trong thực tiễn sản xuất 7.4.1. Tạo các giống cây sạch bệnh 7.4.1.1. Cây khoai tây Khoai tây là cây trồng ở châu Âu đƣợc nhân giống vô tính và bị virus phá hoại nhiều nhất. Trong thời gian qua việc làm sạch virus ở khoai tây mới đƣợc ứng dụng một cách chậm chạp trong quá trình duy trì giống. Ngƣời ta chú ý nhiều nhất tới việc tạo ra các cây giống sạch bệnh bằng qui trình thử virus và trồng ở các khu vực sạch bệnh để tránh tái nhiễm thông qua các loài rệp lá. Qui trình đƣợc sử dụng chủ yếu là giết các cây thảo có thể truyền bệnh vào củ khoai tây. Qui trình này có thể nâng cao hiệu suất thông qua xử lý nhiệt và nuôi cấy đỉnh sinh trƣởng. Quá trình xử lý nhiệt giữa 32 và 38oC trong thời gian 7 ngày đến 7 tuần và sau đó nuôi cấy đỉnh phân sinh có thể loại trừ đƣợc virus A, xoăn lá, X và Y trong khi virus M và S cũng đƣợc giảm đi một cách đáng kể. Các ảnh hiển vi điện tử của đỉnh sinh trƣởng khoai tây có độ lớn từ 80-100 µm cho thấy chúng vẫn còn chứa trong tiêu bản tới 12 thể virus X. Tuy vậy, sau quá trình phân loại từ các đỉnh phân sinh đó vẫn thu đƣợc một tỷ lệ phần trăm nhất định các cây sạch virus. 7.4.1.2. Cây thức ăn gia súc Để sản xuất hạt giống cây trồng làm thức ăn gia súc, ví dụ cỏ ba lá cần phải có cây bố mẹ sạch bệnh virus để tránh sự lây bệnh thông qua hạt giống và đảm bảo thu đƣợc năng suất hạt cao. Ngƣời ta nghiên cứu nhiều phƣơng pháp làm sạch virus khác nhau. Xử lý lạnh và nuôi chồi ngọn mang lại tốc độ sinh trƣởng cao, nhƣng chỉ sạch virus từng phần, nếu xử lý nhiệt kết hợp với nuôi cấy đỉnh phân sinh thì thu đƣợc phần lớn các cây sạch virus. 7.4.1.3. Cây hoa bia Các loại bệnh virus ở hoa bia thƣờng làm giảm năng suất đáng kể. Tiến hành chọn lọc bằng mắt thƣờng, xử lý nhiệt và nuôi cấy đỉnh sinh trƣởng, cải tiến dần tình trạng sạch bệnh ngƣời ta đã giải phóng 66% cây khỏi virus hop-mosaic (HMV) và latent bằng nuôi cấy đỉnh phân sinh, sau đó làm sạch virus prumis necrotic ringspot (PNRV) bằng xử lý nhiệt trong thời gian 10 ngày. 7.4.1.4. Cây rau Hầu hết các loài rau trừ một vài trƣờng hợp ngoại lệ đều đƣợc nhân giống bằng hạt. Truyền bệnh virus qua hạt vừa mới đƣợc chứng minh ở loài virus gây bệnh khảm ở xà lách và đậu (đậu ăn quả trắng hoặc xanh), vì vậy ở những cây trồng này cần phải chọn lọc những cây làm giống và thông qua biện pháp trồng trọt cách ly để tạo ra hạt giống sạch virus. Đối với các loài virus gây bệnh ở các cây rau khác thì quá trình lây lan thƣờng xảy ra do cơ học hoặc do rệp lá, vì vậy cần có biện pháp vệ sinh đồng ruộng và phòng trừ tác nhân truyền bệnh. Ở một số cây rau nhân giống vô tính (nấm rơm,...) cần xử dụng phƣơng pháp nuôi cấy đỉnh phân sinh hoặc xử lý nhiệt để giải phóng virus. Đối với nấm rơm có thể làm sạch bệnh bằng phƣơng pháp xử lý nhiệt và trong thời gian gần đây ngƣời ta đã tạo đƣợc phƣơng pháp miễn dịch trong agar gel. Ngoài ra, ở những cây trồng dùng để sản xuất hạt của chúng có thể nhân giống vô tính qua nhiều năm, ví dụ nhƣ súp-lơ ngƣời ta cũng cần phải có vật liệu sạch bệnh virus ban đầu. Thông qua nuôi cấy mô ngƣời ta tạo đƣợc một vài trăm cây và bằng biện pháp thử virus đã thu đƣợc 3.220 cây sạch bệnh. 7.4.1.5. Cây ăn quả Cây ăn quả thƣờng bị virus phá hoại một cách mạnh nhất. Các thể virus gây bệnh không những lan truyền khi nhân giống vô tính mà cả khi nhân giống bằng hạt. Ngoài ra cây ăn quả thƣờng là cây lâu năm, luôn luôn chịu tác động của các tác nhân truyền bệnh vì thế chúng rất dễ bị nhiễm bệnh. Việc chứng minh virus nhiễm ở cây ăn quả gặp nhiều khó khăn, hơn nữa thời gian ủ bệnh dài và khả năng chống chịu cao gây nhiều khó khăn cho việc làm sạch virus cây ăn quả, vì vậy cần tiến hành công tác chống virus gây bệnh ở cây ăn quả một cách liên tục. Vì việc xử lý nhiệt đối với các cây thân gỗ và việc nuôi cấy đỉnh phân sinh của chúng khó khăn hơn nhiều so với các loài cây thân thảo cho nên từ lâu ngƣời ta đã xử dụng phƣơng pháp thử để tìm ra các vật liệu sạch bệnh ban đầu. Quá trình xử lý nhiệt đối với cây ăn quả đến nay thƣờng đƣợc tiến hành chủ yếu ở những đoạn cành mà các mắt của chúng sẽ đƣợc xử dụng để ghép sau này. Theo tài liệu tổng hợp của Nyland và Coheen (1969) về vấn đề xử lý nhiệt ở các cây thân gỗ có thể loại trừ đƣợc bốn loài virus ở cây anh đào, một loài virus ở cây mận, bảy loài virus ở cây táo, hai virus ở cây nho đất (nho tây), sáu virus ở cây đào và hai virus ở phúc bồn tử. Thành công trong xử lý nhiệt ở cây ăn quả không bao giờ đạt đƣợc 100%. Ở mỗi đối tƣợng ít nhất còn lại một thậm chí một số loài còn tới bốn virus không bị mất hoạt tính khi xử lý nhiệt. Nuôi cấy đỉnh phân sinh ở cây ăn quả tới nay mới chỉ đƣợc sử dụng ở những đối tƣợng sau: dâu chua, dâu chua quả đỏ, dâu chua quả đen và cây táo. Thực tiễn cho thấy đối với cây ăn quả (cây thân gỗ) việc nuôi cấy đỉnh phân sinh còn gặp khó khăn hơn bởi vì khả năng tái sinh của chúng yếu hơn so với cây thân thảo. Các thí nghiệm trong những năm sắp tới chắc chắn sẽ nêu ra những kết quả mới. 7.4.1.6. Cây hoa Ở đối tƣợng cây hoa chỉ gặp những cây nhân giống vô tính thƣờng bị bệnh virus trong khi bƣớc đầu ngƣời ta chỉ tập trung làm sạch bệnh ở những cây hoa có ý nghĩa kinh tế quan trọng (ví dụ: hoa cúc, hoa anh túc, hoa thủy tiên...). Hiện nay, ngƣời ta bắt đầu nuôi cấy các loài hoa khác. Xử lý nhiệt kết hợp với nuôi cấy đỉnh phân sinh đƣợc sử dụng để làm sạch virus ở hoa anh túc và hoa cúc. Việc ứng dụng thực tiễn trong các xí nghiệp chuyên sản xuất hoa đã trở thành quen thuộc trong những năm gần đây. Ở Hà lan, có những cơ sở của tổ chức trồng hoa chuyên nhận các loài vật liệu để làm sạch virus. Ở Anh, cũng tổ chức một cơ quan tƣơng tự nhƣ vậy. Ở Đông Đức (cũ) có xí nghiệp ƣơm cây con ở thành phố Dresden cũng nhân các loài hoa nhƣ cúc, hoa anh túc, hoa thủy tiên... để xử lý nhiệt và làm sạch virus. Các điều kiện để làm sạch virus đối với cây hoa thƣờng đƣợc thực hiện dễ dàng, vì thế ở những loài cây trồng này việc làm sạch virus thƣờng có kết quả nhất. Vì thế dƣới đây một số biện pháp quan trọng nhƣ xử lý nhiệt, nuôi cấy đỉnh phân sinh và xét nghiệm virus đƣợc trình bày trên đối tƣợng cây hoa. 7.4.2. Kiểm định tính sạch bệnh virus Nếu trong qui trình làm sạch virus có thể áp dụng đƣợc kỹ thuật xử lý nhiệt và nuôi cấy đỉnh phân sinh thì việc xét nghiệm virus chỉ còn là biện pháp kiểm tra cuối cùng của quá trình làm sạch virus, nhƣ vậy sẽ có mâu thuẩn với mục đích làm sạch virus nếu ngƣời ta sử dụng 50% cây trong tập đoàn cây trồng bị bệnh làm vật liệu ban đầu và coi chúng là những cây có phẩm chất tốt, một mặt thông qua cải tiến phƣơng pháp xét nghiệm đƣa độ chính xác của phƣơng pháp lên cao ngƣời ta phải luôn tính để số lƣợng virus bảo tồn ở nồng độ tối thiểu mà phƣơng pháp xét nghiệm không chứng minh đƣợc. Vì vậy, theo kinh nghiệm thực tế cần tiến phải xét nghiệm theo phƣơng thức sau: Đƣa vật liệu ban đầu vào xử lý nhiệt trong một thời gian dài để làm sạch những virus mẫn cảm nhiệt độ sau đó dùng phƣơng pháp nuôi cấy đỉnh phân sinh sau từ 4-6 tháng kể từ ngày nuôi cấy mới bắt đầu xét nghiệm thời gian này đủ để cho virus bảo tồn trong cây đủ nồng độ cho phép chứng minh đƣợc. Những cơ thể đƣợc xác định là sạch bệnh là nguồn vật liệu ban đầu để cung cấp cây mẹ cho sản xuất. Khoảng 5-10% số cơ thể này đƣợc tách riêng ra thành tập đoàn nhân mạnh khoẻ (health nucleus clone) để các nhà tạo giống cải tiến tính chất theo ý muốn và độ thuần chủng (đồng nhất) của giống. Ngƣời ta kiểm tra những cơ thể này bằng tất cả các phƣơng pháp xét nghiệm virus hiện có. Với hoa nelken ngƣời ta đã kiểm tra bằng phƣơng pháp huyết thanh các loài virus caruation woltle, caruation latent, caruation ringspot... và xét nghiệm bằng cây chỉ thị Cheuopodium quinoa và Vaccara pyramydata nhằm loại trừ những virus ít sinh sản không có biểu hiện nhận biết đƣợc. Những cây xác minh đƣợc là khoẻ đƣợc tiến hành ƣơm cành rồi sau đó đƣa vào xử lý nhiệt, tiếp theo nuôi cấy đỉnh sinh trƣởng và cuối cùng kiểm tra bằng xét nghiệm virus. Đó là toàn bộ qui trình làm sạch virus khép kín. Ngoài phƣơng pháp và quá trình xét nghiệm thì kết quả làm sạch virus phụ thuộc nhiều vào trạng thái của cây cần đƣợc xét nghiệm, nghĩa là nồng độ virus có trong các bộ phận khác nhau, tuổi khác nhau, mùa khác nhau. Muốn bảo đảm xét nghiệm hàng loạt chính xác thì cần phải có nhà nuôi cây. Nhiệt độ ổn định, tƣơng quan ánh sáng ổn định và cây xét nghiệm phải cùng độ tuổi nhất định với nồng độ virus thích hợp cho xét nghiệm, cho phép thu đƣợc kết quả xét nghiệm chính xác. 7.4.3. Duy trì tính sạch bệnh virus Vấn đề có tầm quan trọng đáng kể và cũng là vấn đề quyết định cuối cùng đối với thực tiễn nông nghiệp liên quan tới thời gian duy trì đƣợc cây trồng sạch virus. Đối với thực tiễn sản xuất thì cây đƣợc coi là bị bệnh chỉ khi nào năng xuất giảm xuống. Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp và trồng cây ăn quả vấn đề này còn chƣa đƣợc giải quyết thỏa đáng. Việc sản xuất dòng Elite trong qui trình sản xuất khoai tây giống kéo dài nhiều năm, trong khi đó nguy cơ tái nhiễm thông qua yếu tố truyền bệnh luôn tồn tại và phụ thuộc vào điều kiện khí hậu. Trong ngành trồng hoa tình hình thuận lợi hơn nhiều. Hiện nay ở CHLB Đức với tập đoàn nhân (nucleus clone) của hoa cúc và nelken ngƣời ta duy trì đƣợc tính sạch bệnh trong một năm rƣỡi, trong khi chỉ cần một năm là có thể thay đƣợc hoàn toàn tập đoàn giống. Vì vậy, vấn đề nêu ra ở trên có thể đƣợc trả lời tóm tắt nhƣ sau: khối lƣợng và chất lƣợng vật liệu có sẵn ban đầu xác định khả năng sản xuất một vụ không bị giảm năng suất do bệnh virus. Giảm năng suất có thể xuất hiện nếu nguồn giống sạch virus bị nhiễm sớm. Đối với khoai tây thì nhiễm chủ yếu do các yếu tố truyền bệnh sống ở điều kiện tự nhiên đối với cây hoa thì tái nhiễm xảy ra khi đƣa cây giống sạch bệnh vào các xí nghiệp sản xuất bị nhiễm sẵn. Có thể nói rằng trong ngành trồng hoa qui trình làm sạch virus đƣợc coi nhƣ mô hình phƣơng pháp. Cũng qua đó có thể nhận thấy phƣơng pháp làm sạch virus không phải là biện pháp chữa bệnh một lần mà là một quá trình phức tạp đối với cây trồng đã bị bệnh từ trƣớc. Ngƣời ta có thể so sánh bệnh virus của thực vật nhân giống vô tính nhƣ bệnh xã hội của con ngƣời không thể chữa bằng thuốc men mà phải thay đổi cả thói quen sinh hoạt. Ở các xí nghiệp công nghiệp sản xuất cây trồng có thể gọi các tiến bộ khoa học kỹ thuật là một loại stress khi mà từ một cây cúc mẹ một năm cho 100 cây ƣơm, trƣớc kia chỉ thu đƣợc 15 và một cây ƣơm chỉ cần 11 ngày để ra rễ trong khi trƣớc đây cần 21 ngày. Để tạo điều kiện cho các xí nghiệp sản xuất công nghiệp cây giống thu đƣợc những thành tích to lớn hơn nữa thì việc đầu tƣ hàng năm cho công tác chống bệnh virus trở nên cần thiết. Trong trƣờng hợp nhân giống vô tính in vitro thì việc làm sạch virus càng phải đƣợc coi là điều kiện trƣớc tiên. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Nêu tầm quan trọng của phƣơng pháp làm sạch virus thong qua nuôi cấy mô 2. Trình bày nguyên lý làm sạch virus cho thực vật 3. So sánh các phƣơng pháp chuẩn đoán bệnh virus ở thực vật 4. Trình bày kỹ thuật nuôi cấy đỉnh phân sinh 5. Khái quát các kết quả trong thực tiễn sản xuất của phƣơng pháp tạo giống sạch virus nhờ nuôi cấy đỉnh sinh trƣởng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Thị Lý Anh, Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, (2003). Giáo trình công nghệ sinh học nông nghiệp. Nhà xuất bản Nông nghiệp 2) Lê Văn Hoàng. Công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật, Nxb Đà nẵng 3) Lê Trần Bình, Hồ Hữu Nhị, Lê Thị Muội (1997), Công nghệ sinh học thực vật trong công tác cải tiến giống cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp 4) Nguyễn Văn Uyển, (1996). Những phương pháp công nghệ sinh học thực vật. NXB Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
File đính kèm:
- giao_trinh_cong_nghe_te_bao_thuc_vat_phan_2.pdf