Giải phẫu ứng dụng vạt cơ thon cuống mạch đầu xa
Đặt vấn đề: Khuyết hổng mô mềm vùng gối thường hay gặp, có thể do chậm lành vết thương hoặc hoại tử
da sau phẫu thuật. Các nghiên cứu hiện có về điều trị khuyết hổng mô mềm vùng gối còn nhiều tranh cãi và chưa
thống nhất. Vạt cơ tại chỗ là lựa chọn ưu tiên, đặc biệt trong những trường hợp bị nhiễm trùng.
Mục tiêu: Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng vạt cơ thon cuống mạch đầu xa.
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi thực hiện phẫu tích 30 mẫu đùi từ 15 xác tươi và bơm chất cản
quang chì oxit vào các cuống mạch đầu xa sau đó chụp X quang đánh giá hệ thống thông nối và chiều dài vạt cơ
ngấm chất cản quang. Trên cơ sở các đặc điểm giải phẫu thu nhận được, chúng tôi tiến hành xoay vạt cơ thon
ngược dòng dựa trên các cuống mạch đầu xa và đo lường diện tích che phủ vùng gối.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải phẫu ứng dụng vạt cơ thon cuống mạch đầu xa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 46 GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG VẠT CƠ THON CUỐNG MẠCH ĐẦU XA Đặng Khoa Học1, Đỗ Phước Hùng2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Khuyết hổng mô mềm vùng gối thường hay gặp, có thể do chậm lành vết thương hoặc hoại tử da sau phẫu thuật. Các nghiên cứu hiện có về điều trị khuyết hổng mô mềm vùng gối còn nhiều tranh cãi và chưa thống nhất. Vạt cơ tại chỗ là lựa chọn ưu tiên, đặc biệt trong những trường hợp bị nhiễm trùng. Mục tiêu: Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng vạt cơ thon cuống mạch đầu xa. Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi thực hiện phẫu tích 30 mẫu đùi từ 15 xác tươi và bơm chất cản quang chì oxit vào các cuống mạch đầu xa sau đó chụp X quang đánh giá hệ thống thông nối và chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang. Trên cơ sở các đặc điểm giải phẫu thu nhận được, chúng tôi tiến hành xoay vạt cơ thon ngược dòng dựa trên các cuống mạch đầu xa và đo lường diện tích che phủ vùng gối. Kết quả: Số lượng cuống mạch đầu xa đi vào cơ thon thay đổi từ 1-4 cuống mạch, trung bình là 2,53 ± 0,82 cuống xuất phát từ động mạch đùi nông hoặc động mạch khoeo. Đường kính cuống mạch đầu xa thứ nhất thường lớn nhất (trung bình 1,99 mm) và khoảng cách từ nguyên ủy cơ thoi tại củ mu đến cuống mạch đầu xa đầu tiên trung bình 21,94 ± 1,59 cm (từ 18,8 đến 24,5 cm). Chiều dài trung bình vạt cơ thon dựa trên toàn bộ các cuống mạch đầu xa dài trung bình 21,26 ± 2,39cm. Cơ thon có càng nhiều cuống đầu xa thì hệ thống thông nối càng phong phú, chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang càng dài và ngược lại (p=0,0000; r(2)=0,9161). Vạt cơ thon dựa trên các cuống mạch đầu xa này có tầm mức che phủ hạn chế, chủ yếu che phủ được nửa trên gối. Kết luận: Trong điều trị khuyết hổng mô mềm lớn vùng gối, đặc biệt là khuyết hổng nửa trên gối, vạt cơ thon cuống mạch đầu xa có thể được sử dụng để thay thế hoặc phối hợp với các biện pháp che phủ khác. Từ khóa: vạt cơ thon cuống mạch đầu xa, khuyết hổng mô mềm vùng gối ABSTRACT ANATOMY OF DISTALLY BASED SECONDARY-PEDICLE FLAP OF THE GRACILIS MUSCLE Dang Khoa Hoc, Do Phuoc Hung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 46 - 52 Background: Poor wound-healing and skin necrosis are potentially devastating complications after knee surgeries. A literature search focusing on flap knee reconstruction revealed much controversy regarding the optimal management of around the knee defects. Muscle flaps are the preferred option, mainly in infected wounds. The aim of this study was to evaluate the use of a distally based secondary-pedicle flap of the gracilis muscle for reconstruction of a soft-tissue defect. Objective: Evaluating the use of a distally based secondary-pedicle flap of the gracilis muscle for reconstruction of knee soft-tissue defect. Methods: Fifteen human cadaver dissections were performed and injected using lead oxide into the distally (secondary) gracilis vascular pedicles, followed by radiographic studies to identify the characteristics of the distally based (secondary) pedicles of the gracilis muscle. On the basis of the anatomical features, a distally based secondary-pedicle flap of the gracilis muscle was used in 30 human cadaver thighs and measured the ability of this flap to cover the knee defect. 1Bệnh viện Tâm Anh 2Bộ môn Chấn thương Chỉnh hình-Phục hồi Chức năng ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Đặng Khoa Học ĐT: 0974813814 Email: [email protected] Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Ngoại Khoa 47 Results: The mean number of secondary pedicles was 2.53 ± 0.82 (range, one to four). The pedicles originated from the superficial femoral or popliteal artery. The most proximal pedicle was often the largest (mean caliber, 1.99 mm), and its point of entry into the gracilis muscle was an average (and standard deviation) of 21.94 ± 1.59 cm (range, 18.8 to 24.5 cm) from the ischiopubic branch. The mean length of reversed gracilis flap based on the secondary pedicles was 21.26 ± 2.39 cm. A significant positive association (p=0.0000; r(2)=0.9161) was found between the length of the flap and the number of secondary pedicles. However, the adequate cover of the reversed gracilis pedicle flap is limit, they can not cover distal half of the knee defect. Conclusions: For the treatment of large soft-tissue defects of the patella or the proximal part of the knee, the distally based secondary-pedicle flap of the gracilis muscle may be an alternative to, or may be integrated with other flaps. Keywords: distally based secondary-pedicle flap, reversed gracilis flap knee defect ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật điều trị khuyết hổng mô mềm (KHMM) chi dưới, đặc biệt vùng gối luôn là một trong những thách thức lớn với các phẫu thuật viên chỉnh hình. Khớp gối là một trong những khớp chính và quan trọng cho sự vận động, đi lại của cơ thể. Đặc điểm giải phẫu vùng gối có ít mô đệm và cơ che phủ nên khi tổn thương dễ lộ các cấu trúc quan trọng như gân, xương, dây chằng, sụn khớp. Nếu không điều trị sớm và đúng cách sẽ dẫn tới tình trạng nhiễm trùng sâu, thông vào khớp gây khó khăn hơn trong xử trí, hoặc nặng hơn dẫn đến cứng khớp, đoạn chi làm mất chức năng chi dưới và ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống. Vì vậy các phẫu thuật viên chỉnh hình không những phải tìm cách che phủ sớm KHMM vùng gối mà còn phải che phủ bằng những cấu trúc phù hợp sao cho khớp gối vẫn giữ được chức năng vận động của nó. Hiện nay chưa có một phác đồ nào đầy đủ về mặt chứng cứ được đồng thuận cho xử trí KHMM vùng gối(1). Có nhiều phương pháp điều trị KHMM chi dưới như ghép da, vạt da ngẫu nhiên, vạt da cân, vạt cơ có cuống mạch tại chỗ hay vạt tự do... Đối với các KHMM vùng gối, đặc biệt khi có lộ xương-khớp, nhiễm trùng thì các phương pháp ghép da, vạt da ngẫu nhiên thường ít được sử dụng. Vạt tự do là một lựa chọn cho những trường hợp khó như vậy, tuy nhiên đây là phẫu thuật cần thời gian dài, phẫu thuật viên có nhiều kinh nghiệm và không phù hợp cho những bệnh nhân có nhiều bệnh đồng mắc, nguy cơ chu phẫu cao. Vạt cân da hoặc vạt cơ tại chỗ được sử dụng để khắc phục các nhược điểm trên. So với vạt cân da(2), với những vết thương nhiễm trùng, lộ khớp, lộ dụng cụ, vạt cơ có ưu điểm hơn giúp che phủ hiệu quả, lấp đầy khuyết hổng sâu, cung cấp nguồn máu nuôi tăng cường dinh dưỡng tại chỗ, ngoài ra do vạt cơ ở vị trí sâu hơn nên các mạch máu nuôi cũng ít bị tổn thương hơn so với mạch máu nuôi vạt cân da(3). Cơ thon thường được sử dụng rộng rãi trong phẫu thuật tạo hình, dưới dạng vạt có cuống tại chỗ hay vạt tự do dựa trên bó mạch chính đầu gần. Thời gian gần đây trên thế giới các tác giả đã và đang tập trung nghiên cứu về tính khả thi của xoay vạt cơ thon tại chỗ dựa trên các cuống mạch đầu xa, và thậm chí các phẫu thuật viên đã ứng dụng các nghiên cứu giải phẫu để thực hiện trên một số bệnh nhân, tập trung chủ yếu ở người châu Âu(4) các nghiên cứu tại châu Á nói chung rất ít với cỡ mẫu nhỏ và ở Việt Nam nói riêng hiện chưa có bất kỳ nghiên cứu nào. Từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để mô tả giải phẫu, diện tưới máu của các cuống mạch đầu xa tiến tới ứng dụng thiết kế vạt cơ thon ngược dòng che phủ KHMM vùng gối hoặc vạt cơ thon tự do dựa trên các cuống mạch đầu xa. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 30 mẫu đùi từ xác tươi đông lạnh tại Bộ môn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 48 (BM) Giải phẫu học – Trường Đại Học (ĐH) Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) từ tháng 12/2019-08/2020). Tiêu chuẩn chọn mẫu Xác tươi ≥16 tuổi tại phòng xác của BM Giải phẫu học – Trường ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn loại trừ Vùng bẹn, đùi, gối đã bị phẫu tích trước đó. Có những bất thường đại thể về giải phẫu hoặc có tổn thương vùng bẹn, đùi, gối phát hiện khi phẫu tích. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mô tả hàng loạt ca. Phân tích số liệu Phân tích số liệu bằng phần mềm thống kê Stata/SE 13.0. Phần mềm Autocad 2007 để tính phần trăm diện tích lớn nhất che phủ mỗi vùng cẳng bàn chân. Trình bày số liệu dưới dạng bảng và biểu đồ bằng Word 2016. Các biến số nghiên cứu Bảng 1: Các biến nghiên cứu Nhóm biến số Tên biến số Ký hiệu Loại biến số Cách xác định Biến số nền Tuổi T Định lượng Tuổi của BN (năm) tại thời điểm tử vong của các mẫu trên xác Giới tính G Định tính Nam hoặc nữ Đặc điểm giải phẫu cơ thon cuống mạch đầu xa Chiều dài đùi tương đối CDĐTĐ Định lượng Khoảng cách từ gai chậu trước trên đến giao điểm khe khớp gối ngoài và cạnh ngoài xương bánh chè. Chiều dài cơ thon CDCT Định lượng Khoảng cách từ nguyên ủy cơ thon tại củ mu đến bám tận tại mặt trước trong đầu trên xương chày. Chiều dài bụng cơ thon CDBCT Định lượng Khoảng cách từ nguyên ủy cơ thon tại củ mu đến phần cuối nơi tiếp nối cơ-gân cơ thon. Số lượng cuống đầu xa SL Định lượng Số lượng mạch máu đầu xa đi vào cơ thon theo định nghĩa mục 2.2.4 Vị trí từ củ mu đến từng cuống đầu xa L1,2,3,4 Định lượng Khoảng cách từ nguyên ủy cơ thon tại củ mu đến vị trí từng cuống xa đi vào cơ thon. Đường kính cuống mạch đầu xa D1,2,3,4 Định lượng Đường kính của các mạch máu đầu xa đi vào cơ thon đo tại điểm trước khi đi vào cơ thon theo phương pháp kẹp dẹp và tính đường kính. Phạm vi tưới máu của cuống mạch đầu xa Chiều dài vạt cơ bơm chọn lọc VC2 Định lượng Chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang sau khi đã kẹp cuống xa đầu tiên dựa trên chụp cản quang và quan sát đại thể. Chiều dài vạt cơ từ toàn bộ cuống xa VC Định lượng Chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang sau khi thả kẹp mạch máu đầu xa thứ nhất và bơm cản quang toàn bộ các cuống xa. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 17/HĐĐĐ ngày 06/01/2020. KẾT QUẢ Từ tháng 12/2019 đến tháng 8/2020, chúng tôi đã thực hiện tiến hành nghiên cứu trên 30 mẫu đùi từ xác tươi đông lạnh tại Bộ môn Giải Phẫu học- ĐH Y Dược TP. HCM. Sau quá trình nghiên cứu chúng tôi đã ghi nhận như sau: Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, mẫu đùi nghiên cứu ở giới nam và nữ không quá chênh lệch, mẫu đùi ở nam nhiều hơn chiếm 60%, tỷ lệ nam/nữ trong mẫu nghiên cứu này là 1,5/1. Đặc điểm giải phẫu cuống mạch đầu xa Luôn luôn tồn tại ít nhất 1 mạch máu đầu xa đi vào cơ thon, số lượng dao động từ 1-4 cuống mạch và tỷ lệ số mẫu chỉ có 1 cuống mạch đầu xa rất nhỏ 6,67%. Tỷ lệ hiện diện 2 đến 3 mạch máu đầu xa chiếm đa số (chiếm 80% tổng số Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Ngoại Khoa 49 mẫu). Trung bình có 2,53 ± 0,82 cuống mạch đầu xa nuôi cơ thon (Bảng 2). Bảng 2: Tỉ lệ số lượng các cuống mạch đầu xa đi vào cơ thon (N=30) Số bó mạch hiện diện Số ca Tỷ lệ 1 2 6,67% 2 14 46,67% 3 10 33,33% 4 4 13,33% Tổng cộng mẫu 30 100% Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các cuống mạch đầu xa đều xuất phát từ động mạch đùi nông hoặc động mạch khoeo. Các mạch máu này đi giữa cơ may và cơ khép dài, đi theo hướng trong dưới, vào cơ thon ở đoạn 1/3 giữa và 1/3 xa, trên đường đi các mạch máu này không cho nhánh vào bất kỳ cơ nào khác. Bảng 3: Khoảng cách từ nguyên ủy cơ thon (củ mu) đến vị trí đi vào cơ thon của các cuống mạch đầu xa (N=30) Trung bình (cm) Ngắn nhất (cm) Dài nhất (cm) Cuống 1 Cuống 2 Cuống 3 Cuống 4 21,94 ± 1,59 27,27 ± 1,12 28,61 ± 0,67 31,13 ± 0,55 18,8 25,6 27,3 30,4 24,5 29,5 29,5 31,6 Cuống mạch đầu xa đầu tiên đi vào cơ thon ở vị trí 21,94 ± 1,59cm, nằm ở 1/3 giữa cơ thon. Các cuống mạch đầu xa còn lại đi vào cơ thon ở vị trí 1/3 xa cơ thon, cuống mạch xa nhất nằm gần vị trí tiếp giáp cơ - gân cơ thon (Bảng 3). Bảng 4: Đường kính của các cuống mạch đầu xa (mm) (N=30) Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Cuống 1 Cuống 2 Cuống 3 Cuống 4 1,99 ± 0,13 1,83 ± 0,10 1,72 ± 0,06 1,61 ± 0,03 1,72 1,66 1,63 1,58 2,19 1,99 1,80 1,64 Đường kính các cuống mạch đầu xa trong nghiên cứu của chúng tôi có kích thước lớn, tất cả đều hơn 1,5 mm (Bảng 4). Trong các cuống mạch, đường kính cuống xa đầu tiên thường lớn nhất. Các cuống xa hơn có đường kính nhỏ hơn. Khả năng tưới máu Chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang bởi các cuống xa còn lại sau khi kẹp cuống xa đầu tiên tương đối ngắn, 14,04 ± 2,16 cm, sau khi thả kẹp mạch máu thì chiều dài vạt cơ từ toàn bộ cuống xa dài hơn, 21,26 ± 2,26 cm (Bảng 5, 6). Bảng 5: Chiều dài vạt cơ được bơm chọn lọc (kẹp cuống xa đầu tiên) (cm) (N=30) Trung bình Ngắn nhất Dài nhất Cả nhóm 14,04 ± 2,16 7,9 17,1 Nhóm nam 14,01 ± 2,65 7,9 17,1 Nhóm nữ 14,08 ± 1,21 12,1 16,4 Bảng 6: Chiều dài vạt cơ thon được tưới máu bởi toàn bộ cuống mạch đầu xa(N=30) Trung bình Ngắn nhất Dài nhất Cả nhóm 21,26 ± 2,26 15,6 25,2 Nhóm nam 21,56 ± 2,39 15,6 25,2 Nhóm nữ 20,81 ± 2,07 18,1 24,2 Sự thông nối giữa các cuống mạch đầu xa Qua hình ảnh chụp X quang sau bơm cản quang của các mẫu nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận mỗi động mạch đầu xa cho các nhánh đi về 2 phía gần và xa thành hệ thống thông nối với các ĐM xung quanh. Một nửa đi ngược lên phía nguyên ủy cơ thon nối với các nhánh đi về phía xa cơ thon của cuống mạch đầu xa kế cận, riêng các nhánh về phía gần của cuống mạch đầu xa thứ 1 thì nối với nhánh của bó mạch chính. Nửa còn lại gồm các nhánh đi về phía bám tận cơ thon nối với các nhánh đi về phía gần của cuống mạch kế cận. Chúng tôi ghi nhận hệ thống thông nối này rất phong phú, sự thông nối từ ĐM đầu xa với các bó mạch kế cận về phía đầu gần ngấm chất cản quang đến 1/3 trên cơ, gần bó mạch chính. Tuy nhiên khoảng 1/3 chiều dài cơ thon đầu gần tính từ củ mu chúng tôi không thấy dấu hiệu ngấm chất màu cản quang trên x quang và sau xẻ cơ. Mẫu nghiên cứu có càng nhiều cuống đầu xa thì hệ thống thông nối càng phong phú, chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang dài và ngược lại các mẫu chỉ có 1,2 cuống đầu xa thì cho các nhánh thông nối ít hơn và chiều dài cơ ngấm chất cản quang ngắn hơn. BÀN LUẬN Trong 30 mẫu nghiên cứu, có sự hiện diện 100% của các cuống mạch đầu xa đi vào ở 2/3 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 50 dưới của cơ thon, số lượng cuống đầu xa dao động từ 1-4 cuống mạch, trung bình số cuống đầu xa trong nghiên cứu của chúng tôi khá lớn với 2,53 ± 0,82 cuống, có đến 80% số mẫu có 2-3 cuống đầu xa. Tổng hợp nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu khác trong và ngoài nước cho thấy sự hiện diện của các cuống mạch đầu xa là gần 100%, với số lượng các cuống mạch thay đổi từ 1-4 cuống mạch đầu xa. Tuy nhiên, có 1 tỷ lệ rất nhỏ các mẫu nghiên cứu (8,3% trong nghiên cứu của nhóm tác giả An X(5) không có cuống đầu xa, trong mẫu của chúng tôt chưa ghi nhận mẫu nào không có cuống mạch đầu xa. Có thể do mẫu chúng tôi không đủ lớn, chưa đại diện được cho toàn bộ dân số hoặc do bất thường giải phẫu trong 1 mẫu duy nhất của nghiên cứu An X. Tuy nhiên chúng tôi vẫn kiến nghị nên thực hiện đánh giá kỹ lưỡng sự tồn tại của cuống mạch đầu xa trước phẫu thuật dựa vào CT mạch máu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các cuống mạch đầu xa đều xuất phát từ động mạch đùi nông (94,74%) hoặc số ít xuất phát từ động mạch khoeo. Các mạch máu này đi giữa cơ may và cơ khép dài, đi theo hướng trong dưới, vào cơ thon ở đoạn 1/3 giữa và 1/3 xa, trên đường đi các mạch máu này không cho nhánh vào bất kỳ cơ nào khác. Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với của các tác giả Tiengo C(6), An X(5). Trong nghiên cứu của tác giả Lê Thị Lan Anh(7) năm 2015 ghi nhận phần lớn cuống mạch đầu xa cũng xuất phát từ động mạch đùi nông (79,2%) tuy nhiên tác giả còn ghi nhận 4,2% xuất phát từ động mạch gối xuống và 16,6% xuất phát từ động mạch đùi sâu. Điều này có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi chưa đủ lớn nên chưa ghi nhận những trường hợp này. Về vị trí các cuống mạch đầu xa đi vào cơ thon khi so sánh với các nghiên cứu trước của Cavadas PC(8), Tiengo, Whitaker IS(9) và nghiên cứu trong nước của tác giả Lê Thị Lan Anh(7) cho thấy khoảng cách từ nguyên ủy cơ thon tại củ mu đến cuống mạch đầu xa đầu tiên trong khoảng 15-28 cm, ở nghiên cứu của chúng tôi là 21,94 ± 1,59 cm. Khoảng cách này gần giống nhau giữa các nghiên cứu, ở 1/3 giữa của cơ thon. Kết quả này giúp các phẫu thuật viên dễ hơn trong xác định cuống mạch và thiết kế vạt cơ. Các cuống mạch đầu xa thứ 2, 3, 4 thay đổi giữa các nghiên cứu 25-36 cm, tuy nhiên đều đi vào 1/3 xa của bụng cơ thon và cuống xa nhất thường nằm tại vị trí tiếp giáp cơ – gân cơ thon. Về đường kính các mạch máu đầu xa nghiên cứu của chúng tôi và hầu hết các tác giả trong và ngoài nước đều cho kết quả đường kính các cuống mạch lớn, dao động trung bình từ 1-2 mm, trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,99 ± 0,13 mm, theo Schierle CF đường kính động mạch đầu xa ≥0,5 mm là điều kiện cần để xoay vạt(10). Về khả năng tưới máu chúng tôi phân tích chiều dài vạt cơ được cấp máu bởi toàn bộ các cuống mạch đầu xa, ghi nhận vạt cơ có chiều dài trung bình 21,26 ± 2,26 cm, không phụ thuộc giới tính hay chiều dài đùi, mà có mối tương quan thuận chặt chẽ với số lượng các cuống mạch đầu xa. Hay nói cách khác, cơ thon nào có càng nhiều cuống mạch đầu xa thì càng được tưới máu nhiều từ các cuống mạch này và ngược lại. Trong các mẫu nghiên cứu, khoảng 1/3 chiều dài cơ thon đầu gần tính từ củ mu chúng tôi không thấy dấu hiệu ngấm chất màu cản quang trên x quang và sau xẻ cơ. Đây là vùng mà các cuống mạch đầu xa không tưới máu lên được sau khi cột bó mạch chính đầu gần. Nếu thực hiện xoay vạt cơ thon ngược dòng dựa trên cuống mạch đầu xa thì đây chính là phần cơ thon có nguy cơ hoại tử do thiếu máu nuôi. Qua hình ảnh chụp X quang sau bơm cản quang của các mẫu nghiên cứu, chúng ta thấy rõ hệ thống thông nối giữa các cuống mạch đầu xa. Mỗi mạch máu đầu xa đi vào cơ thon sẽ chia thành các nhánh đi theo 2 hướng, một nửa đi ngược lên phía nguyên ủy cơ thon nối với các nhánh đi về phía xa cơ thon của cuống mạch gần hơn, nửa còn lại gồm các nhánh đi về phía bám tận cơ thon nối với các nhánh đi về phía gần của cuống mạch xa hơn kế cận. Hệ thống thông nối Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Ngoại Khoa 51 này rất phong phú, sự thông nối từ ĐM đầu xa với các bó mạch kế cận về phía đầu gần ngấm chất cản quang đến 1/3 trên cơ, gần bó mạch chính. Mẫu nghiên cứu có càng nhiều cuống đầu xa thì hệ thống thông nối càng phong phú, chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang càng dài và ngược lại các mẫu chỉ có 1,2 cuống đầu xa thì cho các nhánh thông nối ít hơn và chiều dài cơ ngấm chất cản quang ngắn hơn. Có thể lý giải do ở những mẫu có nhiều cuống xa liền kề, sự tưới máu qua các nhánh thông nối gần nhau sẽ dễ dàng hơn ở khoảng cách xa. Về mức độ che phủ vùng gối của vạt cơ thon ngược dòng dựa trên cuống mạch đầu xa, sau khi loại bỏ phần đầu gần không ngấm chất cản quang chúng tôi tiến hành khâu phục hồi giải phẫu lại như các vị trí đã dánh dấu, tiến hành xoay vạt cơ ngược dòng dựa trên tâm xoay là cuống xa thứ nhất, ước lượng diện tích vạt ngược dòng dựa trên cuống mạch đầu xa có thể che phủ vùng gối. Kết quả ghi nhận vạt cơ chủ yếu che phủ được vùng trên trong gối trung bình 71,90 ± 21,22%, nhỏ nhất 8,6%, lớn nhất 100%. Đây là vùng gần tâm xoay của cơ thon nhất nên diện tích che phủ là lớn nhất, tuy nhiên vẫn có những mẫu có vạt cơ rất ngắn (chỉ có 1 cuống đầu xa) nên diện tích che phủ cũng chỉ 8,6%. Tiếp theo là vùng trên ngoài, trung bình 52,05 ± 18,14%. Vùng dưới ngoài và dưới trong chỉ che phủ được rất ít, trung bình 12,81 ± 8,84% và 2,54 ± 4,54%, đây là 2 vùng xa nhất từ tâm xoay của vạt cơ ngược dòng, có rất ít mẫu vạt cơ có thể đi qua che phủ 2 vùng này. Điều này nói lên khuyết điểm của vạt cơ thon ngược dòng dựa trên các cuống mạch đầu xa chính là tầm mức che phủ của vạt khá ngắn, hầu như không thể độc lập che phủ vùng gối mà cần phối hợp với các phương tiện che phủ khác. KẾT LUẬN Luôn có sự hiện diện 100% của các cuống mạch đầu xa đi vào ở 2/3 dưới của cơ thon, phân bố dọc theo chiểu dài của cơ. Tất cả các cuống mạch đầu xa đều xuất phát từ động mạch đùi nông (94,74%) hoặc động mạch khoeo (5,26%), nằm giữa cơ may và cơ khép dài sau đó đi vào cơ thon. Số lượng cuống mạch đầu xa đi vào cơ thon thay đổi từ 1-4 cuống mạch, trung bình là 2,53 ± 0,82 cuống. Khoảng cách từ nguyên ủy cơ thoi tại củ mu đến cuống mạch đầu xa đầu tiên không bị ảnh hưởng bởi chiều dài đùi hay giới tính và tương đối hằng định tại phần 1/3 giữa đùi, trung bình 21,94 ± 1,59 cm. Đường kính các cuống mạch đầu xa dao động 1,5-2mm, trong nghiên cứu của chúng tôi đường kính các cuống mạch đầu xa theo thứ tự lần lượt có trung bình là 1,99 ± 0,13 mm, 1,83 ± 0,10 mm, 1,72 ± 0,06 mm, 1,61 ± 0,03 mm. Các cuống mạch đầu xa đi vào 2/3 giữa dưới cơ thon cho các nhánh đi về hai phía dọc theo chiều dài cơ thon tạo thành hệ thống thông nối phong phú với nhau. Cơ thon có càng nhiều cuống đầu xa thì hệ thống thông nối càng phong phú, chiều dài vạt cơ ngấm chất cản quang càng dài và ngược lại các mẫu chỉ có 1,2 cuống đầu xa thì cho các nhánh thông nối ít hơn và chiều dài cơ ngấm chất cản quang ngắn hơn. Chiều dài trung bình vạt cơ thon dựa trên toàn bộ các cuống mạch đầu xa dài trung bình 21,26 ± 2,39 cm, ngắn nhất 15,6 cm và dài nhất 25,2 cm. Vạt cơ thon ngược dòng dựa trên các cuống mạch đầu xa này có tầm mức che phủ hạn chế, chủ yếu che phủ được nửa trên của gối. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gravvanis A, Kyriakopoulos A, Kateros K,Tsoutsos D, et al (2014). Flap reconstruction of the knee: A review of current concepts and a proposed algorithm. World J Orthop, 5(5):603-13. 2. Nahabedian MY, Orlando JC, Delanois RE, Mont MA, et al (1998). Salvage procedures for complex soft tissue defects of the knee. Clin Orthop Relat Res, (356):119-24. 3. Daigeler A, Drucke D, Tatar K, Homann H, et al (2009). The pedicled gastrocnemius muscle flap: a review of 218 cases. Plast Reconstr Surg, 123(1):250-7. 4. Magden O, Tayfur V, Edizer M, et al (2010). Anatomy of gracilis muscle flap. J Craniofac Surg, 21(6):1948-50. 5. An X, Yue B, Lee JH, Lin C, et al (2012). Arterial anatomy of the gracilis muscle as determined by latex injection and glycerin transparency. Clin Anat, 25(2):231-4. 6. Tiengo C, Macchi V, Vigato E, Porzionato A, et al (2010). Reversed gracilis pedicle flap for coverage of a total knee prosthesis. J Bone Joint Surg Am, 92(7):1640-6. 7. Lê Thị Lan Anh (2015). Nghiên cứu giải phẫu ứg dụng vạt cơ thon ở người Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Dược Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 52 TP. Hồ Chí Minh. 8. Cavadas PC, Sanz-Giménez-Rico JR, Landín L, Soriano F, et al (2004). Segmental gracilis free flap based on secondary pedicles: anatomical study and clinical series. Plast Reconstr Surg, 114(3):684-91. 9. Whitaker IS, Karavias M, Shayan R, Roux C, et al (2012). The gracilis myocutaneous free flap: a quantitative analysis of the fasciocutaneous blood supply and implications for autologous breast reconstruction. PLoS One, 7(5):e36367. 10. Schierle CF, Rawlani V, Galiano RD (2009). Improving outcomes of the distally based hemisoleus flap: principles of angiosomes in flap design. Plast Reconstr Surg, 123(6):1748-54. Ngày nhận bài báo: 01/12/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
giai_phau_ung_dung_vat_co_thon_cuong_mach_dau_xa.pdf

