Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh
Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện
phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết
Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả
hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của
Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với
Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt - Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017 85 Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh Literary exchange and genre shifting: A case study of comparing novel Time for lobster eating by Bang Hyeon-Seok and script The origins by Le Duy Hanh CN. Trần Xuân Tiến, Trường Đại học Văn Hiến Tran Xuan Tien, B.A., Van Hien University CN. Vương Hoài Lâm, Nhà Xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM Vuong Hoai Lam, B.A., Ho Chi Minh City Culture – Literature and Arts Publishing House Tóm tắt Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt - Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa. Từ khóa: Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, Cội nguồn, Lê Duy Hạnh, giao lưu văn học Việt - Hàn, kịch bản cải lương. Abstract Since the 1990s, the cultural and literary exchanges between Vietnam and South Korea have been remarkably developed. Bang Hyeon-seok 방현석 is among the Korean writers whose writing interest concerns Vietnam, especially the war in which many Koreans were involved. His works, especially Time for lobster eating 랍스터 를 먹는 시간, manifested effort to overcome sorrowful memories of both nations. Literary exchange between Vietnam and South Korea indicates Vietnam’s effort for integration in the globalization context. The script The origins by Le Duy Hanh, which was adapted to “cai luong” by Composer Hoang Song Viet and Director Hoa Ha and succeeded in National Festival for Professional Cai luong Performance in 2012, is similar in theme to Bang Hyeon-seok’s novel. The origins is among very few compositions in the genre of Vietnamese traditional musical theater about the Vietnam-South Korea relationship. Vietnamese traditional musical theater, thanks to its effort to expand realm of reflection and its internal flexibility, has proves its high adaptability in the globalization context. Keywords: Time for lobster eating 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, The origins, Le Duy Hanh, literary exchange, Vietnam - South Korea relationship, cai luong’s script. GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 86 1. Giao lưu văn học Việt - Hàn: Một tín hiệu của xu hướng toàn cầu hóa trong văn học 1.1. Ở một khía cạnh nhất định, giao lưu văn học có thể được nhìn nhận với tư cách là sự tự ý thức về chính văn học thông qua việc thể hiện song song hai nhu cầu tưởng chừng như đối nghịch là nhu cầu tìm hiểu, tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa của đối tượng khác (tha nhân) và nhu cầu giới thiệu, quảng bá những giá trị riêng có của bản thân. Hai nhu cầu ấy, tùy theo bối cảnh chính trị - xã hội, tùy theo tư duy của những người trong cuộc mà có lúc bên nặng bên nhẹ khác nhau. Hai nhu cầu ấy, thú vị thay, lại rất phù hợp với tích cách/ bản chất của quá trình toàn cầu hóa (Globalization). Toàn cầu hóa là khái niệm được đặt ra nhằm biểu đạt sự trao đổi, liên kết đang ngày càng được tăng cường giữa các quốc gia, các khu vực, các vùng lãnh thổ. Thuật ngữ này xuất hiện vào những năm 50 và được sử dụng một cách phổ biến từ những năm 90 của thế kỷ trước. Những hiệu quả mà toàn cầu hóa mang lại đã khiến cho quá trình của chính nó trở thành một xu thế tất yếu. Trong hành trình của toàn cầu hóa, của giao lưu văn học, dịch thuật có vai trò hết sức đặc biệt. Bởi vì, một trong những biểu hiện cụ thể dễ nhận thấy của xu hướng toàn cầu hóa chính là sự gia tăng quá trình trao đổi văn hóa, trong đó có xuất khẩu các văn hóa phẩm, cụ thể là tác phẩm văn học. Tuy là hai nước Đông Á cách xa nhau về khoảng cách địa lý, nhưng Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về các yếu tố địa - chiến lược, địa - lịch sử, địa - văn hóa (mà yếu tố đồng văn thường được nhấn mạnh hơn cả). Lịch sử bang giao song phương ở riêng lĩnh vực văn hóa giữa hai nước Việt - Hàn (thời điểm này là cả bán đảo Triều Tiên) đã được hình thành từ thế kỷ XIV nhưng phải đến giữa thế kỷ XX, công tác dịch văn học của hai nước mới có dấu hiệu của sự khởi động. Với việc chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao qua Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ vào ngày 22/12/1992, hoạt động dịch thuật và giới thiệu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực sự đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tháng 8/2001, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI, và đến tháng 10/2009 tiếp tục nâng cấp thành Đối tác hợp tác chiến lược. Chính những cơ sở chính trị này đã tạo tiền đề cho quá trình giao lưu văn học Việt - Hàn phát triển. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính đến tháng 11/2016, đã có gần 130 đầu sách văn học Hàn Quốc được dịch và giới thiệu ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều đơn vị xuất bản có định hướng đẩy mạnh công tác dịch văn học Hàn, nổi bật là Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam (Hà Nội) và Nhà xuất bản Trẻ (TP.HCM) với nhiều ấn phẩm cập nhật tình hình văn học đương đại ở Hàn Quốc. Trong tâm thế tạo sự “thông hiểu, hợp lực để cùng phát triển”, ngoài hoạt động giảng dạy, Trung tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn tại TP.HCM từng tổ chức dịch và phát hành miễn phí tập sách Những bài thơ hay của văn học hiện đại Hàn Quốc. Sách tập hợp 60 bài thơ được cho là tiêu biểu của Hàn Quốc với lời dịch Việt ngữ trong sáng, gần gũi kèm hình minh họa đặc sắc, quyển sách thật sự là tài liệu hữu ích để độc giả Việt Nam tiếp cận với thơ ca Hàn Quốc. Không cần đến một cuộc khảo sát xã hội học, nhìn qua thực trạng nêu trên (trên bình diện xuất bản) chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy của văn học Hàn Quốc có vai trò khá mờ nhạt so với các sản phẩm văn hóa TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 87 khác (phim truyền hình, điện ảnh, thời trang, ẩm thực) trong đời sống tinh thần của đại chúng Việt trong sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc. Câu chuyện về giao lưu văn học Việt - Hàn còn thể hiện ở các hoạt động tiếp nhận của giới nghiên cứu. Song song với các lĩnh vực kinh tế, triết học, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật, công tác nghiên cứu văn chương hai nước Việt Nam - Hàn Quốc cũng đi vào phác thảo quan hệ so sánh, đối chiếu trong tâm thế tìm ra những điểm tương đồng dị biệt giữa hai dân tộc, kết nối nhau bằng những liên hệ đồng dạng, khẳng định những giá trị cốt lõi riêng biệt. Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và giảng dạy văn học Hàn Quốc ở Việt Nam [AKS-2012-BBZ-211] đang dần được hiện thực hóa bởi hàng loạt các hội thảo, tọa đàm lớn nhỏ như: Hội thảo khoa học quốc tế Văn học Hàn Quốc trong bối cảnh châu Á (tháng 01/2014), Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ pháp tiếng Hàn và Văn hóa - Xã hội Hàn Quốc (tháng 8/2016) v.v.. Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội là một trong những địa chỉ mạnh về công tác nghiên cứu Hàn Quốc. Các Hội thảo Dịch thuật văn học Hàn Quốc tại Việt Nam (tháng 11/2014), Văn học Hàn Quốc tại Việt Nam (tháng 11/2015, phối hợp với Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc) thu hút được nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy, nhiều dịch giả Hàn Quốc và Việt Nam quan tâm tham dự. Gặp gỡ văn chương Việt Hàn - Korean Vietnam literary exchange event là chương trình được tổ chức thường niên bởi sự phối hợp thực hiện giữa Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc 한국문학번역원 và Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM. Chương trình được khởi động vào năm 2014 với buổi giao lưu giữa hai tác giả Nguyễn Ngọc Tư và Kim Young-ha. Theo sau đó là các buổi giao lưu giữa tác giả Hồ Anh Thái và Jeong You-jeong (2015), tác giả Võ Diệu Thanh và Hwang Sun-mi (2016). Cũng nằm trong khuôn khổ của chương trình này, các buổi tọa đàm với chủ đề Phương hướng tăng cường trao đổi, hợp tác dịch thuật và giới thiệu văn học góp phần xúc tiến quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc (2015), Xúc tiến giao lưu văn học dịch Việt Nam - Hàn Quốc (2016) đã tạo cơ hội cho các bên trong lĩnh vực văn chương trao đổi, tổng kết, xúc tiến hoạt động kết nối giao lưu. Bên cạnh hai đơn vị nêu trên, công tác giao lưu văn học Việt - Hàn còn được đẩy mạnh bởi nhiều đơn vị khác như: Hội Nghiên cứu khoa học về Hàn Quốc của Việt Nam (Korean Research Association of Vietnam - KRAV), Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), các trường Đại học, Cao đẳng có giảng dạy Hàn Quốc học v.v..1 Như vậy, từ lĩnh vực xuất bản đến nghiên cứu chuyên ngành, hoạt động giao lưu văn học Việt - Hàn đã có một diện mạo chung tương đối sôi động và có tiềm năng được đẩy mạnh trong tương lai. 1.2. Khái niệm giao lưu (exchange) tự trong nội hàm của nó đã định hướng đến sự đối thoại và hợp tác từ hai phía. Tuy vậy, tình hình tiếp nhận văn học Việt Nam ở Hàn Quốc đang trong tình trạng trầm lặng hơn so chiều hướng ngược lại. Hiện nay, (theo thông tin chúng tôi tổng hợp từ internet), số lượng tác giả Việt Nam có tác phẩm được dịch ở Hàn Quốc chỉ vỏn vẹn một vài tên tuổi. Có thể kể đến như các nhà văn Bảo Ninh, Văn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Hồ Anh Thái và nhà thơ Hữu Thỉnh. Về công tác nghiên cứu, trong bài viết nh GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 88 h nh nghi n cứu văn học Việt am ở Hàn Quốc vào năm 2008, GS.TS. Kim Ki-tae đã thẳng thắn chia sẻ: “Ở Hàn Quốc, số lượng học giả nghiên cứu về văn học Việt Nam rất ít. Văn học hiện đại thì càng ít”. Trước thực trạng có phần “tẻ nhạt” đó ông bày tỏ mong muốn “trong tương lai sẽ có thêm nhiều nghiên cứu về văn học Việt Nam tại Hàn Quốc cùng hòa với việc nghiên cứu văn học Trung Quốc, Đông Bắc Á”2. Gần mười năm đã trôi qua tính từ lúc GS.TS. Kim Ki-tae viết nhận định này, khung cảnh tiếp nhận văn học Việt Nam ở Hàn Quốc, trong chừng mực nhất định, có thể nói, tuy có ít nhiều biến chuyển nhưng vẫn chưa tương ứng với tiềm năng vốn dĩ. Thực tế, hiện trạng nghiên cứu này vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của những người trong cuộc. Một điểm đáng chú ý là trong khi Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc đã tổ chức trao giải thưởng văn học dịch cho các dịch giả Việt Nam dịch xuất sắc các tác phẩm văn học Hàn Quốc sang tiếng Việt3 thì các dịch giả dịch tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Hàn Quốc chưa có được sự khích lệ tương tự. 2. Giao lưu văn học Việt - Hàn: Trường hợp Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-seok Đứng từ góc độ nghiên cứu, từng bước nhận diện, đi đến khái quát hóa diện mạo giao lưu văn học Việt Nam - Hàn Quốc là việc làm hết sức cần thiết nhằm phác thảo một khía cạnh, bề diện của quá trình toàn cầu hóa văn học. Để làm được điều đó, nhiệm vụ đầu tiên là phải tháo gỡ rào cản ngôn ngữ giữa hai nền văn học. Dịch văn học trở thành nhân tố đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa cuộc sống và con người Hàn Quốc đến Việt Nam và ngược lại. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, trong khi không khí tiếp nhận văn học Hàn ở Việt Nam diễn ra tương đối sôi động thì tình hình này không xảy ra tương đương ở Hàn Quốc. Chính vì vậy, công tác dịch thuật văn học Hàn ở Việt Nam phải đảm dương cùng lúc hai trách nhiệm, một mặt làm môi giới mang những phản ảnh, hiểu biết về đời sống và con người Hàn đến với Việt Nam, một mặt phải chọn lọc những tác phẩm ghi nhận cái nhìn của người Hàn Quốc đối với đất nước và con người Việt. Theo tài liệu Việt Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, có một số tác phẩm văn học Hàn Quốc viết về Việt Nam, phản ánh nhận thức của người Hàn về đất nước Việt Nam4, như “Tháp 탑” (Hwang Sok-yong), “ gười da vàng 힁색인” (Lee Sang-moon), “Chiến tranh trắng 하얀 전쟁” (Ahn Jung-hyo) “Huân chương và xiềng xích훈 장 과 굴 레” (Lee Won-kyu), “Áo dài đỏ đỏ 붉은 아오자이” (Oh Hyun-mi), “Cuộc chia ly buồn애별” (Ku Hyo-seo) Tuy nhiên, việc tiến hành dịch những tác phẩm vừa nêu hiện vẫn chưa có tín hiệu thực hiện. Trong hoàn cảnh đó, Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간 của Bang Hyeon-seok5 có lẽ là một trong số ít tác phẩm đáp ứng được cùng lúc hai nhu cầu của thực trạng giao lưu văn học Việt - Hàn hiện nay đối với độc giả. 2.1. Tác giả Bang Hyeon - seok 방현석 sinh năm 1961, hiện đang là giáo sư khoa Viết văn trường Đại học Chung Ang 중앙, Hàn Quốc. Ông được đánh giá là tác giả thuộc thế hệ nhà văn trẻ của Hàn Quốc, đồng thời cũng là người có cảm tình đặc biệt với lịch sử và văn hóa Việt Nam. Năm 1994, Bang Hyeon-seok lần đầu đến Việt Nam. Cuộc viếng thăm đó đã khiến ông “bén duyên” với mảnh đất này và có những chuyến xuyên Việt để tìm hiểu thêm về đất nước của mà ông yêu mến. TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 89 Không những thế, ông còn cùng với những người bạn có cùng mối quan tâm nghiên cứu Việt Nam thành lập Hội Những tác giả trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam (Society of Young Writers For Understanding Vietnam) và là chủ tịch Hội này trong nhiều năm liền... Đến nay, Hội Những tác giả trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam đã thu hút hơn năm mươi hội viên. Hội thường xuyên tổ chức cho các thành viên sang thăm Việt Nam để có thêm nhiều cứ liệu sống động cho thực tiễn nghiên cứu và sáng tác. Quan tâm về Việt Nam, Bang Hyeon- seok đặc biệt dành nhiều sự trầm tư về sự can dự của quân đội Hàn Quốc vào cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, giai đoạn 1964 - 1973. Những trường hợp như nhà văn Bang Hyeon-seok thường mang trong ý thức của họ một nỗi dằn vặt khôn nguôi. Họ xem sự kiện Hàn Quốc đưa quân tham chiến tại Việt Nam trong quá khứ là một vết xước của dân tộc mà trải qua bao năm tháng, đến tận ngày hôm nay, vết xước vẫn để lại những hệ lụy tinh thần dai dẳng. Các nhà văn Hàn Quốc muốn bày tỏ sự nhận thức lỗi lầm đối với người dân Việt Nam, với đất nước Việt Nam kinh qua con đường sáng tác văn chương. Nhà văn Bang Hyeon-seok chia sẻ: Văn học sẽ là phương tiện hữu hiệu nhất để đưa con người xích lại gần nhau. Văn học lên án chiến tranh, văn học là thứ luôn đứng về phía nhân bản, phản đối sự phi nhân tính. Văn học không có biên giới, và rõ ràng con người cũng không có bi n giới”6. Tâm ... ẩn cầu của người vừa là kẻ thù vừa là người ơn, cũng như của những đứa cháu, bà Sáu Bình đã chấp nhận khép lại hận thù xưa. Cội nguồn không hẳn là một trường hợp loại biệt trong đời sống sân khấu Việt Nam. Trình bày về kịch nói Việt Nam, tác giả Phan Trọng Thưởng nhận định “Một mặt, kịch nói vẫn hướng vào đề tài chiến tranh cách mạng, tiếp tục đề xuất những cách lý giải mới về hiện thực chiến tranh; mặt khác, trong không khí dân chủ và nhiệt huyết công dân mới, kịch nói hướng vào những vấn đề xã hội - chính trị nóng bỏng đang đặt ra trong thực tế đời sống”10. Tuy nhìn riêng từ khía cạnh kịch nói, nhưng cái nhìn đó có thể được bao quát chung cho thực trạng sân khấu đương thời. Bước ra khỏi cuộc chiến, sân khấu, vốn là công cụ tuyên truyền đắc lực cho công cuộc đấu tranh của dân tộc, đã ngoái nhìn lại quá khứ bằng cái nhìn nhiều chiêm nghiệm. Trong bầu không khí cởi mở ngày nay, chiến tranh không chỉ là mất mát, đau thương giản đơn, mà còn là cả một khối xung đột dằng dai giữa tối và sáng. Có tác phẩm viết về chiến tranh để thấy hệ lụy di hại của nó, cũng có tác phẩm viết về chiến tranh để nhận thức lại nó, nhưng cũng có tác phẩm viết về chiến tranh để xoa dịu nó, dỗ dành con người hãy gác những khắc khoải ấy sang một bên và nhìn về tương lai. Cội nguồn chính là tác phẩm như vậy. Kịch bản đã đặt người thưởng thức vào hai chiều hướng nghịch nhau. Một bà Sáu Bình với nỗi hận xương máu không nguôi, để rồi trong mắt bà chỉ cần là người Đại Hàn đều là những kẻ bất nhân. Nhưng cũng có một cậu An, một cô Kim Su-dâng đại diện cho những thế hệ thanh niên trẻ, họ lớn lên trong hòa bình sung túc, dĩ vãng đau thương đối với họ mù mờ, nhạt nhòa. Hai xu hướng cực đoan đều đẩy con người vào bế tắc. Nói như nhân vật Su-dâng khi đang hòa cảm vào vai diễn nhân vật Lý Chiêu Hoàng “nửa bên này khóc cho cái mất, nửa b n kia cười cho cái được. Cái mất giày xéo trái tim ta bật ra thành tiếng khóc. Cái được kích thích tâm hồn ta tạo ra TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 93 tiếng cười. Được và mất của một kiếp người, đang ra sức mạnh phá tan từng ý nghĩ. hà rần - nhà Lý, được - mất đã gạch nối ngang trên cuộc đời ta”. Chỉ có nhìn vào quá khứ để biết, để thấu hiểu giá trị sống hiện mới có thể đi về tương lai bằng đôi chân vững vàng. Song cũng không để quá khứ câu thúc con người, giới hạn con người trong những cái vươn mình lên cao. Lê Duy Hạnh đã tìm thấy nơi nhà văn Hàn Quốc Bang Hyeon-seok một cái nhìn đồng điệu. Trong chiến tranh, số phận con người không do chính họ quyết định. Con người nói cho cùng là nạn nhân của một ý đồ, một tư tưởng “ hững người Đại Hàn cũng chẳng đáng thương sao? ếu là một nước giàu có và hùng mạnh thì tại sao lại phải cầm súng cho Mỹ và xa qu hương, xa gia đ nh để đến tận cái đất nước xa xôi này? Chúng ta cũng đáng thương nhưng dường như người Đại Hàn còn đáng thương hơn nữa. Chúng ta vì giữ mảnh đất của mình mà không còn cách nào khác, phải chiến đấu và phải chết; nhưng còn những người Đại Hàn, sao lại phải đến một đất nước không hề có quan hệ để rồi bị thương và chết?”11. Trong thực tế, dịch chuyển thể loại là con đường tắt, tuy nhanh nhưng không tròn vẹn về việc tiếp nhận những nền văn hóa khác. Sân khấu cải lương nói riêng, sân khấu Việt Nam nói chung nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán (漢字文化圏 ), cho nên những tác phẩm “hương xa” ngày trước, hay những tác phẩm dịch chuyển loại hình hôm nay không thoát ra được hệ tư tưởng, hình thái văn hóa của khu vực. Chính vì vậy, dù viết về con người, đất nước Hàn Quốc, nhưng phong thái, cách nghĩ, cách cảm vẫn còn nặng màu sắc Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách công bằng, có thể dụng ý ban đầu của việc dịch chuyển loại hình là phục vụ thị hiếu của đại chúng, nhưng thao tác nghệ thuật này đã đem đến cho sân khấu cải lương tinh thần rộng mở, không bó hẹp mình trong khung cửa hạn hẹp mà vươn lên tìm đến những bản diện mới. 3.2. Không dừng lại ở việc trình bày một vấn đề lịch sử - xã hội, kịch bản Cội nguồn còn là một cuộc tra vấn không ngừng trong tư duy nghệ thuật của soạn giả Lê Duy Hạnh. Nhận xét về Lê Duy Hạnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành cho rằng ông là “một cây bút không ngừng thao thức, tìm kiếm cái mới từ bình diện nội dung đến cung cách diễn tả, nhằm mở rộng khả năng bao quát hiện thực kết hợp với tăng cường chiều sâu vở diễn”12. Sài Gòn - Gia Định trước kia, TP.HCM ngày nay vốn là một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa thuộc vào loại quy mô của đất nước. Đặc điểm địa lý tự nhiên cùng với những biến động xã hội nhân văn đã sớm cấp cho đô thị trung tâm khu vực Nam bộ này một năng lượng sống tràn trề, biết đón nhận và tiếp biến nhiều dòng chảy, nhiều thành tố văn hóa, tạo nên một tổng thể văn hóa chung phong phú nhiều màu sắc. Nhìn riêng từ bình diện sân khấu, từ thế kỷ XVII - XVIII, loại hình hát bội đã định hình ở khu vực Đàng trong, đặc biệt ở thành Gia Định với sự ủng hộ tích cực của quan Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định. Đầu thế kỷ XX, khi văn hóa phương Tây du nhập và trở nên lớn mạnh ở Việt Nam, tại Nam kỳ, cải lương - một hình thức sân khấu mới - ra đời trên cơ sở kế thừa âm nhạc tài tử, kếp hợp phong cách diễn xướng hiện đại. Sân khấu cải lương trở thành “đặc sản” văn hóa tinh thần của cư dân các tỉnh Nam kỳ, và đặc biệt là ở đô thị Sài Gòn. Năm 1985, Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc là điều kiện xúc GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 94 tác cho nghệ thuật kịch nói tiếp nhận từ phương Tây bén duyên với môi trường nghệ thuật Nam bộ. Như vậy, qua những biến chuyển của lịch sử con người, TP.HCM trở thành giao điểm của nhiều kịch chủng nghệ thuật. Phối cảnh sôi động đó cho thấy TP.HCM là môi trường cực kỳ năng động, thu hút/ đón nhận một cách tích cực những loại hình sân khấu từ truyền thống đến hiện đại, làm nên một bản sắc riêng. Sinh ra trên quê hương đất võ Bình Định, nhưng hành trang nghệ thuật của Lê Duy Hạnh lại gắn liền với vùng đất Sài Gòn - TP.HCM. Đời sống sân khấu vừa giàu sức sống vừa bộn bề những vấn đề đó chính là nguồn cội cho những sáng tạo hết sức táo bạo của ông. Kịch Lê Duy Hạnh là một thương hiệu kịch rất mới, rất hiện đại. Nó không vấp phải căn bệnh trần thuật lại sự kiện, nhân vật bằng hình tượng sân khấu mà được xây dựng bằng cách chiết xuất những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đời sống xã hội đương đại, nâng lên thành một luận đề, trong đó có sự tương tranh không ngừng. Có thể thấy được đặc trưng này rất rõ trong hiện tượng kịch độc diễn của Lê Duy Hạnh. Nhà nghiên cứu Đỗ Hương từng nhận xét “ ác giả Lê Duy Hạnh với chùm kịch dành cho một người diễn như Lý Chiêu Hoàng, Độc thoại đêm, Hoàng hậu của hai vua, Diễn kịch một mình, Hồn thơ ngọc. Ngoài tác giả Vũ Minh với một Ông già và biển cả, thì tác giả Lê Duy Hạnh đến giờ phút này gần như có thể đăng ký “thương hiệu” độc quyền cho loại hình kịch một m nh này”13. Kịch độc diễn là một hình thức kịch đòi hỏi sự điêu luyện trong sáng tạo và biểu diễn. Người sáng tác - người diễn đồng thời phải đặt mình vào trạng thái phân mảnh ý thức, xoay chuyển thường xuyên, không ngừng tra vấn phản biện với chính mình. Kịch độc diễn nâng mâu thuẫn kịch lên tầm khái quát cao, và phá vỡ những logic thông thường trong tư duy và thói quen sáng tạo của kịch hát truyền thống phương Đông. Tuy vậy, kịch Lê Duy Hạnh thường biểu hiện tốt trong hình thái kịch hát truyền thống. Nhiều kịch bản của ông được dàn dựng trước nhất ở lĩnh vực kịch hát, tiêu biểu như kịch bản Cội nguồn trước khi được cải lương hóa, nó đã được giới thiệu đến công chúng bằng hình thức sân khấu tuồng (do Nhà hát Tuồng Đào Tấn dàn dựng, đạo diễn: Hoàng Ngọc Đình). Sở dĩ vậy là vì kịch Lê Duy Hạnh giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Giữ được căn cốt truyền thống nhưng vẫn mang đậm dấu ấn sáng tạo mới mẻ. Câu chuyện truyền thống và hiện đại đặt ra trong kịch bản là một nan đề trong văn hóa, nhận thức luận của con người thời đại mới. Mở cửa, giao lưu quốc tế là con đường sống còn trong xu thế thời đời đại của đất nước, của toàn dân tộc, nhưng con người đương thời phải biết làm chủ bản thân bằng những nền tảng vững chắc, hòa nhập chứ không hòa tan. Tâm thức truyền thống chính là ký ức bản năng trong con người Su-dâng, cô gái người Hàn gốc Việt. Bằng việc sử dụng một hình mẫu vốn quen thuộc trong những kịch bản của mình - Lý Chiêu Hoàng - hay đúng hơn là hình mẫu người phụ nữ trong bối cảnh chuyển giao thời đại, Lê Duy Hạnh vừa khắc họa sâu sắc tâm thức truyền thống, vừa chuyển tải những ngổn ngang thời đại đặt ra cho con người. Đặt “gói” nội dung Cội nguồn trong diện mạo cải lương là một lựa chọn phù hợp. Sân khấu cải lương ra đời như một kịch chủng hiện đại, phát triển dung hợp giữa hai dòng văn hóa Đông - Tây, sự kết hợp tài tình của yếu tố truyền thống và cách tân, giữa bản sắc cội nguồn dân tộc và ánh sáng văn minh tân thời. Bản thân thuật TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 95 ngữ “cải lương” đi từ tên gọi của một trào lưu tư tưởng chính trị phương Tây (réformisme), phát triển thành một tính từ biểu thị tính chất hiện đại của loại hình sân khấu mới (cải lương = tân kỳ/kim thời), rồi được định hình thành một danh từ chung chỉ một loại hình sân khấu. Hình thức cải lương đã tiếp thêm cho nội dung “luận đề” Cội nguồn một minh chứng cho khả năng tìm kiếm những chân trời đón đợi mới của sân khấu dân tộc giữa thời đại toàn cầu hóa. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng khó thể khước từ, mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn ý thức được tác dụng của việc quảng bá thương hiệu quốc gia từ văn hóa, tư tưởng. Giao lưu văn chương nghệ thuật, với tư cách là một thành tố cấu thành nên văn hóa - đã, đang và sẽ là cầu nối hiệu quả trong tiến trình giao lưu và phổ biến văn hóa. Với việc tiếp nhận cảm hứng về tư tưởng sám hối và hòa giải trong thời hậu chiến từ tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của nhà văn Bang Hyeon-seok, soạn giả Lê Duy Hạnh đã sáng tạo nên kịch bản Cội nguồn mang nhiều thông điệp nhân văn. Tác phẩm là sự nối kết giữa quá khứ và hiện tại, nối kết giữa người Việt Nam và người Hàn Quốc, nối kết giữa văn học và sân khấu. Bài viết phần nào chỉ ra những nối kết này trên tinh thần gợi mở và chờ đợi những hướng tiếp cận, lý giải sâu sắc hơn trong tương lai. Chú thích: 1. Tháng 6/2014, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á và Viện Nghiên cứu Hàn Quốc học Trung ương (Academy of Korean Studies) phối hợp tổ chức Hội thảo quốc tế Nghiên cứu Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương hướng; Tháng 5/2016, Trường Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng) tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tế So sánh văn học Việt Nam - Hàn Quốc cũng thu hút được nhiều nhà khoa học, chuyên gia hai nước tham dự. 2. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt am ở Hàn uốc, viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim- ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam- o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. 3. Kể từ năm 2002, Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc tổ chức giải thưởng thường niên cho các tác phẩm dịch văn học Hàn và xuất bản ngoài lãnh thổ Hàn Quốc ở năm trước. 4. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, TP.HCM, tr.139-140. 5. Trong bài viết có một số tài liệu tham khảo phiên âm thành Bang Hyun Suk, do cách phiên âm này gắn tới tên bài viết nên chúng tôi giữ nguyên văn. 6. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại ien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 04/9/2016. 7. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ Hàn..., tại nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016. 8. Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), Mỹ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.229. 9. Do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn. Thành phần diễn viên: NSƯT. Thoại Miêu (bà Sáu Bình), NSƯT. Vũ Luân (Li Sơn-du), NSƯT. Tú Sương (Kim Su-dâng), NSƯT. Trọng Phúc (An), Mai Thanh Phượng (Li Hi-sô), Thoại An (Thủy), Minh Hòa (Kim Đa-dung). 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ XX”, Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, tr.582. GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 96 11. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.240-241. 12. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr.6-7. 13. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr.165. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 2. Denis Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), Mỹ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb Sân khấu, Hà Nội. 4. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Giao lưu dịch thuật văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc với vai trò “cửa sổ văn hóa””, Tuần báo Văn nghệ TP.HCM, Số 327 (ngày 13/11/2014). 5. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, Nxb Sân khấu, Hà Nội. 6. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt am ở Hàn uốc, viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim- ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam- o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. 7. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, TP.HCM. 8. Hoàng Nghĩa Nam (2005), Một nhà văn Hàn Quốc nổi tiếng với đề tài Việt Nam, tại van-han-quoc-noi-tieng-voi-de-tai-viet-nam- 3540.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016. 9. Nguyễn Thị Thắm chủ biên (2015), Nghiên cứu Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương hướng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ XX”, in trong Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, tr.562-590. 11. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ Hàn..., tại nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016. 12. Trần Thúc Việt (2009), “Nghiên cứu văn học Hàn Quốc tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế tiếng Hàn Quốc, Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, 56789/1308; ngày truy cập: 11/11/2015. 13. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), “Sám hối và hòa giải trong hai tiểu thuyết Hàn Quốc viết về Việt Nam (Đọc Cái bóng của vũ khí - 무기의 그늘 của Hwang Suk Young và Thời gian ăn tôm hùm - 시간 바다 가재 của Bang Hyun Suk)”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến số 06 (tháng 02/2015), trang 71-80. 14. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại dien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 04/9/2016. Ngày nhận bài: 19/12/2016 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
File đính kèm:
giao_luu_van_hoc_va_dich_chuyen_loai_hinh_truong_hop_tieu_th.pdf