Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh

Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện

phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết

Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả

hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học

Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của

Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với

Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt - Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa.

pdf 12 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017 
85 
Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: 
Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của 
Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh 
Literary exchange and genre shifting: A case study of comparing novel Time for 
lobster eating by Bang Hyeon-Seok and script The origins by Le Duy Hanh 
CN. Trần Xuân Tiến, Trường Đại học Văn Hiến 
Tran Xuan Tien, B.A., Van Hien University 
CN. Vương Hoài Lâm, Nhà Xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM 
Vuong Hoai Lam, B.A., Ho Chi Minh City Culture – Literature and Arts Publishing House 
Tóm tắt 
Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện 
phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề 
tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết 
Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả 
hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học 
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. 
Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của 
Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với 
Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt 
- Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với 
những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế 
toàn cầu hóa. 
Từ khóa: Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, Cội nguồn, Lê Duy Hạnh, 
giao lưu văn học Việt - Hàn, kịch bản cải lương. 
Abstract 
Since the 1990s, the cultural and literary exchanges between Vietnam and South Korea have been remarkably 
developed. Bang Hyeon-seok 방현석 is among the Korean writers whose writing interest concerns Vietnam, 
especially the war in which many Koreans were involved. His works, especially Time for lobster eating 
랍스터 를 먹는 시간, manifested effort to overcome sorrowful memories of both nations. Literary exchange 
between Vietnam and South Korea indicates Vietnam’s effort for integration in the globalization context. 
The script The origins by Le Duy Hanh, which was adapted to “cai luong” by Composer Hoang Song Viet 
and Director Hoa Ha and succeeded in National Festival for Professional Cai luong Performance in 2012, is 
similar in theme to Bang Hyeon-seok’s novel. The origins is among very few compositions in the genre of 
Vietnamese traditional musical theater about the Vietnam-South Korea relationship. Vietnamese traditional 
musical theater, thanks to its effort to expand realm of reflection and its internal flexibility, has proves its 
high adaptability in the globalization context. 
Keywords: Time for lobster eating 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, The origins, Le Duy 
Hanh, literary exchange, Vietnam - South Korea relationship, cai luong’s script. 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
86 
1. Giao lưu văn học Việt - Hàn: 
Một tín hiệu của xu hướng toàn cầu hóa 
trong văn học 
1.1. Ở một khía cạnh nhất định, giao 
lưu văn học có thể được nhìn nhận với tư 
cách là sự tự ý thức về chính văn học thông 
qua việc thể hiện song song hai nhu cầu 
tưởng chừng như đối nghịch là nhu cầu tìm 
hiểu, tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa 
của đối tượng khác (tha nhân) và nhu cầu 
giới thiệu, quảng bá những giá trị riêng có 
của bản thân. Hai nhu cầu ấy, tùy theo bối 
cảnh chính trị - xã hội, tùy theo tư duy của 
những người trong cuộc mà có lúc bên 
nặng bên nhẹ khác nhau. Hai nhu cầu ấy, 
thú vị thay, lại rất phù hợp với tích cách/ 
bản chất của quá trình toàn cầu hóa 
(Globalization). Toàn cầu hóa là khái niệm 
được đặt ra nhằm biểu đạt sự trao đổi, liên 
kết đang ngày càng được tăng cường giữa 
các quốc gia, các khu vực, các vùng lãnh 
thổ. Thuật ngữ này xuất hiện vào những 
năm 50 và được sử dụng một cách phổ biến 
từ những năm 90 của thế kỷ trước. Những 
hiệu quả mà toàn cầu hóa mang lại đã 
khiến cho quá trình của chính nó trở thành 
một xu thế tất yếu. Trong hành trình của 
toàn cầu hóa, của giao lưu văn học, dịch 
thuật có vai trò hết sức đặc biệt. Bởi vì, 
một trong những biểu hiện cụ thể dễ nhận 
thấy của xu hướng toàn cầu hóa chính là sự 
gia tăng quá trình trao đổi văn hóa, trong 
đó có xuất khẩu các văn hóa phẩm, cụ thể 
là tác phẩm văn học. 
Tuy là hai nước Đông Á cách xa nhau 
về khoảng cách địa lý, nhưng Việt Nam và 
Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về 
các yếu tố địa - chiến lược, địa - lịch sử, 
địa - văn hóa (mà yếu tố đồng văn thường 
được nhấn mạnh hơn cả). Lịch sử bang 
giao song phương ở riêng lĩnh vực văn hóa 
giữa hai nước Việt - Hàn (thời điểm này là 
cả bán đảo Triều Tiên) đã được hình thành 
từ thế kỷ XIV nhưng phải đến giữa thế kỷ 
XX, công tác dịch văn học của hai nước 
mới có dấu hiệu của sự khởi động. Với 
việc chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại 
giao qua Tuyên bố chung về việc thiết lập 
quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ vào ngày 
22/12/1992, hoạt động dịch thuật và giới 
thiệu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực 
sự đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tháng 
8/2001, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên 
Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI, và đến 
tháng 10/2009 tiếp tục nâng cấp thành Đối 
tác hợp tác chiến lược. Chính những cơ sở 
chính trị này đã tạo tiền đề cho quá trình 
giao lưu văn học Việt - Hàn phát triển. 
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng 
tôi, tính đến tháng 11/2016, đã có gần 130 
đầu sách văn học Hàn Quốc được dịch và 
giới thiệu ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều đơn 
vị xuất bản có định hướng đẩy mạnh công 
tác dịch văn học Hàn, nổi bật là Công ty cổ 
phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam 
(Hà Nội) và Nhà xuất bản Trẻ (TP.HCM) 
với nhiều ấn phẩm cập nhật tình hình văn 
học đương đại ở Hàn Quốc. Trong tâm thế 
tạo sự “thông hiểu, hợp lực để cùng phát 
triển”, ngoài hoạt động giảng dạy, Trung 
tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn tại TP.HCM từng 
tổ chức dịch và phát hành miễn phí tập 
sách Những bài thơ hay của văn học hiện 
đại Hàn Quốc. Sách tập hợp 60 bài thơ 
được cho là tiêu biểu của Hàn Quốc với lời 
dịch Việt ngữ trong sáng, gần gũi kèm hình 
minh họa đặc sắc, quyển sách thật sự là tài 
liệu hữu ích để độc giả Việt Nam tiếp cận 
với thơ ca Hàn Quốc. 
Không cần đến một cuộc khảo sát xã 
hội học, nhìn qua thực trạng nêu trên (trên 
bình diện xuất bản) chúng ta cũng dễ dàng 
nhận thấy của văn học Hàn Quốc có vai trò 
khá mờ nhạt so với các sản phẩm văn hóa 
TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
87 
khác (phim truyền hình, điện ảnh, thời 
trang, ẩm thực) trong đời sống tinh thần 
của đại chúng Việt trong sự tiếp nhận văn 
hóa Hàn Quốc. 
Câu chuyện về giao lưu văn học Việt - 
Hàn còn thể hiện ở các hoạt động tiếp nhận 
của giới nghiên cứu. Song song với các 
lĩnh vực kinh tế, triết học, văn hóa - xã hội, 
khoa học - kỹ thuật, công tác nghiên cứu 
văn chương hai nước Việt Nam - Hàn 
Quốc cũng đi vào phác thảo quan hệ so 
sánh, đối chiếu trong tâm thế tìm ra những 
điểm tương đồng dị biệt giữa hai dân tộc, 
kết nối nhau bằng những liên hệ đồng dạng, 
khẳng định những giá trị cốt lõi riêng biệt. 
Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và 
giảng dạy văn học Hàn Quốc ở Việt Nam 
[AKS-2012-BBZ-211] đang dần được hiện 
thực hóa bởi hàng loạt các hội thảo, tọa 
đàm lớn nhỏ như: Hội thảo khoa học quốc 
tế Văn học Hàn Quốc trong bối cảnh châu 
Á (tháng 01/2014), Hội thảo khoa học quốc 
tế Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ pháp tiếng 
Hàn và Văn hóa - Xã hội Hàn Quốc (tháng 
8/2016) v.v.. 
Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà 
Nội là một trong những địa chỉ mạnh về 
công tác nghiên cứu Hàn Quốc. Các Hội 
thảo Dịch thuật văn học Hàn Quốc tại Việt 
Nam (tháng 11/2014), Văn học Hàn Quốc 
tại Việt Nam (tháng 11/2015, phối hợp với 
Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc) thu 
hút được nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy, 
nhiều dịch giả Hàn Quốc và Việt Nam 
quan tâm tham dự. 
Gặp gỡ văn chương Việt Hàn - Korean 
Vietnam literary exchange event là chương 
trình được tổ chức thường niên bởi sự phối 
hợp thực hiện giữa Viện Dịch thuật Văn 
học Hàn Quốc 한국문학번역원 và Trường 
Đại học KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM. 
Chương trình được khởi động vào năm 
2014 với buổi giao lưu giữa hai tác giả 
Nguyễn Ngọc Tư và Kim Young-ha. Theo 
sau đó là các buổi giao lưu giữa tác giả Hồ 
Anh Thái và Jeong You-jeong (2015), tác 
giả Võ Diệu Thanh và Hwang Sun-mi 
(2016). Cũng nằm trong khuôn khổ của 
chương trình này, các buổi tọa đàm với chủ 
đề Phương hướng tăng cường trao đổi, 
hợp tác dịch thuật và giới thiệu văn học 
góp phần xúc tiến quan hệ Việt Nam - Hàn 
Quốc (2015), Xúc tiến giao lưu văn học 
dịch Việt Nam - Hàn Quốc (2016) đã tạo 
cơ hội cho các bên trong lĩnh vực văn 
chương trao đổi, tổng kết, xúc tiến hoạt 
động kết nối giao lưu. 
Bên cạnh hai đơn vị nêu trên, công tác 
giao lưu văn học Việt - Hàn còn được đẩy 
mạnh bởi nhiều đơn vị khác như: Hội 
Nghiên cứu khoa học về Hàn Quốc của 
Việt Nam (Korean Research Association of 
Vietnam - KRAV), Viện Nghiên cứu Đông 
Bắc Á (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã 
hội Việt Nam), các trường Đại học, Cao 
đẳng có giảng dạy Hàn Quốc học v.v..1 
Như vậy, từ lĩnh vực xuất bản đến 
nghiên cứu chuyên ngành, hoạt động giao 
lưu văn học Việt - Hàn đã có một diện mạo 
chung tương đối sôi động và có tiềm năng 
được đẩy mạnh trong tương lai. 
1.2. Khái niệm giao lưu (exchange) tự 
trong nội hàm của nó đã định hướng đến sự 
đối thoại và hợp tác từ hai phía. Tuy vậy, 
tình hình tiếp nhận văn học Việt Nam ở 
Hàn Quốc đang trong tình trạng trầm lặng 
hơn so chiều hướng ngược lại. Hiện nay, 
(theo thông tin chúng tôi tổng hợp từ 
internet), số lượng tác giả Việt Nam có tác 
phẩm được dịch ở Hàn Quốc chỉ vỏn vẹn 
một vài tên tuổi. Có thể kể đến như các nhà 
văn Bảo Ninh, Văn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, 
Hồ Anh Thái và nhà thơ Hữu Thỉnh. Về 
công tác nghiên cứu, trong bài viết nh 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
88 
h nh nghi n cứu văn học Việt am ở Hàn 
Quốc vào năm 2008, GS.TS. Kim Ki-tae 
đã thẳng thắn chia sẻ: “Ở Hàn Quốc, số 
lượng học giả nghiên cứu về văn học Việt 
Nam rất ít. Văn học hiện đại thì càng ít”. 
Trước thực trạng có phần “tẻ nhạt” đó ông 
bày tỏ mong muốn “trong tương lai sẽ có 
thêm nhiều nghiên cứu về văn học Việt 
Nam tại Hàn Quốc cùng hòa với việc 
nghiên cứu văn học Trung Quốc, Đông 
Bắc Á”2. Gần mười năm đã trôi qua tính từ 
lúc GS.TS. Kim Ki-tae viết nhận định này, 
khung cảnh tiếp nhận văn học Việt Nam ở 
Hàn Quốc, trong chừng mực nhất định, có 
thể nói, tuy có ít nhiều biến chuyển nhưng 
vẫn chưa tương ứng với tiềm năng vốn dĩ. 
Thực tế, hiện trạng nghiên cứu này vẫn 
chưa đáp ứng được kỳ vọng của những 
người trong cuộc. Một điểm đáng chú ý là 
trong khi Viện Dịch thuật Văn học Hàn 
Quốc đã tổ chức trao giải thưởng văn học 
dịch cho các dịch giả Việt Nam dịch xuất 
sắc các tác phẩm văn học Hàn Quốc sang 
tiếng Việt3 thì các dịch giả dịch tác phẩm 
văn học Việt Nam sang tiếng Hàn Quốc 
chưa có được sự khích lệ tương tự. 
2. Giao lưu văn học Việt - Hàn: 
Trường hợp Thời gian ăn tôm hùm của 
Bang Hyeon-seok 
Đứng từ góc độ nghiên cứu, từng bước 
nhận diện, đi đến khái quát hóa diện mạo 
giao lưu văn học Việt Nam - Hàn Quốc là 
việc làm hết sức cần thiết nhằm phác thảo 
một khía cạnh, bề diện của quá trình toàn 
cầu hóa văn học. Để làm được điều đó, 
nhiệm vụ đầu tiên là phải tháo gỡ rào cản 
ngôn ngữ giữa hai nền văn học. Dịch văn 
học trở thành nhân tố đóng vai trò hết sức 
quan trọng trong việc đưa cuộc sống và con 
người Hàn Quốc đến Việt Nam và ngược lại. 
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, 
trong khi không khí tiếp nhận văn học Hàn 
ở Việt Nam diễn ra tương đối sôi động thì 
tình hình này không xảy ra tương đương ở 
Hàn Quốc. Chính vì vậy, công tác dịch 
thuật văn học Hàn ở Việt Nam phải đảm 
dương cùng lúc hai trách nhiệm, một mặt 
làm môi giới mang những phản ảnh, hiểu 
biết về đời sống và con người Hàn đến với 
Việt Nam, một mặt phải chọn lọc những 
tác phẩm ghi nhận cái nhìn của người Hàn 
Quốc đối với đất nước và con người Việt. 
Theo tài liệu Việt Nam - Hàn Quốc: Một 
phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, có 
một số tác phẩm văn học Hàn Quốc viết về 
Việt Nam, phản ánh nhận thức của người 
Hàn về đất nước Việt Nam4, như “Tháp 탑” 
(Hwang Sok-yong), “ gười da 
vàng 힁색인” (Lee Sang-moon), “Chiến 
tranh trắng 하얀 전쟁” (Ahn Jung-hyo) 
“Huân chương và xiềng xích훈 장 과 굴 레” 
(Lee Won-kyu), “Áo dài đỏ đỏ 붉은 
아오자이” (Oh Hyun-mi), “Cuộc chia ly 
buồn애별” (Ku Hyo-seo) Tuy nhiên, việc 
tiến hành dịch những tác phẩm vừa nêu hiện 
vẫn chưa có tín hiệu thực hiện. Trong hoàn 
cảnh đó, Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 
먹는 시간 của Bang Hyeon-seok5 có lẽ là 
một trong số ít tác phẩm đáp ứng được cùng 
lúc hai nhu cầu của thực trạng giao lưu văn 
học Việt - Hàn hiện nay đối với độc giả. 
2.1. Tác giả Bang Hyeon - 
seok 방현석 sinh năm 1961, hiện đang là 
giáo sư khoa Viết văn trường Đại học 
Chung Ang 중앙, Hàn Quốc. Ông được 
đánh giá là tác giả thuộc thế hệ nhà văn trẻ 
của Hàn Quốc, đồng thời cũng là người có 
cảm tình đặc biệt với lịch sử và văn hóa 
Việt Nam. Năm 1994, Bang Hyeon-seok 
lần đầu đến Việt Nam. Cuộc viếng thăm đó 
đã khiến ông “bén duyên” với mảnh đất 
này và có những chuyến xuyên Việt để tìm 
hiểu thêm về đất nước của mà ông yêu mến. 
TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
89 
Không những thế, ông còn cùng với những 
người bạn có cùng mối quan tâm nghiên 
cứu Việt Nam thành lập Hội Những tác giả 
trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam (Society of 
Young Writers For Understanding Vietnam) 
và là chủ tịch Hội này trong nhiều năm 
liền... Đến nay, Hội Những tác giả trẻ 
muốn tìm hiểu về Việt Nam đã thu hút hơn 
năm mươi hội viên. Hội thường xuyên tổ 
chức cho các thành viên sang thăm Việt 
Nam để có thêm nhiều cứ liệu sống động 
cho thực tiễn nghiên cứu và sáng tác. 
Quan tâm về Việt Nam, Bang Hyeon-
seok đặc biệt dành nhiều sự trầm tư về sự 
can dự của quân đội Hàn Quốc vào cuộc 
xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, giai 
đoạn 1964 - 1973. Những trường hợp như 
nhà văn Bang Hyeon-seok thường mang 
trong ý thức của họ một nỗi dằn vặt khôn 
nguôi. Họ xem sự kiện Hàn Quốc đưa quân 
tham chiến tại Việt Nam trong quá khứ là 
một vết xước của dân tộc mà trải qua bao 
năm tháng, đến tận ngày hôm nay, vết 
xước vẫn để lại những hệ lụy tinh thần dai 
dẳng. Các nhà văn Hàn Quốc muốn bày tỏ 
sự nhận thức lỗi lầm đối với người dân 
Việt Nam, với đất nước Việt Nam kinh qua 
con đường sáng tác văn chương. Nhà văn 
Bang Hyeon-seok chia sẻ: Văn học sẽ là 
phương tiện hữu hiệu nhất để đưa con 
người xích lại gần nhau. Văn học lên án 
chiến tranh, văn học là thứ luôn đứng về 
phía nhân bản, phản đối sự phi nhân tính. 
Văn học không có biên giới, và rõ ràng con 
người cũng không có bi n giới”6. Tâm  ... ẩn cầu 
của người vừa là kẻ thù vừa là người ơn, 
cũng như của những đứa cháu, bà Sáu Bình 
đã chấp nhận khép lại hận thù xưa. 
Cội nguồn không hẳn là một trường 
hợp loại biệt trong đời sống sân khấu Việt 
Nam. Trình bày về kịch nói Việt Nam, tác 
giả Phan Trọng Thưởng nhận định “Một 
mặt, kịch nói vẫn hướng vào đề tài chiến 
tranh cách mạng, tiếp tục đề xuất những 
cách lý giải mới về hiện thực chiến tranh; 
mặt khác, trong không khí dân chủ và nhiệt 
huyết công dân mới, kịch nói hướng vào 
những vấn đề xã hội - chính trị nóng bỏng 
đang đặt ra trong thực tế đời sống”10. Tuy 
nhìn riêng từ khía cạnh kịch nói, nhưng cái 
nhìn đó có thể được bao quát chung cho 
thực trạng sân khấu đương thời. Bước ra 
khỏi cuộc chiến, sân khấu, vốn là công cụ 
tuyên truyền đắc lực cho công cuộc đấu 
tranh của dân tộc, đã ngoái nhìn lại quá 
khứ bằng cái nhìn nhiều chiêm nghiệm. 
Trong bầu không khí cởi mở ngày nay, 
chiến tranh không chỉ là mất mát, đau 
thương giản đơn, mà còn là cả một khối 
xung đột dằng dai giữa tối và sáng. Có tác 
phẩm viết về chiến tranh để thấy hệ lụy di 
hại của nó, cũng có tác phẩm viết về chiến 
tranh để nhận thức lại nó, nhưng cũng có 
tác phẩm viết về chiến tranh để xoa dịu nó, 
dỗ dành con người hãy gác những khắc 
khoải ấy sang một bên và nhìn về tương lai. 
Cội nguồn chính là tác phẩm như vậy. 
Kịch bản đã đặt người thưởng thức vào 
hai chiều hướng nghịch nhau. Một bà Sáu 
Bình với nỗi hận xương máu không nguôi, 
để rồi trong mắt bà chỉ cần là người Đại 
Hàn đều là những kẻ bất nhân. Nhưng cũng 
có một cậu An, một cô Kim Su-dâng đại 
diện cho những thế hệ thanh niên trẻ, họ 
lớn lên trong hòa bình sung túc, dĩ vãng 
đau thương đối với họ mù mờ, nhạt nhòa. 
Hai xu hướng cực đoan đều đẩy con người 
vào bế tắc. Nói như nhân vật Su-dâng khi 
đang hòa cảm vào vai diễn nhân vật Lý 
Chiêu Hoàng “nửa bên này khóc cho cái 
mất, nửa b n kia cười cho cái được. Cái 
mất giày xéo trái tim ta bật ra thành tiếng 
khóc. Cái được kích thích tâm hồn ta tạo ra 
TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
93 
tiếng cười. Được và mất của một kiếp 
người, đang ra sức mạnh phá tan từng ý 
nghĩ. hà rần - nhà Lý, được - mất đã 
gạch nối ngang trên cuộc đời ta”. Chỉ có 
nhìn vào quá khứ để biết, để thấu hiểu giá 
trị sống hiện mới có thể đi về tương lai 
bằng đôi chân vững vàng. Song cũng 
không để quá khứ câu thúc con người, giới 
hạn con người trong những cái vươn mình 
lên cao. Lê Duy Hạnh đã tìm thấy nơi nhà 
văn Hàn Quốc Bang Hyeon-seok một cái 
nhìn đồng điệu. Trong chiến tranh, số phận 
con người không do chính họ quyết định. 
Con người nói cho cùng là nạn nhân của 
một ý đồ, một tư tưởng “ hững người Đại 
Hàn cũng chẳng đáng thương sao? ếu là 
một nước giàu có và hùng mạnh thì tại sao 
lại phải cầm súng cho Mỹ và xa qu hương, 
xa gia đ nh để đến tận cái đất nước xa xôi 
này? Chúng ta cũng đáng thương nhưng 
dường như người Đại Hàn còn đáng 
thương hơn nữa. Chúng ta vì giữ mảnh đất 
của mình mà không còn cách nào khác, 
phải chiến đấu và phải chết; nhưng còn 
những người Đại Hàn, sao lại phải đến 
một đất nước không hề có quan hệ để rồi bị 
thương và chết?”11. 
Trong thực tế, dịch chuyển thể loại là 
con đường tắt, tuy nhanh nhưng không tròn 
vẹn về việc tiếp nhận những nền văn hóa 
khác. Sân khấu cải lương nói riêng, sân 
khấu Việt Nam nói chung nằm trong phạm 
vi ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán 
(漢字文化圏 ), cho nên những tác phẩm 
“hương xa” ngày trước, hay những tác 
phẩm dịch chuyển loại hình hôm nay 
không thoát ra được hệ tư tưởng, hình thái 
văn hóa của khu vực. Chính vì vậy, dù viết 
về con người, đất nước Hàn Quốc, nhưng 
phong thái, cách nghĩ, cách cảm vẫn còn 
nặng màu sắc Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn 
nhận một cách công bằng, có thể dụng ý 
ban đầu của việc dịch chuyển loại hình là 
phục vụ thị hiếu của đại chúng, nhưng thao 
tác nghệ thuật này đã đem đến cho sân 
khấu cải lương tinh thần rộng mở, không 
bó hẹp mình trong khung cửa hạn hẹp mà 
vươn lên tìm đến những bản diện mới. 
3.2. Không dừng lại ở việc trình bày 
một vấn đề lịch sử - xã hội, kịch bản Cội 
nguồn còn là một cuộc tra vấn không 
ngừng trong tư duy nghệ thuật của soạn giả 
Lê Duy Hạnh. Nhận xét về Lê Duy Hạnh, 
nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành cho 
rằng ông là “một cây bút không ngừng 
thao thức, tìm kiếm cái mới từ bình diện 
nội dung đến cung cách diễn tả, nhằm mở 
rộng khả năng bao quát hiện thực kết hợp 
với tăng cường chiều sâu vở diễn”12. 
Sài Gòn - Gia Định trước kia, 
TP.HCM ngày nay vốn là một trung tâm 
kinh tế - chính trị - văn hóa thuộc vào loại 
quy mô của đất nước. Đặc điểm địa lý tự 
nhiên cùng với những biến động xã hội 
nhân văn đã sớm cấp cho đô thị trung tâm 
khu vực Nam bộ này một năng lượng sống 
tràn trề, biết đón nhận và tiếp biến nhiều 
dòng chảy, nhiều thành tố văn hóa, tạo nên 
một tổng thể văn hóa chung phong phú 
nhiều màu sắc. Nhìn riêng từ bình diện sân 
khấu, từ thế kỷ XVII - XVIII, loại hình hát 
bội đã định hình ở khu vực Đàng trong, đặc 
biệt ở thành Gia Định với sự ủng hộ tích 
cực của quan Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng 
trấn Gia Định. Đầu thế kỷ XX, khi văn hóa 
phương Tây du nhập và trở nên lớn mạnh ở 
Việt Nam, tại Nam kỳ, cải lương - một 
hình thức sân khấu mới - ra đời trên cơ sở 
kế thừa âm nhạc tài tử, kếp hợp phong cách 
diễn xướng hiện đại. Sân khấu cải lương 
trở thành “đặc sản” văn hóa tinh thần của 
cư dân các tỉnh Nam kỳ, và đặc biệt là ở đô 
thị Sài Gòn. Năm 1985, Hội diễn sân khấu 
chuyên nghiệp toàn quốc là điều kiện xúc 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
94 
tác cho nghệ thuật kịch nói tiếp nhận từ 
phương Tây bén duyên với môi trường nghệ 
thuật Nam bộ. Như vậy, qua những biến 
chuyển của lịch sử con người, TP.HCM trở 
thành giao điểm của nhiều kịch chủng nghệ 
thuật. Phối cảnh sôi động đó cho thấy 
TP.HCM là môi trường cực kỳ năng động, 
thu hút/ đón nhận một cách tích cực những 
loại hình sân khấu từ truyền thống đến hiện 
đại, làm nên một bản sắc riêng. 
Sinh ra trên quê hương đất võ Bình 
Định, nhưng hành trang nghệ thuật của Lê 
Duy Hạnh lại gắn liền với vùng đất Sài 
Gòn - TP.HCM. Đời sống sân khấu vừa 
giàu sức sống vừa bộn bề những vấn đề đó 
chính là nguồn cội cho những sáng tạo hết 
sức táo bạo của ông. Kịch Lê Duy Hạnh là 
một thương hiệu kịch rất mới, rất hiện đại. 
Nó không vấp phải căn bệnh trần thuật lại 
sự kiện, nhân vật bằng hình tượng sân khấu 
mà được xây dựng bằng cách chiết xuất 
những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đời sống xã 
hội đương đại, nâng lên thành một luận đề, 
trong đó có sự tương tranh không ngừng. 
Có thể thấy được đặc trưng này rất rõ trong 
hiện tượng kịch độc diễn của Lê Duy Hạnh. 
Nhà nghiên cứu Đỗ Hương từng nhận xét 
“ ác giả Lê Duy Hạnh với chùm kịch dành 
cho một người diễn như Lý Chiêu Hoàng, 
Độc thoại đêm, Hoàng hậu của hai vua, 
Diễn kịch một mình, Hồn thơ ngọc. Ngoài 
tác giả Vũ Minh với một Ông già và biển cả, 
thì tác giả Lê Duy Hạnh đến giờ phút này 
gần như có thể đăng ký “thương hiệu” độc 
quyền cho loại hình kịch một m nh này”13. 
Kịch độc diễn là một hình thức kịch đòi hỏi 
sự điêu luyện trong sáng tạo và biểu diễn. 
Người sáng tác - người diễn đồng thời phải 
đặt mình vào trạng thái phân mảnh ý thức, 
xoay chuyển thường xuyên, không ngừng 
tra vấn phản biện với chính mình. Kịch độc 
diễn nâng mâu thuẫn kịch lên tầm khái 
quát cao, và phá vỡ những logic thông 
thường trong tư duy và thói quen sáng tạo 
của kịch hát truyền thống phương Đông. 
Tuy vậy, kịch Lê Duy Hạnh thường biểu 
hiện tốt trong hình thái kịch hát truyền 
thống. Nhiều kịch bản của ông được dàn 
dựng trước nhất ở lĩnh vực kịch hát, tiêu 
biểu như kịch bản Cội nguồn trước khi 
được cải lương hóa, nó đã được giới thiệu 
đến công chúng bằng hình thức sân khấu 
tuồng (do Nhà hát Tuồng Đào Tấn dàn 
dựng, đạo diễn: Hoàng Ngọc Đình). Sở dĩ 
vậy là vì kịch Lê Duy Hạnh giải quyết tốt 
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. 
Giữ được căn cốt truyền thống nhưng vẫn 
mang đậm dấu ấn sáng tạo mới mẻ. 
Câu chuyện truyền thống và hiện đại 
đặt ra trong kịch bản là một nan đề trong 
văn hóa, nhận thức luận của con người thời 
đại mới. Mở cửa, giao lưu quốc tế là con 
đường sống còn trong xu thế thời đời đại 
của đất nước, của toàn dân tộc, nhưng con 
người đương thời phải biết làm chủ bản thân 
bằng những nền tảng vững chắc, hòa nhập 
chứ không hòa tan. Tâm thức truyền thống 
chính là ký ức bản năng trong con người 
Su-dâng, cô gái người Hàn gốc Việt. Bằng 
việc sử dụng một hình mẫu vốn quen thuộc 
trong những kịch bản của mình - Lý Chiêu 
Hoàng - hay đúng hơn là hình mẫu người 
phụ nữ trong bối cảnh chuyển giao thời đại, 
Lê Duy Hạnh vừa khắc họa sâu sắc tâm 
thức truyền thống, vừa chuyển tải những 
ngổn ngang thời đại đặt ra cho con người. 
Đặt “gói” nội dung Cội nguồn trong 
diện mạo cải lương là một lựa chọn phù 
hợp. Sân khấu cải lương ra đời như một 
kịch chủng hiện đại, phát triển dung hợp 
giữa hai dòng văn hóa Đông - Tây, sự kết 
hợp tài tình của yếu tố truyền thống và 
cách tân, giữa bản sắc cội nguồn dân tộc và 
ánh sáng văn minh tân thời. Bản thân thuật 
TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
95 
ngữ “cải lương” đi từ tên gọi của một trào 
lưu tư tưởng chính trị phương Tây 
(réformisme), phát triển thành một tính từ 
biểu thị tính chất hiện đại của loại hình sân 
khấu mới (cải lương = tân kỳ/kim thời), 
rồi được định hình thành một danh từ 
chung chỉ một loại hình sân khấu. Hình 
thức cải lương đã tiếp thêm cho nội dung 
“luận đề” Cội nguồn một minh chứng cho 
khả năng tìm kiếm những chân trời đón đợi 
mới của sân khấu dân tộc giữa thời đại toàn 
cầu hóa. 
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn 
cầu hóa đã trở thành xu hướng khó thể 
khước từ, mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn ý 
thức được tác dụng của việc quảng bá 
thương hiệu quốc gia từ văn hóa, tư tưởng. 
Giao lưu văn chương nghệ thuật, với tư 
cách là một thành tố cấu thành nên văn hóa 
- đã, đang và sẽ là cầu nối hiệu quả trong 
tiến trình giao lưu và phổ biến văn hóa. 
Với việc tiếp nhận cảm hứng về tư tưởng 
sám hối và hòa giải trong thời hậu chiến từ 
tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của nhà 
văn Bang Hyeon-seok, soạn giả Lê Duy 
Hạnh đã sáng tạo nên kịch bản Cội nguồn 
mang nhiều thông điệp nhân văn. Tác 
phẩm là sự nối kết giữa quá khứ và hiện tại, 
nối kết giữa người Việt Nam và người Hàn 
Quốc, nối kết giữa văn học và sân khấu. 
Bài viết phần nào chỉ ra những nối kết này 
trên tinh thần gợi mở và chờ đợi những 
hướng tiếp cận, lý giải sâu sắc hơn trong 
tương lai. 
Chú thích: 
1. Tháng 6/2014, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á 
và Viện Nghiên cứu Hàn Quốc học Trung 
ương (Academy of Korean Studies) phối hợp 
tổ chức Hội thảo quốc tế Nghiên cứu Hàn 
Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương 
hướng; Tháng 5/2016, Trường Đại học Đà Lạt 
(Lâm Đồng) tổ chức Tọa đàm khoa học quốc 
tế So sánh văn học Việt Nam - Hàn Quốc 
cũng thu hút được nhiều nhà khoa học, 
chuyên gia hai nước tham dự. 
2. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt 
 am ở Hàn uốc, 
viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim-
ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam-
o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. 
3. Kể từ năm 2002, Viện Dịch thuật Văn học 
Hàn Quốc tổ chức giải thưởng thường niên 
cho các tác phẩm dịch văn học Hàn và xuất 
bản ngoài lãnh thổ Hàn Quốc ở năm trước. 
4. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc 
Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt 
Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ 
cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, 
TP.HCM, tr.139-140. 
5. Trong bài viết có một số tài liệu tham khảo 
phiên âm thành Bang Hyun Suk, do cách 
phiên âm này gắn tới tên bài viết nên chúng 
tôi giữ nguyên văn. 
6. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là 
mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại 
ien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 
04/9/2016. 
7. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ 
Hàn..., tại 
nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, 
ngày truy cập: 04/9/2016. 
8. Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), Mỹ học, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.229. 
9. Do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, 
Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn. Thành phần 
diễn viên: NSƯT. Thoại Miêu (bà Sáu Bình), 
NSƯT. Vũ Luân (Li Sơn-du), NSƯT. Tú 
Sương (Kim Su-dâng), NSƯT. Trọng Phúc 
(An), Mai Thanh Phượng (Li Hi-sô), Thoại 
An (Thủy), Minh Hòa (Kim Đa-dung). 
10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến 
trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ 
XX”, Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, 
tr.582. 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
96 
11. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm 
hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.240-241. 
12. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb 
Sân khấu, Hà Nội, tr.6-7. 
13. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất 
kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 
Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr.165. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm 
hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
2. Denis Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), 
Mỹ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
3. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb 
Sân khấu, Hà Nội. 
4. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Giao lưu dịch 
thuật văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc 
với vai trò “cửa sổ văn hóa””, Tuần báo Văn 
nghệ TP.HCM, Số 327 (ngày 13/11/2014). 
5. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất 
kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 
Nxb Sân khấu, Hà Nội. 
6. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt 
 am ở Hàn uốc, 
viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim-
ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam-
o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. 
7. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc 
Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt 
Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ 
cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, 
TP.HCM. 
8. Hoàng Nghĩa Nam (2005), Một nhà văn Hàn 
Quốc nổi tiếng với đề tài Việt Nam, tại 
van-han-quoc-noi-tieng-voi-de-tai-viet-nam-
3540.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016. 
9. Nguyễn Thị Thắm chủ biên (2015), Nghiên cứu 
Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương 
hướng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến 
trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ 
XX”, in trong Nhìn lại văn học Việt Nam thế 
kỷ XX, tr.562-590. 
11. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ 
Hàn..., tại 
nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, 
ngày truy cập: 04/9/2016. 
12. Trần Thúc Việt (2009), “Nghiên cứu văn học 
Hàn Quốc tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo 
quốc tế tiếng Hàn Quốc, Trường ĐH Ngoại 
ngữ - ĐHQG Hà Nội, 
56789/1308; ngày truy cập: 11/11/2015. 
13. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), “Sám hối 
và hòa giải trong hai tiểu thuyết Hàn Quốc 
viết về Việt Nam (Đọc Cái bóng của vũ khí - 
무기의 그늘 của Hwang Suk Young và Thời 
gian ăn tôm hùm - 시간 바다 가재 của Bang 
Hyun Suk)”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn 
Hiến số 06 (tháng 02/2015), trang 71-80. 
14. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là 
mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại 
dien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 
04/9/2016. 
Ngày nhận bài: 19/12/2016 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017 

File đính kèm:

  • pdfgiao_luu_van_hoc_va_dich_chuyen_loai_hinh_truong_hop_tieu_th.pdf