Giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành du lịch theo phương pháp dự án Free Walking Tours

TÓM TẮT

Trong bối cảnh nghị quyết số 08-NQ/TW vừa được Bộ Chính trị ban hành về việc phát triển du

lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, nhu cầu quảng bá du lịch nước ta đến với

khách nước ngoài cũng như yêu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao làm việc trong ngành du

lịch trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Dự án Free Walking Tours (FWT) nếu được áp dụng rộng

rãi trong các trường đại học, cơ sở đào tạo ngoại ngữ theo hướng đào tạo du lịch sẽ mang lại một

lợi ích thiết thực cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp trong đào tạo và góp phần phát triển ngành

du lịch của đất nước. Được xây dựng trên tinh thần phi lợi nhuận và xuất phát từ khái niệm thực

tiễn xã hội tham chiếu, dự án FWT đặt sinh viên vào trung tâm của hoạt động nhưng cũng không

phủ nhận vai trò cố vấn, tổ chức ban đầu của giáo viên.

Từ khóa: dạy học theo dự án, dạy và học ngoại ngữ, du lịch, FWT, thực tiễn xã hội tham chiếu

pdf 8 trang phuongnguyen 4120
Bạn đang xem tài liệu "Giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành du lịch theo phương pháp dự án Free Walking Tours", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành du lịch theo phương pháp dự án Free Walking Tours

Giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành du lịch theo phương pháp dự án Free Walking Tours
93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Free Walking Tour (FWT) hay còn được gọi 
là Pay-what-you-want Walking Tour (tạm dịch: 
chuyến tham quan đi bộ miễn phí) là một hình 
thức tham quan du lịch mới. Có lẽ ý tưởng này 
được khai sinh vào năm 2004, tại thành phố Berlin 
(Đức)1. Ngày nay, phong trào FWT đã được hưởng 
ứng mạnh mẽ và trở nên thịnh hành ở nhiều nơi 
trên thế giới, nhờ vào các mạng xã hội. Theo thông 
tin của một chuyên trang về du lịch2, hình thức 
FWT đã được tiến hành ở hơn 40 thành phố trên thế 
giới, nổi tiếng nhất có thể kể đến Amsterdam (Hà 
Lan), Bruxelles (Bỉ), Budapest (Hungary), Madrid 
(Tây Ban Nha), Paris (Pháp), Prague (Cộng Hoà 
NGUYỄN THỨC THÀNH TÍN*; VIÊN THẾ KHÁNH TOÀN**; VŨ TRIẾT MINH***
*Đại học Sư phạm TPHCM, nguyenthuc.thanhtin@hcmue.edu.vn
**Đại học Sư phạm TPHCM, toanvtk@hcmup.edu.vn
***Đại học Sư phạm TPHCM, minhvt@hcmue.edu.vn
Ngày nhận bài: 26/3/2018; ngày sửa chữa: 17/4/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018
GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ CHUYÊN NGÀNH 
DU LỊCH THEO PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN
FREE WALKING TOURS
Séc), Rome, Venise (Ý), Saint-Petersbourg (Nga), 
Varsovie (Ba Lan), Nhưng trên thực tế, hầu như 
các thành phố du lịch nào cũng có hình thức du lịch 
xã hội này, từ những nhóm FWT tự phát của các 
sinh viên đến các hiệp hội có tổ chức bài bản. Tại 
Việt Nam cũng đã xuất hiện các nhóm FWT ở Hà 
Nội, Mai Châu, Huế, Hội An, TP. Hồ Chí Minh, 
Xu hướng này là một cơ hội tốt để người Việt 
Nam nói chung và giới trẻ nước ta nói riêng được 
tiếp xúc nhiều hơn với người nước ngoài và trau 
dồi khả năng ngoại ngữ. FWT, với đầy đủ tính chất 
của một thực tiễn xã hội tham chiếu, hội tụ nhiều 
yếu tố để trở thành một dự án dạy và học ngoại 
ngữ, đặc biệt đối với các cơ sở đào tạo ngoại ngữ 
TÓM TẮT
Trong bối cảnh nghị quyết số 08-NQ/TW vừa được Bộ Chính trị ban hành về việc phát triển du 
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, nhu cầu quảng bá du lịch nước ta đến với 
khách nước ngoài cũng như yêu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao làm việc trong ngành du 
lịch trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Dự án Free Walking Tours (FWT) nếu được áp dụng rộng 
rãi trong các trường đại học, cơ sở đào tạo ngoại ngữ theo hướng đào tạo du lịch sẽ mang lại một 
lợi ích thiết thực cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp trong đào tạo và góp phần phát triển ngành 
du lịch của đất nước. Được xây dựng trên tinh thần phi lợi nhuận và xuất phát từ khái niệm thực 
tiễn xã hội tham chiếu, dự án FWT đặt sinh viên vào trung tâm của hoạt động nhưng cũng không 
phủ nhận vai trò cố vấn, tổ chức ban đầu của giáo viên. 
Từ khóa: dạy học theo dự án, dạy và học ngoại ngữ, du lịch, FWT, thực tiễn xã hội tham chiếu
94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
theo định hướng du lịch, nhằm tăng cường hiệu 
quả đào tạo. Làm sao biến thực tiễn xã hội thành dự 
án dạy học? Các tác nhân đóng vai trò như thế nào 
trong dự án này? Các bước tiến hành ra sao? Đây 
chính là nội dung bài viết muốn đưa ra bàn bạc.
2. FWT LÀ GÌ?
FWT thường được tổ chức ở các khu vực có 
nhiều di tích lịch sử và văn hóa trong các thành phố, 
đô thị. Nó có thể kéo dài khoảng một giờ đồng hồ 
hoặc thậm chí hơn một ngày. Khách du lịch hoặc 
nhóm khách du lịch tham gia hình thức này sẽ đi 
bộ tham quan cùng với một hướng dẫn viên du lịch 
tình nguyện. Vào cuối buổi tham quan, khách du 
lịch sẽ đánh giá chất lượng công việc của hướng 
dẫn viên. FWT là một hoạt động xã hội mang tính 
phi lợi nhuận và là một dịch vụ du lịch miễn phí; 
khách du lịch không phải trả chi phí cho công việc 
hướng dẫn. Tuy nhiên, nếu muốn, khách có thể 
đóng góp một khoản tiền nhỏ cho cơ quan hoặc 
đơn vị tổ chức chuyến tham quan FWT đó. Đóng 
góp của khách cũng có thể được chuyển cho một 
tổ chức từ thiện hoặc cho chính người hướng dẫn 
du lịch đồng hành. Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng 
như ở một vài nơi trên thế giới, một số công ty du 
lịch đã tiến hành lồng ghép các tour du lịch của họ 
với FWT, làm xa rời tinh thần phi lợi nhuận ban 
đầu của hoạt động xã hội này.
Phong trào FWT phát triển mạnh mẽ là do đáp 
ứng được nhu cầu của nhiều bên: khách du lịch, 
thành phố du lịch và hướng dẫn viên tình nguyện. 
Khách du lịch được hưởng hoàn toàn miễn phí 
dịch vụ này bằng cách liên hệ với đơn vị/nhóm tổ 
chức FTW qua thư điện tử hay các trang mạng xã 
hội và cung cấp các thông tin như lựa chọn lộ trình 
tham quan trong số các lộ trình đã được thiết kế 
sẵn, thời gian tham quan, địa điểm xuất phát, ngôn 
ngữ thuyết minh, Đơn vị tổ chức FWT sẽ căn 
cứ vào dữ liệu trên và sắp xếp nhân sự hướng dẫn 
phù hợp. Khách du lịch sẽ đi bộ tham quan theo lộ 
trình định sẵn cùng với hướng dẫn viên, được nghe 
thuyết minh về các địa điểm du lịch, lịch sử, văn 
hóa của nơi này, tiếp xúc với người địa phương, 
Qua đó, khách du lịch sẽ hiểu rõ hơn những nếp 
sinh hoạt, những phong tục tập quán của đất nước, 
con người, thu thập nhiều trải nghiệm du lịch. Đối 
với một thành phố du lịch, đây là cơ hội để quảng 
bá một cách hữu hiệu hình ảnh tích cực, con người 
thân thiện, hiếu khách của đất nước mình cho thế 
giới, đồng thời gián tiếp giáo dục tính nhân văn, 
tư tưởng phi vụ lợi, biết chia sẻ cho người dân, 
đặc biệt là cho giới trẻ. Còn đối với người hướng 
dẫn tình nguyện, việc dẫn dắt khách nước ngoài 
tham quan du lịch sẽ giúp họ trau dồi ngoại ngữ 
cũng như cơ hội tiếp xúc với bạn bè năm châu, 
từ đó rèn luyện sự dạn dĩ, tự tin trong giao tiếp. 
Ngoài ra, đây còn là cơ hội để các bạn trẻ, thông 
qua những thông tin chính xác, không sai lệch mà 
mình truyền tải cho du khách, tự rèn luyện bản lĩnh 
chính trị vững vàng cũng như đóng góp tích cực 
vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thông 
qua tương tác với người nước ngoài, người dân địa 
phương nói chung và người hướng dẫn nói riêng 
cũng học hỏi được nhiều kiến thức và làm giàu vốn 
sống cho bản thân.
Từ lợi ích trên, có thể thấy FWT là một thực 
tiễn xã hội tham chiếu3 để áp dụng cho việc học 
ngoại ngữ tiên tiến, đặt người học vào trung tâm 
của quá trình dạy và học.
3. FWT LÀ MỘT THỰC TIỄN XÃ HỘI THAM 
CHIẾU CHO VIỆC DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
Khái niệm “thực tiễn xã hội tham chiếu” được 
Martinand (1989) đề cập đầu tiên, nhằm chỉ tất cả 
những tình huống xã hội mà người học có thể tham 
chiếu để mang lại ý nghĩa cho điều mình học. Còn 
Develay (1992) định nghĩa khái niệm này là một 
hoạt động xã hội có thể được dùng làm tham chiếu 
cho những hoạt động của nhà trường. Như chính 
tên gọi của nó, một thực tiễn xã hội phải mang đủ 
ba tính chất:
Tính thực tiễn: các hoạt động nhằm làm chuyển 
biến tự nhiên hoặc con người;
Tính xã hội: các hoạt động này liên quan đến 
mọi lĩnh vực xã hội chứ không nhắm vào những 
vai trò cá nhân;
Tính tham chiếu: bản chất của những hoạt 
động xã hội vốn không mang tính sư phạm nhưng 
là tham chiếu cho các hoạt động sư phạm.
95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Thực tiễn xã hội tham chiếu đóng vai trò quan 
trọng trong việc đề nghị, đánh giá phê bình và phân 
tích nội dung giảng dạy. Thật vậy, xây dựng nội 
dung giảng dạy không nên chỉ nhắm đến mục tiêu 
truyền đạt kiến thức hàn lâm, mà còn phải dựa vào 
thực tế, gần gũi với thực tế và liên hệ với cuộc sống.
FWT, với mô hình như đã trình bày, là một thực 
tiễn xã hội thú vị có thể được vận dụng để người 
học thực hành, trau dồi ngoại ngữ. Hoạt động này 
tận dụng nhu cầu khám phá đất nước – con người 
của du khách để tạo cơ hội cho người Việt Nam nói 
chung và người học ngoại ngữ nói riêng tiếp xúc 
với người nước ngoài. Hoạt động này đặc biệt thích 
hợp đối với sinh viên ngành du lịch, bởi ngoài tác 
dụng tăng cường vốn ngoại ngữ, nó còn giúp sinh 
viên áp dụng kiến thức nghiệp vụ du lịch được học 
ở trường lớp vào thực tế – thực địa và rèn luyện kỹ 
năng cần thiết cho nghề nghiệp sau này của mình 
như giao tiếp (ngôn ngữ và phi ngôn ngữ), xử lý 
tình huống, thuyết trình, thuyết minh Trong vai 
trò của một hướng dẫn viên du lịch tự nguyện, sinh 
viên có nhiệm vụ chuyển tải đến du khách nước 
ngoài những thông tin chính xác về địa danh, di 
tích và con người của địa phương, tạo cho họ sự 
quan tâm, thích thú và hiểu rõ về đất nước. Để làm 
được điều này, sinh viên đã phải có quá trình tìm 
hiểu, tra cứu thông qua sách vở, các phương tiện 
truyền thông, sinh viên sau đó sẽ phải vận dụng 
khả năng ngoại ngữ để thuyết minh, giới thiệu, làm 
cho du khách hiểu được các giá trị văn hóa của dân 
tộc mình. Bản thân sinh viên cũng phải lắng nghe, 
trả lời các thắc mắc của du khách, qua đó đối chiếu 
so sánh văn hóa, đồng thời hiểu được yêu cầu và 
mong muốn của khách nước ngoài, điều chỉnh 
cử chỉ, thái độ bản thân và làm quen với thực tế 
nghề nghiệp. Ngoài ra, sinh viên ngành du lịch và 
người học ngoại ngữ nói chung sẽ tìm thấy niềm 
hứng thú trong học tập vì nhận thấy được tính hữu 
ích của những kiến thức mà mình tích lũy được ở 
trường. Đó cũng chính là ý nghĩa quan trọng của 
việc ứng dụng một thực tế xã hội tham chiếu như 
FWT vào quá trình dạy và học.
Trước những lợi ích đó, FWT cần được tận 
dụng như một dự án dạy học, với kế hoạch và 
phương thức cụ thể, dành cho đối tượng sinh viên 
ngành ngoại ngữ và du lịch.
4. DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀ CÁCH 
TIẾP CẬN BẰNG HÀNH ĐỘNG
Việc dạy-học ngoại ngữ đã trải qua nhiều thế 
hệ phương pháp và cách tiếp cận. Ngày nay, nhiều 
nước trên thế giới đã áp dụng các phương pháp 
dạy ngoại ngữ tiên tiến, lấy người học làm trung 
tâm. Nền giáo dục Việt Nam cũng đang thay đổi 
phương pháp giảng dạy, nhằm hạn chế những 
nhược điểm của phương pháp dạy học truyền 
thống, vốn coi trọng vai trò của người dạy. Hai 
trong số các khái niệm được nhắc đến nhiều trong 
lĩnh vực didactic dạy ngoại ngữ là cách tiếp cận 
bằng hành động (approche actionnelle) và dạy học 
theo dự án (pédagogie de projet).
4.1. Dạy học theo dự án 
Dạy học theo dự án đã được biết tới từ đầu thế 
kỷ 20, bắt đầu ở các môn thực học thực hành, trước 
khi được sử dụng rộng rãi hơn ở các môn học khác. 
Theo Ocde (2014), phương pháp này xuất phát từ 
nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên 
cứu tâm lý – giáo dục phương Tây, cụ thể là: 
Dewey (triết gia người Mỹ): người khởi xướng 
các phương pháp dạy học tích cực, với học thuyết 
nổi tiếng “học qua làm việc” (learning by doing).
Kilpatrick (nhà sư phạm người Mỹ): người đưa 
ra ý tưởng “học dựa trên dự án” (project-based 
learning) thông qua bài nghiên cứu The project 
Method.
Decroly (nhà tâm lý – sự phạm người Bỉ): 
người đã thiết lập và nghiên cứu các nguyên tắc về 
sư phạm và tiếp cận tâm lý trẻ, cho rằng kiến thức 
được tích hợp khi các trẻ con tự mình phát hiện và 
diễn đạt.
Freinet (giảng viên người Pháp): người chủ 
trương làm cho người học chủ động đối với việc 
học tập thông qua các hoạt động trải nghiệm, hợp 
tác, cụ thể và hữu ích.
96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Piaget (nhà tâm lý học người Thụy Sĩ): người 
xây dựng nền tảng lý thuyết dự án sư phạm dựa trên 
cơ sở xây dựng kiến thức thông qua hành động.
Hiện tại, có nhiều quan niệm về dạy học dự án, 
đơn cử là định nghĩa của Trịnh Văn Biều (2001, tr. 
3-12) trong đó có nhiều yếu tố liên quan mật thiết 
với nhau, góp phần vào sự thành công của dạy 
học dự án, đó là người học, giảng viên, nội dung, 
phương tiện dạy học, môi trường và thời gian thực 
hiện dự án,:
Dạy học dự án là một hình thức dạy học hay 
phương pháp dạy học phức hợp, trong đó, dưới 
sự hướng dẫn của giảng viên, người học tiếp thu 
kiến thức và hình thành kỹ năng thông qua việc 
giải quyết một bài tập tình huống (dự án) có thật 
trong đời sống, theo sát chương trình học, có sự 
kết hợp giữa lý thuyết với thực hành và tạo ra các 
sản phẩm cụ thể.
Phương pháp dạy học theo dự án dựa trên động 
cơ học tập tích cực, đó là tạo ra một sản phẩm cụ 
thể, thiết thực, đem đến sự hứng thú cho người 
học bởi tính thực tế của dự án và mang lại ý nghĩa 
cho việc thực hiện dự án và học tập. Nó đặt người 
học vào trung tâm của tiến trình dạy và học, trong 
đó người học chủ động tìm đến kiến thức. Ngày 
nay, dạy học theo dự án gặp nhiều thuận lợi bởi 
công nghệ và kỹ thuật càng ngày càng phát triển, 
tạo điều kiện cho người học tiếp cận ngày càng dễ 
dàng thông tin và kiến thức.
Tuy nhiên, áp dụng dạy học bằng dự án đòi hỏi 
người giảng viên phải dự kiến trước những giai 
đoạn của dự án, sao cho người học được tham gia 
vào quá trình hoạch định, thiết kế, tổ chức dự án, 
chứ không chỉ đơn thuần là thực thi những công việc 
do giảng viên đề ra. Ngoài ra, giảng viên cần đề ra 
các công việc trong dự án, liên kết chúng với nhau, 
đồng thời xác định những kỹ năng chuyên ngành 
và những kỹ năng mềm cần thiết cho việc thực 
hiện dự án, từ đó dự kiến đánh giá những kỹ năng 
này trong quá trình thực hiện dự án và ở cuối dự án.
4.2. Cách tiếp cận bằng hành động
Khung tham chiếu châu Âu đã đổi mới cách 
nhìn về kỹ năng ngôn ngữ (khái niệm “nhiệm vụ”, 
“tác nhân xã hội”, tách hoạt động giao tiếp bằng 
ngôn ngữ ra khỏi các hoạt động giao tiếp khác,) 
và đưa ra một số công cụ mới (đưa các yếu tố ngôn 
ngữ – xã hội, ngữ dụng, ngôn bản, vào đánh giá 
các hoạt động giao tiếp) nhằm đổi mới việc dạy/
học ngoại ngữ. Theo cách nhìn mới này, người 
học giờ đây được xem như là một tác nhân xã hội 
(acteur social) và việc học ngoại ngữ là một sự 
thích nghi của tác nhân này đối hoàn cảnh sống 
và làm việc. Trong cách tiếp cận bằng hành động, 
người học phải hoàn thành các nhiệm vụ (tâches) 
thuộc một số lĩnh vực nhất định trong xã hội. Rõ 
ràng, tinh thần mới này đã thay đổi việc học ngoại 
ngữ, chuyển từ thực hành các kỹ năng giao tiếp 
(nghe – nói – đọc – viết) sang thực hiện hành động, 
trong đó giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ là một phần 
của hành động.
Để làm được điều này, người học phải huy động:
Kiến thức, hiểu biết 
Kỹ năng
Kỹ năng xử sự, giao tiếp trong xã hội 
Khả năng học hỏi 
Đây là cả một sự thay đổi lớn về quan niệm về 
dạy học ngoại ngữ, giúp cho quá trình này có thêm 
ý nghĩa (học ngoại ngữ không phải là mục đích 
cuối cùng, học ngoại ngữ để phục vụ cho công 
việc...), tăng cường khả năng kết hợp lý thuyết 
với thực tiễn, nhà trường với xã hội, do đó, việc 
trau dồi ngoại ngữ không chỉ bó hẹp trong phạm 
vi lớp học mà còn hiện diện ở ngoài xã hội, làm 
cho ngôn ngữ được học có tính chân thực cao, 
so với thứ ngôn ngữ chỉ được sử dụng trong lớp 
học. Ngoài ra, dạy học ngoại ngữ theo cách tiếp 
cận bằng hành động mang lại nhiều lợi ích cho 
người học, giúp họ có cơ hội va chạm với thực 
tế cuộc sống, rèn luyện nhiều kỹ năng khác, tích 
lũy kinh nghiệm cho các hoạt động khác sau này.
Tuy nhiên, theo Bento (2013), nhiệm vụ được 
giao cho người học hoàn thành trong khuôn khổ 
dạy học theo cách tiếp cận bằng hành động phải 
thỏa mãn một số tiêu chí:
Các nhiệm vụ không chỉ đơn thuần nhắm vào 
các hoạt động lời nói (tâches langagières) mà còn 
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
phải tính đến các hoạt động ngoài lời nói (tâches 
extralangagières), giúp phát triển chiến thuật tư 
duy của người học ở những tình huống ngày càng 
phức tạp hơn.
Các nhiệm vụ phải được thực hiện theo hướng 
giải quyết một vấn đề theo nghĩa rộng, khiến người 
học phải huy động những hiểu biết và kỹ năng có 
sẵn của mình, mặt khác cho phép lĩnh hội những 
hiểu biết và kỹ năng mới.
Các nhiệm vụ nên hướng theo một tư duy giúp 
người học hình thành và suy ngẫm về ngôn ngữ 
đang học.
Các nhiệm vụ phải có bản chất là một hoạt 
động xã hội, với đầy đủ các tình huống của đời 
sống thực tế, có mục tiêu rõ ràng, phương thức 
thực hiện khả thi, sử dụng các nguồn tài nguyên 
thật và có sẵn và có kết quả mong đợi được xác 
định trước, khả đo lường.
5. ÁP DỤNG DỰ ÁN FWT Ở CÁC CƠ SỞ 
ĐÀO TẠO 
Dự án FWT có thể được tiến hành ở các trường 
đại học, đặc biệt thích hợp đối với các khoa, bộ 
môn ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, 
tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nhật,), có định 
hướng đào tạo về du lịch, vì các học phần ngoại 
ngữ và chuyên ngành du lịch hoàn toàn thích hợp 
với phương pháp dạy học theo dự án. Cụ thể, dự 
án này liên quan đến nhiều học phần trong chương 
trình đào tạo của các khoa, bộ môn trên:
Các học phần ngoại ngữ (lý thuyết tiếng và 
thực hành tiếng): sử dụng ngoại ngữ ở tất cả các 
kỹ năng nghe – nói – đọc – viết (nghiên cứu tài liệu 
bằng tiếng nước ngoài, trao đổi thư tín và giao tiếp 
trực tiếp với du khách nước ngoài)
Các học phần liên quan đến văn hóa – văn 
minh – đất nước học: kiến thức về đất nước con 
người Việt Nam và về văn hóa thuộc quốc gia của 
khách du lịch
Các học phần chuyên ngành du lịch: thiết kế 
tour du lịch, truyền thông du lịch, điều hành tour, 
kỹ năng hướng dẫn du lịch, quản trị dự án du lịch,
Dự án FWT cũng phù hợp với tinh thần đổi 
mới dạy ngoại ngữ theo cách tiếp cận bằng hành 
động, kết hợp lý thuyết với thực tiễn. Các nhiệm 
vụ trong dự án FWT không là các hoạt động lời 
nói mà còn đòi hỏi người học phải vận dụng đến 
các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đã được đào 
tạo hoặc cần phải được tích lũy như thiết kế, quản 
trị, sáng tạo, hướng dẫn, trong những tình huống 
nghề nghiệp thật sự. Quả vậy, dự án là một hoạt 
động xã hội, được xác định về mặt phương thức, 
mục tiêu và kết quả, góp phần hình thành và phát 
triển ở người học những tư duy về ngôn ngữ và về 
các kiến thức chuyên ngành. Sinh viên tham gia dự 
án có động cơ học tập tích cực, đó là tạo ra một sản 
phẩm du lịch, tổ chức và cung cấp dịch vụ hướng 
dẫn cho khách du lịch nước ngoài, từ đó nảy sinh 
hứng thú, vì thấy mình góp phần trực tiếp vào một 
hoạt động có ý nghĩa về mặt xã hội và có thật trong 
đời sống, đó là thiết kế dự án và tham gia vào việc 
vận hành của dự án đó.
6. VAI TRÒ CỦA CÁC TÁC NHÂN CHÍNH 
TRONG FWT
Trong dự án dạy học với FWT, các sinh viên 
thật sự đóng vai trò trung tâm, nhưng không hoạt 
động độc lập mà luôn hợp tác với giảng viên và 
các sinh viên khác để phối hợp tất cả hoạt động 
một cách xuyên suốt, từ khâu khảo sát, thiết kế 
tour, quảng bá trên các phương tiện truyền thông 
ban đầu đến khâu nhận yêu cầu của khách, xử lý 
yêu cầu, phân công hướng dẫn khách, hướng dẫn 
du lịch và đánh giá, Mỗi sinh viên sẽ thuộc một 
hoặc nhiều bộ phận với các vai trò và nhiệm vụ 
khác nhau, được xác định trước, nhằm đảm bảo 
tất cả các khâu trên. Sinh viên không chỉ tiến hành 
công việc mình được giao mà còn sáng tạo, tìm ra 
phương thức, biện pháp hiệu quả hoàn thành vai 
trò của mình và giải quyết các khó khăn gặp phải. 
Sinh viên cũng có nhiệm vụ lĩnh hội các kiến thức 
và kinh nghiệm thông qua việc trực tiếp tiến hành 
công việc, đóng góp ý kiến cho người khác và tiếp 
thu ý kiến từ giảng viên, các sinh viên khác và từ 
khách du lịch. Công tác đánh giá cũng được bản 
thân các sinh viên đảm nhiệm. Sinh viên tự đánh 
giá về kết quả công việc, và về sự phát triển về 
tư duy, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của bản 
thân, Đồng thời, các sinh viên đánh giá lẫn nhau 
98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
trong khuôn khổ dự án dựa trên hiệu quả tham 
gia vào công việc, thái độ hợp tác trong làm việc 
nhóm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ 
Giảng viên cũng có vai trò rất quan trọng trong 
suốt quá trình dạy học theo dự án FWT. Giảng viên 
đóng vai trò đề xuất, định hướng, tổ chức, cố vấn, 
giúp đỡ các sinh viên. Đầu tiên, giảng viên phải là 
người xác định các kỹ năng và mục tiêu cần nhắm 
đến trong dự án. Sau đó, giảng viên cùng với sinh 
viên xây dựng dự án, dự kiến các yếu tố bảo đảm 
cho dự án (nguồn lực, thời gian, kinh phí,). Tiếp 
theo, giảng viên lựa chọn và phân công nhiệm vụ 
cho từng sinh viên theo chức năng, sở thích của 
mỗi người và phù hợp với mục tiêu nhắm đến. 
Trong suốt quá trình dự án, giảng viên luôn phối 
hợp với sinh viên, hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát và 
chấn chỉnh khi cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi 
cho sinh viên triển khai dự án; đồng thời quan sát 
và lắng nghe sinh viên để cải tiến hoặc điều chỉnh 
dự án. Cuối cùng, giảng viên đóng vai trò là một 
kênh đánh giá sinh viên, cũng dựa trên các tiêu chí 
về thái độ làm việc, mức độ tham gia công việc, sự 
tiến bộ về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp.
Cuối cùng, khách du lịch nước ngoài – đối 
tượng hưởng lợi bên ngoài của dự án – cũng là 
một tác nhân quan trọng. Với nhu cầu tìm hiểu 
văn hóa – con người và thưởng lãm đất nước Việt 
Nam, họ sẽ liên hệ với nhóm FWT của trường đại 
học thông qua các phương tiện liên lạc (e-mail, 
mạng facebook, trang website của nhóm, ) để 
thống nhất địa điểm và hình thức tiến hành. Kết 
thúc chuyến tham quan, họ sẽ đóng góp ý kiến, 
mức độ hài lòng và nhận xét về dịch vụ vừa được 
thụ hưởng. Việc đánh giá này được tiến hành 
thông qua bảng đánh giá (phát sau khi tham quan 
hoặc trực tuyến), theo các tiêu chí khác nhau thuộc 
các mảng thiết kế tour, truyền thông, quản lý điều 
hành và hướng dẫn tour. Đây là một kênh đánh giá 
khách quan, và mang tính thực tế cao, vô cùng cần 
thiết trong đào tạo chuyên nghiệp. 
 7. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH DỰ ÁN FWT
Bước 1: Đề xuất dự án dạy học FWT
Giảng viên hoạch định các bước thực hiện đề án.
Giảng viên xác định kiến thức cần có và cần 
đạt, gắn với các học phần của chương trình, xác 
định các kỹ năng nghề nghiệp, các kỹ năng mềm 
và các kỹ năng khác.
Giảng viên dự kiến các thuận lợi và khó khăn 
của dự án này.
Đây là một dự án tương đối lớn, liên quan 
đến nhiều học phần. Vì vậy, giảng viên nên thành 
lập nhóm giảng viên cùng hợp tác, phối hợp nhịp 
nhàng giữa các môn học.
Bước 2: Xây dựng đề cương dự án
Thành lập nhóm xây dựng đề án bao gồm giảng 
viên và sinh viên.
Cùng với sự hướng dẫn của giảng viên, các sinh 
viên xác định mục tiêu, cách thức tiến hành dự án, 
các đầu việc cần thực hiện, thời điểm tiến hành, kinh 
phí, phương tiện thực hiện, kết quả mong đợi
Bước 3: Thành lập nhóm hoạt động FWT
Giảng viên và sinh viên cùng nhau xác định 
nhiệm vụ của các nhóm hoạt động FWT:
Nhóm thiết kế tour: khảo sát thực tế tại các địa 
điểm du lịch hoặc các địa danh có tiềm năng du 
lịch trong địa phương, thiết kế lộ trình tham quan, 
tính toán thời gian và các yếu tố khác, vận hành 
thử nghiệm tour.
Nhóm truyền thông: làm cho khách du lịch tự 
do biết đến nhóm FWT của trường, quảng bá hình 
ảnh và hoạt động của nhóm thông qua các kênh 
thông tin (website, facebook, blog,), tiếp nhận 
và xử lý đánh giá của khách du lịch.
Nhóm quản lý điều hành: tiếp nhận yêu cầu 
hướng dẫn tham quan của khách du lịch, xử lý yêu 
cầu, hồi âm cho khách du lịch, phân công sinh viên 
thực hiện hướng dẫn, xử lý các phát sinh trong 
dịch vụ.
Nhóm hướng dẫn: trực tiếp gặp gỡ và hướng 
dẫn du lịch cho khách, xử lý tình huống khó khăn.
99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Giảng viên và sinh viên cùng nhau xác định 
các kiến thức, kỹ năng cần thiết của từng nhóm 
hoạt động.
Giảng viên tổ chức tuyển chọn sinh viên vào 
các nhóm hoạt động bằng hình thức kiểm tra trình 
độ ngoại ngữ và phỏng vấn. Dựa vào kết quả tuyển 
chọn này đồng thời dựa trên khả năng và sở thích 
của từng sinh viên, giảng viên phân công sinh viên 
vào các nhóm thích hợp. Một sinh viên có thể tham 
gia vào công việc của một hoặc nhiều nhóm.
Bước 4: Tổ chức đào tạo
Giảng viên hỗ trợ ban đầu cho sinh viên qua 
một số buổi chuyên đề về các kiến thức cơ bản và 
cần thiết cho dự án.
Nhóm dự án FWT cũng có thể tận dụng các 
mối quan hệ sẵn có của trường, của khoa hoặc của 
cá nhân với các mạng lưới các công ty lữ hành, 
các đối tác, các cựu sinh viên hoạt động trong lĩnh 
vực du lịch để mời chuyên gia đến chia sẻ các kinh 
nghiệm với sinh viên.
Bước 5: Hoạt động FWT
Các nhóm hoạt động được phân công nhiệm 
vụ; mỗi nhóm phân công công tác cho các thành 
viên trong nhóm.
Các nhóm đi vào hoạt động.
Bước 6: Thu thập kết quả và đánh giá sau 
dự án
Giảng viên và sinh viên tổng kết hoạt động của 
dự án, rút kinh nghiệm cho những đợt dự án tiếp theo.
Các sinh viên viết báo cáo cá nhân về công tác, 
kết quả đạt được, kinh nghiệp tích lũy,
Mỗi nhóm hoạt động trình bày kết quả làm 
việc trước các giảng viên và các nhóm khác.
Các sinh viên tự đánh giá bản thân, các nhóm 
đánh giá các thành viên trong nhóm, giảng viên 
đánh giá các nhóm và các sinh viên. Tất cả việc 
đánh giá này đều dựa trên những tiêu chí đã xác 
định từ trước.
Thu thập, tổng kết các đánh giá của khách du lịch.
Bước 7: Chuyển giao công nghệ
Các sinh viên bàn giao dự án cho các sinh viên 
khóa dưới, nhằm đảo bảo dự án sẽ vẫn tiếp tục 
hoạt động.
Các sinh viên khóa trên có nhiệm vụ hỗ trợ, 
hướng dẫn các sinh viên khóa sau trong quá trình 
vận hành.
8. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
Theo thống kê từ Tổng cục Du lịch Việt Nam4, 
trực thuộc Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, 
khách quốc tế đến nước ta ở những năm gần đây 
luôn có chiều hướng tăng, trong đó một bộ phận 
không nhỏ là khách lẻ, du lịch tự túc. Cụ thể, năm 
2017, nước ta đã đón 12.922.151 lượt khách nước 
ngoài, tăng 29,1% so với năm 2016, với các quốc 
tịch như sau :
Trung Quốc – Đài Loan – Hongkong : 
4.672.206 lượt (chiếm 36,16%)
Hàn Quốc: 2.415.245 lượt (18,69%)
Mỹ – Canada – Anh – Úc: 1.406.334 lượt 
(10,88%)
Nhật: 798.119 lượt (6,18%)
Nga: 574.164 lượt (4.44%)
Pháp – Bỉ – Thụy Sĩ: 317.636 lượt (2,46%)
Đây là một thuận lợi cho du lịch Việt Nam nói 
chung và một tiềm năng đáng kể cho việc thực hiện 
dự án FWT trong trường đại học nói riêng. Tuy 
nhiên, dự án cũng gặp một số khó khăn trong việc 
tổ chức sao cho tương thích với cấu trúc chương 
trình đào tạo và thời gian học tập của sinh viên. 
Ngoài ra, dự án cũng vấp phải một số trở ngại do 
đa số các sinh viên ngoại ngữ ở các trường đại 
học đều chưa có thẻ hành nghề hướng dẫn viên 
nên vẫn chưa thể thực hiện thuyết minh tại điểm 
cho khách du lịch nước ngoài theo quy định mới 
nhất của Tổng cục du lịch Việt Nam năm 2017. Do 
đó, tạm thời, các hướng dẫn viên trong khuôn khổ 
FWT thường chỉ có thể dẫn khách du lịch đến các 
100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
địa điểm du lịch và thuyết minh ở bên ngoài các 
khu tham quan.
9. KẾT LUẬN
FWT thật sự mang lại nhiều lợi ích lớn cho dạy 
học theo dự án cho các khoa ngoại ngữ có hướng 
đào tạo du lịch, cung cấp môi trường rèn luyện lý 
tưởng cho sinh viên. Theo đó, sinh viên có cơ hội 
trau dồi ngoại ngữ với người nước ngoài, kết hợp 
với luyện tập nghiệp vụ, góp phần gắn đào tạo với 
thực tiễn, nhà trường và xã hội. Dự án này còn có 
ưu điểm là tồn tại lâu dài, do có thể được chuyển 
giao từ lứa sinh viên trên cho khóa sinh viên tiếp 
theo và do du lịch là một ngành kinh tế hoạt động 
quanh năm ở Việt Nam. 
Cuối cùng, dự án FWT trong trường đại học 
góp phần quảng bá ngành du lịch nước ta, nâng 
cao hình ảnh của người nước ngoài về con người 
Việt Nam, về tính hiếu khách của dân tộc, về tính 
năng động, tinh thần cầu tiến, làm việc không vụ 
lợi của sinh viên Việt Nam nói riêng./.
Chú thích:
1. Theo www.freetoursnetwork.com
2. www.priceoftravel.com
3. Dịch từ “pratique sociale de référence”
4. 
Tài liệu tham khảo:
Trịnh Văn Biều và tgk (2011), “Dạy học dự án – từ 
lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Khoa học ĐHSP 
TPHCM, số 28, Đại học Sư phạm TPHCM, 
tr.3-12.
Bento M. (2013), Regards théoriques sur la 
perspective actionnelle dans l’enseignement 
des langues en France, Éducation et 
didactique, truy cập ngày 25/3/2018, <http://
educationdidactique.revues.org/1404>.
Develay M. (1992), De l’apprentissage à 
l’enseignement, ESF, Paris.
Martinand J.-P. (1989), Pratiques de référence, 
transposition didactique et savoirs 
professionnels en sciences techniques, Les 
sciences de l’éducation, pour l’ère nouvelle, 
số 2, tr.23-29.
Ocde (2014), La recherche et l’innovation 
dans l’enseignement. Environnements 
pédagogiques et pratiques novatrices, 
OCDE.
A STUDY ON TEACHING ENGLISH FOR TOURISM VIA FREE WALKING TOURS PROJECT
NGUYEN THUC THANH TIN, VIEN THE KHANH TOAN, VU TRIET MINH
Abstract: In the context of the Resolution No. 08-NQ/TW issued by the Politburo on the making of 
tourism a key economic sector of Vietnam, the need to promote Vietnam’s tourism to foreigners as 
well as the demand for high quality human resources working in the tourism industry have become 
more urgent than ever. Free Walking Tours (FWT) learning programs, if widely applied in tourism-
oriented training programs, will provide a practical benefit for enhancing professionalism in training 
and contribute to the development of the country’s tourism industry. Built on the not-for-profit spirit 
and derived from the notion of social reference, the FWT project places students at the center of the 
activity but does not negate the role of mentor and organisators of teachers.
Keywords: project-based learning, teaching and learning foreign languages, tourism, FWT, social 
practices of reference
Received: 26/3/2018; Revised: 17/4/2018; Accepted for publication: 20/6/2018

File đính kèm:

  • pdfgiang_day_ngoai_ngu_chuyen_nganh_du_lich_theo_phuong_phap_du.pdf