Giám sát an toàn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam

1.1. Kiểm tra các tiêu chuẩn, điều

kiện về tài chính cho hoạt động

KDBH

Pháp luật về KDBH VN hiện

nay đã cụ thể hoá điều kiện tối

thiểu về mặt tài chính cho việc cấp

giấy phép, đó là: số vốn điều lệ đã

góp hoặc vốn được cấp không thấp

hơn mức vốn pháp định theo quy

định của Chính phủ (Hộp 1).

1.2. Quản lý, giám sát trong quá

trình hoạt động

1.2.1. Khả năng thanh toán

Theo pháp luật về KDBH tại

VN hiện nay, một DNBH được coi

là đủ khả năng thanh toán khi đã

trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp

vụ bảo hiểm và có biên khả năng

thanh toán không thấp hơn biên

khả năng thanh toán tối thiểu.

Biên khả năng thanh toán là khoản

chênh lệch giữa giá trị tài sản và các

khoản nợ phải trả của DNBH tại

thời điểm xác định khả năng thanh

toán. Theo Thông tư 125/2012-

BTC, khi xác định biên thanh toán,

tùy thuộc vào tính thanh khoản của

từng loại tài sản hay khoản phải

thu mà được tính toàn bộ hay loại

trừ một phần (theo tỷ lệ %) hoặc

loại trừ toàn bộ giá trị hạch toán.

Biên khả năng thanh toán tối thiểu

của các DNBH VN hiện nay được

quy định chi tiết tại Điều 15 TT

125/2012 cho từng lĩnh vực hoạt

động của các DNBH (Hộp 2)

pdf 9 trang phuongnguyen 8620
Bạn đang xem tài liệu "Giám sát an toàn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giám sát an toàn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam

Giám sát an toàn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
42
1. nội dung giám sát tài chính 
đối với các DnBH trong hệ thống 
thể chế hiện hành
Theo Điều 120, Chương VII, 
Luật KDBH, nội dung quản lý, 
giám sát của Nhà nước đối với 
TTBH bao gồm khá nhiều khía 
cạnh, trong đó quy định rõ: “d) Áp 
dụng các biện pháp cần thiết để 
DNBH bảo đảm các yêu cầu về tài 
chính và thực hiện cam kết với bên 
mua bảo hiểm”1.
Những nội dung chính của giám 
sát tài chính của Nhà nước đối với 
DNBH bảo hiểm là giám sát hoạt 
1 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010
Hộp 1: Mức vốn pháp định theo pháp luật hiện hành
(1) DNBH phi nhân thọ: 300 tỷ đồng; 
(2) Doanh nghiệp chỉ kinh doanh loại hình bảo hiểm sức khỏe: 300 tỷ đồng; 
(3) DNKDBH nhân thọ: 600 tỷ đồng; 
(4) Chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài: 200 tỷ đồng;
(5) Doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm: Kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ, 
tái bảo hiểm sức khỏe hoặc cả hai loại hình tái bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo hiểm 
sức khỏe: 400 tỷ đồng; Kinh doanh tái bảo hiểm nhân thọ hoặc cả hai loại hình tái 
bảo hiểm nhân thọ và tái bảo hiểm sức khỏe: 700 tỷ đồng; Kinh doanh cả 3 loại hình 
tái bảo hiểm nhân thọ, tái bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo hiểm sức khỏe: 1.100 tỷ 
đồng;
(6) Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: 4 tỷ đồng. Đối với trường hợp kinh doanh đồng 
thời cả môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo 
hiểm phải bổ sung vốn điều lệ đã góp cao hơn mức vốn pháp định là 4 tỷ đồng.
(7) Trường hợp muốn mở rộng nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động ngoài các nội 
dung, phạm vi và địa bàn hoạt động quy định, các DNBH phải bổ sung vốn điều lệ 
cao hơn mức vốn pháp định tùy trường hợp là 10 tỷ đồng, 50 tỷ đồng,.;
Giám sát an toàn tài chính đối với các 
doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam
PGS.TS. HoànG Trần Hậu
Trường Đại học Tài chính – Marketing
THS. nGuyễn TIến HÙnG 
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Sau khi Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) có hiệu lực (01/4/2001), thị trường bảo hiểm VN đã thực sự khởi sắc, phát huy vai trò “lá chắn kinh tế” trong việc góp phần giảm thiểu rủi ro trong sản xuất kinh 
doanh và đời sống xã hội, cải thiện môi trường đầu tư, từng bước đáp ứng được 
yêu cầu phát triển và ổn định nền kinh tế, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy 
nhiên, hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) trong thời gian qua 
vẫn tồn tại những hạn chế nhất định như quy mô thị tr ường còn nhỏ, vốn kinh 
doanh của các DNBH còn hạn chế, khả năng khai thác và mở rộng thị tr ường 
còn yếu, hoạt động của các DNBH trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty 
(TĐKT,TCT) còn tiềm tàng nhiều rủi ro. Bài viết này trình bày những phân tích 
về thể chế của Nhà nước liên quan đến hoạt động giám sát an toàn tài chính đối 
với các DNBH ở VN với mục đích đưa ra một số gợi ý về chính sách đối với cơ 
quan quản lý nhà nước về bảo hiểm.
Từ khóa: Luật Kinh doanh bảo hiểm, thị trường bảo hiểm VN, doanh 
nghiệp bảo hiểm, hoạt động giám sát, an toàn tài chính.
Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
43
động của DNBH từ trước khi bắt 
đầu hoạt động, trong quá trình hoạt 
động, chấm dứt hoạt động của 
doanh nghiệp và xử lý các vi phạm, 
gồm:
1.1. Kiểm tra các tiêu chuẩn, điều 
kiện về tài chính cho hoạt động 
KDBH
Pháp luật về KDBH VN hiện 
nay đã cụ thể hoá điều kiện tối 
thiểu về mặt tài chính cho việc cấp 
giấy phép, đó là: số vốn điều lệ đã 
góp hoặc vốn được cấp không thấp 
hơn mức vốn pháp định theo quy 
định của Chính phủ (Hộp 1). 
1.2. Quản lý, giám sát trong quá 
trình hoạt động
1.2.1. Khả năng thanh toán
Theo pháp luật về KDBH tại 
VN hiện nay, một DNBH được coi 
là đủ khả năng thanh toán khi đã 
trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp 
vụ bảo hiểm và có biên khả năng 
thanh toán không thấp hơn biên 
khả năng thanh toán tối thiểu. 
Biên khả năng thanh toán là khoản 
chênh lệch giữa giá trị tài sản và các 
khoản nợ phải trả của DNBH tại 
thời điểm xác định khả năng thanh 
toán. Theo Thông tư 125/2012-
BTC, khi xác định biên thanh toán, 
tùy thuộc vào tính thanh khoản của 
từng loại tài sản hay khoản phải 
thu mà được tính toàn bộ hay loại 
trừ một phần (theo tỷ lệ %) hoặc 
loại trừ toàn bộ giá trị hạch toán. 
Biên khả năng thanh toán tối thiểu 
của các DNBH VN hiện nay được 
quy định chi tiết tại Điều 15 TT 
125/2012 cho từng lĩnh vực hoạt 
động của các DNBH (Hộp 2).
 Trong hệ thống chỉ tiêu giám sát 
DNBH (ban hành kèm theo Quyết 
định số 153/2003/ QĐ- BTC ngày 
22/9/2003) - công cụ hỗ trợ cơ quan 
quản lý bảo hiểm theo dõi, kiểm tra 
tình hình hoạt động kinh doanh, 
việc chấp hành các chính sách, 
pháp luật Nhà nước của DNBH, 
liên quan trực tiếp đến khả năng 
thanh toán có các loại: chỉ tiêu khả 
năng thanh toán; chỉ tiêu nguồn 
vốn, quỹ điều chỉnh trên tổng công 
nợ; chỉ tiêu thanh khoản; chỉ tiêu 
nợ phí trên nguồn vốn, quỹ. 
Khi khả năng thanh toán không 
được đảm bảo, DNBH phải lập 
và báo cáo ngay với Bộ Tài chính 
phương án tài chính để bổ sung 
phần thiếu hụt. Phương án tài chính 
phải được thực hiện trong 90 ngày 
kể từ ngày phát hiện có sự thiếu hụt 
khả năng thanh toán. Trường hợp 
không khôi phục được khả năng 
thanh toán theo quy định, DNBH 
phải chịu sự giám sát đặc biệt của 
Ban kiểm soát khả năng thanh toán 
hoặc bị hạn chế phạm vi, lĩnh vực 
hoạt động, bị đình chỉ hoạt động, 
phải chuyển giao hợp đồng bảo 
hiểm ...cho đến khi khả năng thanh 
toán của doanh nghiệp được khôi 
phục.
1.2.2 Dự phòng nghiệp vụ 
(DPNV)
Pháp luật về kinh doanh bảo 
hiểm ở VN hiện nay quy định về 
các loại DPNV như sau: 
- Đối với DNKDBH phi nhân 
thọ, bảo hiểm sức khỏe, chi nhánh 
nước ngoài hoặc doanh nghiệp 
tái bảo hiểm phi nhân thọ (sức 
khỏe), gồm có: a) DP phí chưa 
được hưởng; b) DP bồi thường cho 
khiếu nại chưa giải quyết; c) DP 
bồi thuờng cho các dao động lớn 
về tổn thất;
- Đối với DNKDBH nhân thọ, 
Hộp 2: Biên khả năng thanh toán tối thiểu theo 
quy định hiện hành của pháp luật VN
“1. Biên khả năng thanh toán tối thiểu của DNBH phi nhân thọ, chi nhánh nước 
ngoài:
a) Biên khả năng thanh toán tối thiểu của DNBH phi nhân thọ, chi nhánh nước 
ngoài là số lớn hơn của các kết quả tính toán sau:
- 25% tổng phí bảo hiểm giữ lại tại thời điểm tính biên khả năng thanh toán;
- 12,5% của tổng phí bảo hiểm gốc và phí nhận tái bảo hiểm tại thời điểm tính 
biên khả năng thanh toán.
b) Đối với các hợp đồng bảo hiểm nhượng tái bảo hiểm không đáp ứng điều kiện 
về nhượng tái bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính thì biên khả năng thanh toán 
tối thiểu được tính bằng 100% số phí bảo hiểm gốc của những hợp đồng bảo hiểm 
đó.
2. Biên khả năng thanh toán tối thiểu của DNBH nhân thọ:
a) Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn năm (05) năm trở xuống bằng 
tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,1% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro;
b) Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn trên năm (05) năm bằng tổng 
của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro.
Số tiền bảo hiểm chịu rủi ro là phần chênh lệch giữa tổng số tiền bảo hiểm của 
các hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực và tổng dự phòng nghiệp vụ.
3. Biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp tái bảo hiểm:
a) Đối với doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo hiểm 
sức khoẻ, biên khả năng thanh toán tối thiểu thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 
này;
b) Đối với doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm nhân thọ, biên khả năng thanh 
toán tối thiểu thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này;
c) Đối với doanh nghiệp kinh doanh cả ba loại hình tái bảo hiểm nhân thọ, tái bảo 
hiểm phi nhân thọ và tái bảo hiểm sức khoẻ, biên khả năng thanh toán tối thiểu bằng 
tổng biên khả năng thanh toán tối thiểu đối với từng loại hình nghiệp vụ kinh doanh 
quy định tại điểm a và điểm b, khoản 3 Điều này.”
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
44
doanh nghiệp tái bảo hiểm nhân 
thọ, gồm có: a) DP toán học; b) 
DP phí chưa được hưởng ; c) DP 
bồi thường; d) DP chia lãi; e) DP 
bảo đảm cân đối; f) Các loại DP áp 
dụng riêng cho loại hình bảo hiểm 
liên kết đầu tư và hưu trí;
Mỗi loại DPNV có nhiều 
phương pháp trích lập. Đối với DP 
phí chưa được hưởng là các phương 
pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm 
(%), trích lập theo hệ số 1/8 hoặc 
1/24 hoặc 1/365; đối với DP bồi 
thường là các phương pháp thống 
kê, theo từng hồ sơ, theo nhịp độ 
bồi thường. Trong bảo hiểm nhân 
thọ, DP toán học có thể áp dụng 
phương pháp DP phí thuần hoặc DP 
phí Zillmerized,... DNBH phải tuỳ 
thuộc vào đặc tính của loại nghiệp 
vụ, các điều kiện mọi mặt về trình 
độ công nghệ bảo hiểm để lựa chọn 
phương pháp thích hợp. Về phía 
quản lý nhà nước phải giám sát việc 
DNBH áp dụng, thay đổi phương 
pháp trích lập mà doanh nghiệp đã 
đăng ký. DNBH không được thay 
đổi phương pháp trích lập DPNV 
trong năm tài chính. Trong trường 
thay đổi phương pháp trích lập 
DPNV cho năm tài chính kế tiếp, 
DNBH phải đề nghị và được Bộ 
Tài chính chấp thuận bằng văn bản 
trước khi áp dụng. 
Trong hệ thống chỉ tiêu giám 
sát DNBH, liên quan đến DPNV 
có các loại như là chỉ tiêu DP bồi 
thường trên phí bảo hiểm được 
hưởng; chỉ tiêu thay đổi DP,... cũng 
là những căn cứ cho việc kiểm tra, 
giám sát của quản lý nhà nước.
1.2.3. Hoạt động đầu tư
Ở VN hiện nay, quản lý nhà 
nước tập trung vào việc xác định 
hợp lý lượng vốn nhàn rỗi mà 
DNBH có thể sử dụng để đầu tư, 
phạm vi và cơ cấu danh mục đầu 
tư nguồn từ nguồn vốn chủ sở hữu, 
nguồn vốn nhàn rỗi từ DPNV và 
các nguồn hợp pháp khác (Hộp 3). 
Trong hệ thống chỉ tiêu giám 
sát doanh nghiệp bảo hiểm liên 
quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư 
có các chỉ tiêu: chỉ tiêu tỷ suất lợi 
nhuận đầu tư tài sản, chỉ tiêu thay 
đổi cơ cấu tài sản, chỉ tiêu tỷ lệ đầu 
tư vào các công ty liên kết. 
2. Thực tế hoạt động giám sát 
tài chính đối với các DnBH
2.1. Ban hành và hướng dẫn thực 
hiện các quy phạm pháp luật
Trong những năm qua hàng loạt 
các văn bản quy phạm pháp luật và 
hướng dẫn được ban hành nhằm 
điều chỉnh, giám sát an toàn tài 
chính của các DNBH: Nghị định 
46/2007/ NĐ- CP quy định chế độ 
tài chính đối với DNBH và doanh 
nghiệp môi giới bảo hiểm; Thông 
tư 156/2007/TT- BTC hướng dẫn 
thực hiện Nghị định số 46/2007/
NĐ- CP; Thông tư 86/2009/TT- 
BTC ngày 28/4/2009 sửa đổi, bổ 
sung một số điểm của Thông tư 
số 155/2007/TT- BTC và Thông 
tư 156/2007/TT-BTC, Nghị định 
123/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011 
của Chính phủ về việc quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số 
điều của Luật sửa đổi, bổ sung một 
số điều của Luật KDBH và sửa đổi, 
bổ sung một số điều của Nghị định 
45/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 
của Chính phủ quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành một số điều của 
Luật KDBH; Thông tư 124/2012/
TT-BTC ngày 30/07/2012 hướng 
dẫn thi hành một số điều của Nghị 
định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27 
tháng 3 năm 2007 của Chính phủ 
và Nghị định số 123/2011/NĐ-CP 
ngày 28 tháng 12 năm 2011 của 
Chính phủ; Thông tư 125/2012/TT-
BTC ngày 30/07/2012 hướng dẫn 
chế độ tài chính đối với DNBH, 
doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh 
nghiệp môi giới bảo hiểm và chi 
nhánh DNBH phi nhân thọ nước 
ngoài; Nghị định số 41/2009/NĐ- 
CP ngày 05/5/2009 thay thế Nghị 
định 118/2003/NĐ- CP về xử phạt 
vi phạm hành chính trong lĩnh vực 
KDBH; Bộ Tài chính ban hành 
Thông tư 03/2010/TT- BTC ngày 
12/01/2010 hướng dẫn thực hiện 
Nghị định số 41/2009/NĐ- CP; 
Luật sửa đổi bổ sung Luật KDBH 
năm 2010; Quyết định số 193/
QĐ-TTg ngày 15/2/2012 của Thủ 
Tướng Chính Phủ về Chiến lược 
Hộp 3: Quy định về đầu tư vốn nhàn rỗi từ DPNV
 a) Đối với DNBH phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài
- Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các 
tổ chức tín dụng không hạn chế;
- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào doanh 
nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ.
- Kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính- tín 
dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ DPNV.
b) Đối với DNBH nhân thọ
- Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh không hạn 
chế.
- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các 
doanh nghiệp khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ DPNV. 
- Kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính tín 
dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ DPNV.
Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
45
phát triển TTBH VN giai đoạn 
2011-2020; Quyết định số 2330/
QĐ-BTC của Bộ trưởng Tài chính 
ngày 18/9/2012 ban hành Kế hoạch 
triển khai thực hiện các giải pháp 
phát triển TTBH VN giai đoạn 
2011-2015.
Với hệ thống văn bản pháp luật 
như trên, pháp luật về KDBH ở VN 
được xây dựng trên nền tảng cơ sở 
Bộ Luật dân sự và đang trong quá 
trình hoàn thiện. Mặt khác, hoạt 
động KDBH có những tình huống, 
sự vụ phát sinh liên quan đồng thời 
đến các quy định của nhiều văn 
bản pháp luật của VN và có thể có 
cả các nguồn luật nước ngoài, quốc 
tế. Trong trường hợp đó, việc viện 
dẫn, vận dụng buộc phải tuân theo 
nguyên tắc chung về trình tự áp 
dụng các nguồn luật. 
2.2. Kiểm tra các tiêu chuẩn, điều 
kiện hoạt động
Về vốn điều lệ: 
Theo Thông tư 156/2007/
TT- BTC và hiện nay là Thông 
tư 125/2012/TT-BTC, vốn điều lệ 
của doanh nghiệp bảo hiểm là số 
vốn do các thành viên, cổ đông 
góp hoặc cam kết đóng góp trong 
1 thời hạn nhất định, vốn điều lệ đã 
góp là số vốn do chủ sở hữu thực 
góp và không phải là vốn vay. Các 
giao dịch ≥ 10% vốn điều lệ thực 
góp phải được Bộ Tài chính chấp 
thuận. Vốn điều lệ của DNBH cổ 
phần phải đảm bảo cơ cấu: Cổ 
đông cá nhân ≤ 10 %; cổ đông tổ 
chức ≤ 20 %; cổ đông sáng lập 
≥ 50 % vốn điều lệ khi thành lập. 
Nếu vốn điều lệ đã góp bằng vốn 
pháp định, DNBH chỉ được thành 
lập tối đa 20 chi nhánh/ văn phòng 
đại diện; nếu muốn thành lập thêm 
01 chi nhánh/ văn phòng đại diện, 
DNBH phải tăng vốn thêm 10 tỷ 
VND. Đối với doanh nghiệp bảo 
hiểm phi nhân thọ, nếu muốn kinh 
doanh bảo hiểm hàng không, dầu 
khí, vệ tinh phải có vốn điều lệ lớn 
hơn vốn pháp định 50 tỷ đồng. 
Tuy nhiên, trên thực tế, có 
những doanh nghiệp bảo hiểm 
chưa góp vốn điều lệ đủ bằng vốn 
pháp định đã đi vào hoạt động hoặc 
không góp đủ vốn điều lệ theo cam 
kết trong hồ sơ tăng vốn; nhiều cố 
đông vay tiền ngân hàng để góp 
vốn điều lệ; một số doanh nghiệp 
bảo hiểm chưa có đủ số vốn đã mở 
các văn phòng đại diện hoặc chi 
nhánh,...
Theo kiểm tra của Cục Quản 
lý, giám sát bảo hiểm, năm 2011 
vẫn còn 6 doanh nghiệp bảo hiểm 
phi nhân thọ vốn điều lệ đã góp 
chưa đủ mức vốn pháp định là 
300 tỷ đồng. Đó là các Công ty 
bảo hiểm Samsung Vina, QBE, 
UIC, Bảo Tín, Bảo Long, Hùng 
Vương. Một số doanh nghiệp 
bảo hiểm đã góp đủ 300 tỷ đồng 
như ... . Theo quy định việc sở hữu 
vốn của cổ đông cá nhân ≤ 10% 
cổ đông tổ chức ≤ 20%. Trên 
thực tế, Tập đoàn Bảo Việt đối 
với Bảo hiểm Bảo Việt, Bảo Việt 
Nhân thọ; PVN đối với PVI, Tập 
đoàn Xuân Thành đối với Bảo 
hiểm Xuân Thành; AGRIBANK 
đối với ABIC,đều có tỷ lệ sở 
hữu cao hơn quy định. Mặt khác 
đối với các DNBH thuộc các tập 
đoàn, do quy định về mô hình 
TĐKT, về quan hệ giữa các thành 
viên trong TĐKT chưa thật cụ 
thể, rõ ràng nên sự phối hợp giữa 
công ty mẹ và các công ty con 
và giữa các công ty con ở hầu 
hết các tập đoàn chưa hiệu quả. 
Hiện trạng này là tiềm tàng rủi 
ro trong việc quản lý luồng vốn 
nhàn rỗi từ quỹ DPNV (thực chất 
là các khoản nợ của DNBH đối 
với khách hàng) là chưa chặt chẽ. 
Đặc biệt là sự yếu kém của các 
TĐKT, TCT như hiện nay rất có 
thể sẽ kéo theo những hệ quả xấu 
đối với các DNBH thành viên.
4. những định hướng tăng 
cường năng lực cho hệ thống 
giám sát an toàn tài chính đối 
với các DnBH trong thời gian 
tới
Vấn đề quản lý tài chính cần 
đặc biệt chú ý không chỉ bởi đặc 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
48
thù rủi ro trong hoạt động KDBH 
mà còn vì: Sự non trẻ của phần 
lớn các DNBH trên TTBH VN 
trong mặt bằng chung của thị 
trường quốc tế; xu hướng phát 
triển các dịch vụ tài chính mới rất 
phức tạp như: bảo hiểm liên kết 
đầu tư, các công cụ phái sinh,; 
sự hình thành các dạng tập đoàn 
tài chính - bảo hiểm với cấu trúc 
tài chính phức tạp hơn và hàng 
loạt những yếu tố khác.
4.1. Hoàn thiện quy định về giám 
sát khả năng thanh toán của 
doanh nghiệp bảo hiểm
Nghị định số 46/2007/NĐ- 
CP và các Thông tư hướng dẫn 
thực hiện có quy định: Doanh 
nghiệp bảo hiểm được coi là đủ 
khả năng thanh toán khi đã trích 
lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ 
và có biên khả năng thanh toán 
không thấp hơn biên khả năng 
thanh toán tối thiểu. Đối với các 
hợp đồng bảo hiểm nhượng tái 
bảo hiểm không đáp ứng điều 
kiện về nhượng tái bảo hiểm 
theo quy định của Bộ Tài chính 
thì biên khả năng thanh toán tối 
thiểu được tính bằng 100% số 
phí bảo hiểm gốc. Các tài sản khi 
tính biên khả năng thanh toán 
được tính đến rủi ro thanh khoản 
qua cách phân tách thành 3 loại: 
các tài sản được chấp nhận toàn 
bộ giá trị hạch toán; các tài sản bị 
loại trừ toàn bộ giá trị hạch toán; 
các tài sản bị loại trừ một phần 
giá trị hạch toán.
Như vậy, phương pháp tính 
này có tính đến một số loại rủi 
ro cần vốn chống đỡ như rủi ro 
tài sản, rủi ro tái bảo hiểm. Tuy 
nhiên, có những rủi ro rất nguy 
hiểm như rủi ro chấp nhận bảo 
hiểm (gốc) thì chưa bao quát 
được. Cách tính toán tiến hành 
trên toàn bộ lượng phí bảo hiểm 
giữ lại không tính đến mức độ rủi 
ro đặc thù của nghiệp vụ này hay 
nghiệp vụ khác, cũng không xem 
xét đến mức phí mà nhà bảo hiểm 
đưa ra đã hợp lý chưa. Nếu một 
DNBH định phí thấp thì về mức 
tối thiểu theo yêu cầu về biên khả 
năng thanh toán tối thiểu của họ 
cũng thấp đi trong khi mức độ 
rủi ro bảo hiểm đó lại tăng lên. 
Như vậy, các nhân tố đưa vào 
tính toán không chỉ có yếu tố rủi 
ro về tài sản đảm bảo khả năng 
thanh toán (dùng xác định biên 
khả năng thanh toán) mà còn phải 
tính đến có các rủi ro khác (rủi ro 
nghiệp vụ, rủi ro thị trường và rủi 
ro kinh doanh).4 
4.2. Nghiên cứu mô hình giám sát 
mức vốn yêu cầu theo rủi ro của 
từng doanh nghiệp
Ngoài quỹ DPNV (trích lập 
từ phí bảo hiểm), DNBH cần 
phải mức vốn cần thiết không 
chỉ đảm bảo cho khả năng thanh 
toán trong điều kiện bình thường 
mà còn có thể tiếp tục hoạt động 
trong tình huống đặc biệt bất lợi 
xảy ra. Điều này ở VN chỉ dừng 
lại ở mức vốn điều lệ đã góp mà 
tối thiểu bằng vốn pháp định 
được đánh giá là “quá bé” cho 
một định chế tài chính trung gian 
như DNBH và áp dụng chung 
cho tất cả các doanh nghiệp hoạt 
động trong cùng lĩnh vực (phi 
nhân thọ: 300 tỷ VNĐ, nhân thọ: 
600 tỷ VNĐ).7
4.3. Đối với hoạt động đầu tư
Ở cấp độ một tổ chức, rủi ro 
đầu tư sẽ trực tiếp liên quan đến 
việc quản lý đầu tư. Các quyết 
định phân bổ vốn cho các danh 
mục đầu tư, việc quản lý hoạt 
4 Nguyễn Tiến Hùng, Võ Đình Trí, Giám 
sát an toàn tài chính đối với DNBH: Mô 
hình các thị trường phát triển của thế giới và 
vấn đề vận dụng ở VN, Tạp chí Tài chính - 
Marketing;
động đầu tư của tổ chức có thể 
sai sót, lệch lạc khiến cơ cấu danh 
mục đầu tư không thích hợp, đánh 
giá quá cao tài sản, tập trung quá 
mức vào loại khoản mục đầu tư 
nào đó. Nghị định 46/2007/NĐ-
CP mới chỉ quy định những hạn 
chế về tỷ lệ vốn đầu tư tối đa đối 
với từng danh mục mà chưa có 
các quy định khống chế tỷ lệ đầu 
tư cụ thể đối với từng loại tài sản 
đầu tư như: tỷ lệ hay mức đầu tư 
cổ phiếu không bảo lãnh tại một 
doanh nghiệp, đối với mỗi lần 
phát hành, đối với mỗi loại, hoặc 
tỷ lệ hay mức cho vay tối đa đối 
với một khách hàng...Thậm chí 
đối với bảo hiểm nhân thọ, tỷ lệ 
đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu 
doanh nghiệp không có bảo lãnh 
được phép tới 50% vốn nhàn rỗi 
từ DPNV. Nghị định 46/2007/
NĐ-CP cũng chưa có các quy 
định phân biệt giữa trái phiếu, cổ 
phiếu doanh nghiệp được niêm 
yết, mua bán trên thị trường 
chứng khoán và trái phiếu, cổ 
phiếu doanh nghiệp mua bán 
trên thị trường không chính thức. 
Như vậy, nếu chỉ tuân theo các 
quy định trên, DNBH có thể 
sẽ không thực hiện được triệt 
để nguyên tắc phân chia, đồng 
thời cũng không đảm bảo được 
nguyên tắc phân tán rủi ro trong 
đầu tư.
Trong thời gian tới, nên có quy 
định tổng số vốn đầu tư vào mỗi 
nơi, mỗi đối t ượng, mỗi lần phát 
hành cổ phiếu, trái phiếu công 
ty,... không đư ợc v ượt quá một 
giới hạn nào đó cho từng danh 
mục đầu tư . Chẳng hạn, tỷ lệ vốn 
đầu t ư vào một đối tư ợng trong 
danh mục kinh doanh bất động 
sản, góp vốn không đ ược vư ợt 
quá 10% tổng vốn được phép đầu 
t ư; mua cổ phiếu, trái phiếu công 
Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
49
ty, cho vay tối đa là 5%,... Ngay 
cả danh mục tiền gửi, mặc dù cho 
phép đầu tư không hạn chế, song 
số tiền gửi vào mỗi Ngân hàng, 
tổ chức tài chính, cũng không 
được vượt quá một tỷ lệ nào đó. 
4.4. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu 
giám sát tài chính DNBH
Hiệu quả giám sát phụ thuộc 
vào tính hợp lý của các chỉ tiêu 
sử dụng, tiêu chuẩn so sánh, đối 
chiếu và chất lượng thông tin (dữ 
liệu đầu vào của việc tính toán, 
phân tích các chỉ tiêu đánh giá 
tài chính doanh nghiệp). Vấn đề 
này liên quan tới độ chuẩn mực 
và thống nhất trong lập, trình bày 
hệ thống báo cáo tài chính và tài 
liệu kế toán - tài chính khác của 
các DNBH. Hiệu quả giám sát 
tài chính sẽ là không như mong 
muốn nếu chỉ tiêu không phù hợp 
hoặc sự không tương thích giữa 
cách tính chuẩn so sánh và chỉ 
tiêu sử dụng do sự không tương 
thích về chế độ kế toán, cấu trúc 
hệ thống báo cáo tài chính, và 
cả các yếu tố chủ quan như trình 
độ, kinh nghiệm của nhân viên 
tài chính/ kế toán của DNBH, 
kiểm toán viên khiến chất lượng 
thông tin không đủ độ tin cậy.
4.5. Hoàn thiện chế độ kế toán và 
quản lý DPNV
Từ năm 2002 đến nay, chế 
độ kế toán VN đã có nhiều thay 
đổi, đặc biệt là việc áp dụng các 
chuẩn mực kế toán dựa trên các 
chuẩn mực kế toán quốc tế. Đối 
với Chế độ kế toán cho DNBH, 
chuẩn mực kế toán số 19-Hợp 
đồng bảo hiểm dựa trên chuẩn 
mực Báo cáo tài chính quốc tế số 
4 đã được ban hành và có hiệu 
lực nhưng chưa có hướng dẫn 
và hầu hết các DNBH không áp 
dụng.
Điều đáng chú ý là trong 
thông lệ kế toán VN, có một số 
vấn đề chưa phù hợp với chuẩn 
mực kế toán quốc tế như:
- Vấn đề trích lập và trình bày 
DP dao động lớn. Chuẩn mực kế 
toán số 19 không cho phép các 
DNBH trích lập DP dao động lớn 
nhưng quy định quản lý tài chính 
đối với DNBH ở VN lại yêu cầu 
DNBH phải trích lập DP dao 
động lớn.
- Không trình bày phần thuộc 
trách nhiệm doanh nghiệp nhận 
tái bảo hiểm về DP phí và DP bồi 
thường. Vấn đề này được quy 
định trong Nghị định số 46/2007: 
“Doanh nghiệp kinh doanh bảo 
hiểm phi nhân thọ phải trích lập 
DPNV theo từng nghiệp vụ bảo 
hiểm đối với phần trách nhiệm 
giữ lại của doanh nghiệp”. Trong 
mọi trường hợp, DNBH là người 
chịu trách nhiệm toàn bộ cam kết 
của hợp đồng bảo hiểm gốc trước 
khách hàng. Như vậy, rủi ro phá 
sản của doanh nghiệp nhận tái bảo 
hiểm hoặc không thu hồi được từ 
doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm 
trong trường hợp DNBH quá phụ 
thuộc vào tái bảo hiểm sẽ khiến 
cho DNBH có thể rơi vào tình 
trạng mất khả năng thanh toán.
Các chỉ tiêu liên quan đến 
DPNV (DPNV/Tài sản thanh 
khoản; DPNV/Phí bảo hiểm giữ 
lại; DPNV/Nguồn vốn, quỹ) 
thuộc nhóm các chỉ tiêu phân 
tích quan trọng nhất trong giám 
sát tài chính ở nhiều nước, nhưng 
ở nước ta hiện nay cũng bộc lộ 
bất cập. DPNV sử dụng trong 
tính toán các chỉ tiêu liên quan 
đến DPNV theo thông lệ quốc tế 
là DPNV chưa trừ đi phần trách 
nhiệm đã tái bảo hiểm, nhưng ở 
VN, DP được trình bày và trích 
lập trên cơ sở trách nhiệm giữ 
lại nên không phù hợp các tiêu 
chuẩn quốc tế. 
Để giải quyết những vướng 
mắc trên, các giải pháp tương 
ứng là :
- Đối với vấn đề trích lập DP 
dao động lớn: Phương án là cho 
phép DNBH trích lập DP dao 
động lớn như quy định hiện tại 
song trình bày trên báo cáo tài 
chính như một phần của vốn chủ 
sở hữu. Bản chất của quỹ DP 
dao động lớn là nhằm ổn định 
tình hình tài chính của DNBH, 
không gắn với các trách nhiệm 
bảo hiểm cụ thể nên nó có tính 
chất như một khoản vốn chủ sở 
hữu của DNBH. Nhiều quốc gia 
cũng đã thực hiện theo cách này 
khi áp dụng chuẩn mực hợp đồng 
bảo hiểm.
- Đối với các chỉ tiêu liên 
quan đến DPNV: a) Phương án 
là yêu cầu các DNBH trình bày 
riêng biệt DP gộp và DP thuộc 
trách nhiệm tái bảo hiểm để tính 
toán đúng các tỷ số. Các tỷ số tài 
chính khác cũng cần được tính 
toán cho tất cả các doanh nghiệp 
trên thị trường để có sự điều 
chỉnh so với các tiêu chuẩn so 
sánh quốc tế; b) Hoặc phương án 
là trình bày trích lập DPNV trên 
cơ sở toàn bộ trách nhiệm cam 
kết trong hợp đồng bảo hiểm gốc 
thực hiện cùng với điều khoản ký 
quỹ DPNV trong các hợp đồng 
tái bảo hiểm. Điều này làm việc 
hạch toán khá phức tạp, nhưng 
đã thực hiện thành công ở các 
nước khác. 
Cải tiến việc quản lý trích lập 
DPNV bảo hiểm thực sự cần thiết 
theo hướng: kiểm tra, giám sát 
phải bao quát được các vấn đề 
cơ bản: Các loại DPNV mà loại 
DNBH phải trích lập, phương 
pháp trích lập và cơ sở trích lập; 
Thống nhất với các chuẩn mực 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 11 (21) - Tháng 07-08/2013
Thị Trường Tài Chính Với Ổn Định Kinh Tế 
50
quốc tế; Hạn chế rủi ro lập DP 
thiếu; Ngăn chặn tình trạng sử 
dụng DP để điều chỉnh kết quả 
kinh doanh của DNBH; Tăng 
cường tính chủ động của DNBH 
trong việc lựa chọn phương pháp 
tính DP.
4.6. Hoàn thiện chế độ báo cáo tài 
chính (BCTC)
- Việc lập, kiểm toán BCTC 
của các DNBH còn thiếu tính 
thống nhất. Mỗi DNBH trình 
bày BCTC theo cách khác nhau. 
Các DNBH trình bày Báo cáo 
kết quả hoạt động kinh doanh 
theo quy định tại Quyết định số 
150/2001/QĐ- BTC về Chế độ 
kế toán DNBH nhưng các chỉ 
tiêu trình bày vẫn khác nhau. 
Đối với Bảng cân đối kế toán 
và Báo cáo lưu chuyển tiền, một 
số trình bày theo Chế độ kế toán 
doanh nghiệp mới theo (Quyết 
định số 15/2006/QĐ-BTC), có 
DNBH trình bày theo Quyết định 
150/2001/QĐ- BTC. Việc trình 
bày các khoản mục khác nhau 
khiến cho việc tính toán, so sánh 
các chỉ tiêu trên báo cáo rất khó 
khăn, thậm chí không thực hiện 
được.
- Để phục vụ cho việc phân 
tích tài chính, cần phải có những 
quy định cải tiến việc lập BCTC 
của các DNBH. Cụ thể, DNBH 
phải lập BCTC theo tinh thần: 
Không được thêm bớt các chỉ 
tiêu trên báo cáo, chỉ tiêu nào 
không có số liệu thì bỏ trống 
và phải nộp cả bản điện tử cùng 
với báo cáo; Các thông tin trong 
Báo cáo nghiệp vụ được đưa vào 
Thuyết minh BCTC; DNBH phải 
tự tính toán các tỷ số tài chính mà 
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm 
sử dụng để phân tích tài chính và 
trình bày trong Thuyết minh báo 
cáo tài chính các tỷ số này của 5 
năm gần nhất (phần “Một số chỉ 
tiêu đánh giá thực trạng tài chính 
và kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp”).
- Kiểm toán viên của công ty 
kiểm toán phụ trách kiểm toán 
DNBH phải có kinh nghiệm và 
kiến thức về bảo hiểm và được 
Bộ Tài chính phê chuẩn.
- Các tiêu chuẩn so sánh quốc 
tế cần được nghiên cứu kỹ lưỡng 
và nên được điều chỉnh cho phù 
hợp với điều kiện TTBH VN cũng 
như khuôn khổ kế toán VN. 
- Cần sớm xử lý tình trạng các 
DNBH được sở hữu chi phối bởi 
các Tập đoàn, tổng công ty. Một 
mặt để đảm bảo hiệu lực của các 
quy định về sở hữu vốn có giới 
hạn của một nhà đầu tư trong 
DNBH. Mặt khác đảm bảo tránh 
những rủi ro đổ vỡ dây chuyền 
làm ảnh hưởng đến NĐBH.
5. Kết luận
- Thị trường bảo hiểm VN 
đang hội nhập sâu vào thị trưởng 
bảo hiểm quốc tế nói riêng và thị 
trường tài chính nói chung thì 
một hệ thống giám sát cũng cần 
phải thay đổi để thích ứng với 
bối cảnh đó.
- Còn nhiều vấn đề đang đặt 
ra trước yêu cầu hoàn thiện: hệ 
thống quy định quản lý tài chính, 
chỉ tiêu giám sát tài chính, chế 
độ kế toán, hệ thống báo cáo tài 
chính DNBH sao cho có sự tương 
thích với các chuẩn mực quốc tế 
và phù hợp với những điều kiện 
đặc thù của nền kinh tế và thị 
trường bảo hiểm ở VN. 
- Việc giải quyết những vấn 
đề trên là không thể tách rời với 
giải pháp nâng cao năng lực của 
hệ thống quản lý, giám sát của cơ 
quan quản lý nhà nước đối với 
DNBH. Bên cạnh đó là việc hình 
thành và củng cố chức năng kiểm 
soát nội bộ trong từng DNBH 
nhằm nâng cao năng lực tự kiểm 
soát của từng công ty.
- Việc hoàn thiện và nâng cao 
hiệu lực cho hệ thống giám sát 
an toàn tài chính cần nghiên cứu 
áp dụng mô hình đã được các 
thị trường bảo hiểm lớn trên thế 
giới và khu vực áp dụng (RBC, 
Solvency II, )5 l
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính VN, Thị trường bảo hiểm VN, 
Nhà xuất bản Tài chính;
Chương trình hỗ trợ kỹ thuật châu Âu cho 
VN (ETV2) (2007), Báo cáo của Hợp 
phần 4: Kế toán - Bảo hiểm - ETV2. 
EC. Insurance Solvency Study, Designed 
and Produced by KPMG’s UK, Design 
Services, May 2002 
Hiệp hội Bảo hiểm VN, Bản tin Số liệu thị 
trường bảo hiểm. 
Hoàng Trần Hậu – Hoàng Mạnh Cừ, (2011), 
Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, 
giám sát của Nhà nước đối với thị tr-
ường bảo hiểm ở VN, đề tài khoa học, 
Học viện Tài chính.
IAIS Revised insurance core principles, 
Approved in Singapore on 3 October 
2003, 
Nguyễn Tiến Hùng, Võ Đình Trí (2011), 
“Giám sát an toàn tài chính đối với 
doanh nghiệp bảo hiểm: Mô hình các 
thị trường phát triển của thế giới và vấn 
đề vận dụng ở VN”, Tạp chí Tài chính – 
Marketing.
Văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn 
hiện hành lĩnh vực kinh doanh bảo 
hiểm.
5 Nguyễn Tiến Hùng, Võ Đình Trí 
(2011), “Giám sát an toàn tài chính đối với 
DNBH: Mô hình các thị trường phát triển 
của thế giới và vấn đề vận dụng ở VN”, Tạp 
chí Tài chính - Marketing

File đính kèm:

  • pdfgiam_sat_an_toan_tai_chinh_doi_voi_cac_doanh_nghiep_bao_hiem.pdf