Giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân

Đặt vấn đề: Tần suất chấn thương trong lao động, thể thao và sinh hoạt ngày càng phổ biến và mức độ

phức tạp của tổn thương về gân và dây chằng rất phức tạp. Các phẫu thuật tái tạo ngày càng được cải tiến

và cho thấy vai trò quan trọng của gân ghép, gân cơ gan chân có thể được cắt lấy ra khỏi chân mà không ảnh

hưởng đáng kể chức năng chi. Do đó cơ gan chân được sử dụng làm mảnh ghép trong các phẫu thuật chỉnh

hình và tạo hình.

Mục tiêu: Xác định đặc điểm giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân ở người Việt Nam trưởng thành.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu (NC) mô tả cắt ngang được tiến hành trên 15 xác tươi

≥16 tuổi tại phòng xác của bộ môn Giải phẫu học – Trường Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân

Giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 59
GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG GÂN CƠ GAN CHÂN 
Dương Thành Nhân1, Đỗ Phước Hùng1,Hoàng Đức Thái1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tần suất chấn thương trong lao động, thể thao và sinh hoạt ngày càng phổ biến và mức độ 
phức tạp của tổn thương về gân và dây chằng rất phức tạp. Các phẫu thuật tái tạo ngày càng được cải tiến 
và cho thấy vai trò quan trọng của gân ghép, gân cơ gan chân có thể được cắt lấy ra khỏi chân mà không ảnh 
hưởng đáng kể chức năng chi. Do đó cơ gan chân được sử dụng làm mảnh ghép trong các phẫu thuật chỉnh 
hình và tạo hình. 
Mục tiêu: Xác định đặc điểm giải phẫu ứng dụng gân cơ gan chân ở người Việt Nam trưởng thành. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu (NC) mô tả cắt ngang được tiến hành trên 15 xác tươi 
≥16 tuổi tại phòng xác của bộ môn Giải phẫu học – Trường Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Có 30 cẳng chân được phẫu tích. Tuổi trung bình là 72,93 ± 10,56 tuổi. Tỷ lệ hiện diện gân là 
93,33%. Nguyên uỷ có 3 kiểu chính theo phân loại của Nazeer trong đó kiểu nguyên uỷ loại 3 xuất hiện nhiều 
nhất chiếm 51,37%. Chiều dài và chiều rộng trung bình của nguyên uỷ cơ gan chân lần lượt là 20,54 ± 1,85 mm, 
8,64 ± 0,45 mm. Khoảng cách trung bình từ nguyên uỷ cơ gan chân đến bó mạch khoeo là 14,63 ± 0,80 mm. Có 2 
biến thể đường đi A và B trong đó biến thể đường đi dạng A xuất hiện nhiều nhất chiếm 92,86%. Có 4 kiểu bám 
tận chính theo phân loại của Olewnik là loại 1, 2, 4 và 5 trong đó kiểu bám tận loại 1 gặp nhiều nhất chiếm 50%. 
Khoảng cách trung bình từ tâm diện bám tận cơ gan chân đến bó mạch chày sau là 12,52 ± 0,68 mm. Chiều dài 
gân trung bình chưa chập là 34,93 ± 1,48 cm, chập đôi là 16,94 ± 0,88 cm, chập ba là 11,28 ± 0,52 cm. Đường 
kính gân trung bình chưa chập là 1,63 ± 0,13mm, chập đôi là 2,13 ± 0,13 mm, chập ba là 2,50 ± 0,25 mm. 
Kết luận: Với sự hiện diện tương đối hằng định cùng với chiều dài và đường kính phù hợp thì gân cơ gan 
chân là một sự lựa chọn làm mảnh ghép cho các phẫu thuật viên trong các phẫu thuật tái tạo gân và dây chằng. 
Từ khoá: gân cơ gan chân 
ABSTRACT 
CLINICAL ANATOMY OF PLANTARIS TENDON 
Duong Thanh Nhan, Do Phuoc Hung, Hoang Duc Thai 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 59 - 65 
Background: The incidence of injuries in work, sports and daily activities is increasingly common and the 
complexity of these injuries is very diverse, especially tendons and ligament injuries., Reconstructive surgery is 
increasingly improved, which leads to the important role of the tendon graft, the plantaris tendon could be 
removed from the leg without significantly affecting limb function. Hence, the plantaris tendon could be used as a 
tendon graft in orthopedic and plastic surgery. 
Objectives: Determining the clinical anatomy of the plantaris tendon in Vietnamese adults. 
Methods: Research was carried out on fresh cadavers ≥16 years old at the Department of Anatomy - Ho Chi 
Minh City University of Medicine and Pharmacy from July 2019 to June 2020. 
Results: 30 legs were dissected. The average age was 72.93 ± 10.56. The average leg length was 32.32 ± 1.58 
cm. There were 3 main types of origins of plantaris muscle according to the Nazeer classification, of which type 3 
1Bộ môn Chấn Thương Chỉnh Hình ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Munh 
Tác giả liên lạc: BS. Dương Thành Nhân ĐT: 0708669340 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 60
was the most common type, accounting for 51.37%. The average length and width of the plantaris origin was 
20.54 ± 1.85 mm, 8.64 ± 0.45 mm respectively. The average distance from the plantaris origin to the popliteal 
neurovascular bundles was 14.63 ± 0.80mm. There were 2 plantaris tendon variants A and B, in which, variant 
A appeared the most, accounting for 92.86%. There were 4 main types of insertions of plantaris tendon according 
to the classification of Olewnik: type 1, 2, 4 and 5, of which, main type is type 1, accounting for 50%. The average 
distance from the center of the plantaris insertion to the posterior tibial vessels was 12.52 ± 0.68 mm. The average 
length of the tendon was 34.93 ± 1.48 cm, the two stranded graft was 16.94 ± 0.88 cm, the three stranded was 
11.28 ± 0.52 cm. The average diameter of the tendon was 1.63 ± 0.13 mm, the two stranded is 2.13 ± 0.13 mm, the 
three stranded is 2.50 ± 0.25 mm. 
Conclusions: With a relatively constant presence and appropriate length and diameter, the plantaris tendon 
is an autograft option for surgeons in tendon and ligament reconstructive surgery. 
Keywords : plantaris tendo 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay các phẫu thuật viên trên thế giới 
vẫn tiếp tục nghiên cứu (NC) và sử dụng nhiều 
loại gân tự thân làm mảnh ghép. Ở nước ta hiện 
nay các gân tự thân thường được sử dụng làm 
mảnh ghép tự thân là gân mác dài, gân gan tay 
dài, gân cơ gan chân... Trong đó gân cơ gan chân 
thường được các bác sĩ chỉnh hình trên thế giới 
sử dụng, Pagenstert GI(1)kết luận việc sử dụng 
gân cơ gan chân trong điều trị mất vững mắt cá 
ngoài mạn tính mang lại kết quả lâu dài tốt. Ở 
Việt Nam do ngân hàng mô chưa phát triển nên 
các phẫu thuật viên sử dụng chủ yếu nguồn 
mảnh ghép tự thân trong số đó có gân cơ gan 
chân. Tuy nhiên các bác sĩ chỉnh hình rất ít sử 
dụng gân cơ gan chân làm mảnh ghép, một 
trong những nguyên nhân có thể giải thích là do 
chưa hiểu biết đầy đủ về giải phẫu gân cơ gan 
chân nên nhiều phẫu thuật viên còn ngần ngại 
sử dụng chúng. Chúng tôi chưa tìm thấy bất cứ 
công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam mô tả đặc 
điểm giải phẫu, kích thước chiều dài cũng như 
việc ứng dụng gân cơ gan chân trên lâm sàng 
góp phần trả lời câu hỏi “giải phẫu gân cơ gan 
chân là như thế nào”, do đó chúng tôi tiến hành 
đề tài “Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu ứng 
dụng gân cơ gan chân”. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành xác tươi ≥16 tuổi 
tại phòng xác của bộ môn Giải phẫu học, Đại học 
Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 
07/2019 đến tháng 06/2020. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Xác tươi ≥16 tuổi tại phòng xác của bộ môn 
Giải phẫu học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Vùng đùi, gối và cẳng chân có những bất 
thường giải phẫu, bị phẫu tích hoặc bị tổn 
thương vùng cẳng chân, có bệnh lý mạch máu 
ngoại biên. Những trường hợp có chấn thương 
bệnh lý, bẩm sinh làm ngắn chi, nhỏ chi trên 
chân lấy gân. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
NC mô tả cắt ngang. 
Cõ mẫu 
30 mẫu cẳng chân lấy trên 15 xác người Việt 
Nam, gồm 9 nam, 6 nữ, tuổi từ 56 đến 89, trung 
bình là 73,25 tuổi. Xác đã được ướp formol và 
lưu trữ tại bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Phương pháp phẫu tích 
Để xác tư thế nằm sấp hoàn toàn bộc lộ rõ 
vùng khoe và vùng gót chân. Bộc lộ kĩ từng lớp, 
bóc tách hết lớp mỡ, lớp cân cơ theo vạt da về 
hai phía tới khi thấy rõ được hố khoeo và các 
thành phần trong hố khoeo, cơ vùng cẳng chân 
sau và xương gót. Bóc tách vùng hố khoeo để 
bộc lộ nguyên uỷ của cơ gan chân. Bóc tách đầu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 61
ngoài cơ bụng chân và quan sát đường đi của cơ 
gan chân đoạn cẳng chân giữa cơ dép và cơ 
bụng chân. Bóc tách gân cơ gan chân dọc theo 
chiều dài gân gót đến điểm bám tận, bộc lộ rõ 
điểm bám tận của gân cơ gan chân. 
Phân loại nguyên uỷ cơ gan chân theo tác giả Ahmed N(2) 
Loại 1: Từ mỏm trên lồi cầu ngoài ngay trên 
điểm bám tận đầu ngoài cơ bụng chân và có vài 
sợi xuất phát từ dây chằng khoeo chéo. 
Loại 2: Từ các vị trí sau: mỏm trên lồi cầu 
đùi, dây chằng khoeo chéo và vài sợi cơ từ bao 
khớp sau. 
Loại 3: Từ mỏm trên lồi cầu ngoài và mặt sau 
lồi cầu ngoài đùi. 
Loại 4: Từ mỏm trên lồi cầu ngoài, mặt sau 
lồi cầu ngoài, bao khớp sau và dây chằng cánh 
ngoài bánh chè. 
Loại 5: Từ mặt sau trong của lồi cầu ngoài đùi. 
Loại 6: Từ mỏm trên lồi cầu ngoài và xen kẽ 
với đầu ngoài cơ bụng chân. 
Phân loại đường đi ở cẳng chân 
Biến thể A gân cơ gan chân nằm ở cạnh trong 
gân gót và đường đi của nó bắt đầu bằng đi giữa 
cơ bụng chân và cơ dép cuối cùng đi vào vùng 
cẳng chân trong. Biến thể B cũng bắt đầu giống 
như biến thể A tuy nhiên sau khi ra khỏi đoạn đi 
giữa cơ bụng chân và cơ dép thì vào vùng cẳng 
chân trong lại đi phía trước gân gót. 
Phân loại bám tận theo tác giả Olewnik L(3) 
Loại 1: có đặc điểm là ở điểm bám tận ở lồi 
củ gót nằm cạnh trong gân gót, gân toả rộng như 
hình cánh quạt. 
Loại 2: có đặc điểm là ở điểm bám tận ở lồi 
củ gót nằm dọc theo cạnh trong gân góc nhưng 
không toả rộng cánh quạt như loại 1. 
Loại 3: có đặc điểm là điểm bám tận ở lồi củ 
gót nằm trước gân gót. 
Loại 4: có đặc điểm là điểm bám tận không 
nằm ở củ gót mà ở mạc cẳng chân sâu. Nó 
không có liên hệ với gân gót mà đi trước gân gót 
2,3-2,4 mm. 
Loại 5: có đặc điểm là điểm bám tận rất 
rộng và bao xung quanh mặt sau và mặt trong 
gân gót. 
Bóc tách điểm bám tận gân cơ chân ra khỏi 
xương gót và bóc tách cơ gan chân ra khỏi 
nguyên uỷ ở lồi cầu ngoài đùi, lấy toàn bộ phần 
gân cơ ra ngoài. Bóc tách hết phần cơ ra khỏi 
phần gân và ghi nhận số đo. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần 
mềm thống kê STATA phiên bản 14.0. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 759/HĐĐĐ ngày 
12/12/2019. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu 
thập được số liệu của 30 cẳng chân tại phòng xác 
bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y Dược Thành 
phố Hồ Chí Minh thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và 
không có tiêu chuẩn loại trừ. Chúng tôi ghi nhận 
kết quả như sau: 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi trung bình của cả mẫu nghiên cứu: 
72,93 ± 10,56. Đa số mẫu đều lớn tuổi chủ yếu 
trong khoảng 60-90 tuổi. Tỷ lệ nam của mẫu 
nghiên cứu chiếm 60%. 
Sự hiện diện gân cơ gan chân 
Tỷ lệ hiện diện gân của toàn bộ mẫu là 28/30 
(93,33%), trong đó có 2 mẫu cẳng chân của xác 
nữ không có hiện diện gân. Tuy nhiên, không có 
mối liên hệ giữa sự hiện diện gân và giới tính. 
Đặc điểm chân phẫu tích và giải phẫu gân cơ 
gan chân 
Chiều dài trung bình toàn bộ cẳng chân 32,32 
± 1,58 cm, ngắn nhất 30,20 cm, dài nhất 35,70 cm. 
Nguyên uỷ: Phần lớn có kiểu nguyên uỷ loại 
3 chiếm 51,37%, không có nguyên uỷ loại 4, 5 và 
6 (Hình 1). 
Kích thước nguyên uỷ cơ gan chân khá nhỏ 
so với các cơ trong vùng cẳng chân. Đây là dấu 
hiệu gián tiếp cho thấy chức năng cơ gan chân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 62
khá hạn chế. Nguyên uỷ cơ gan chân liên quan 
khá mật thiết với bó mạch khoeo. Cần hết sức 
cẩn thận nếu thực hiện các thủ thuật liên quan 
đến cơ này (Bảng 1). 
Hình 1: Phân loại kiểu nguyên uỷ cơ gan chân tại lồi 
cầu ngoài xương đùi 
Bảng 1: Bảng chiều dài và chiều rộng diện nguyên uỷ 
của cơ gan chân, Bảng khoảng cách từ nguyên uỷ đến 
bó mạch khoeo(N=28) 
 Số mẫu Trung bình (mm) 
Chiều dài 28 20,91 1,85 
Chiều rộng 28 8,64 0,45 
Khoảng cách từ nguyên uỷ 
đến bó mạch khoeo 
28 14,63 0,80 
Đường đi vùng cẳng chân của gân cơ gan 
chân chủ yếu nằm cạnh trong gân gót. Tuy 
nhiên, có vài trường hợp nằm trước gân gót do 
đó khi tìm gân cần chú ý điều này (Hình 2). 
Hình 2: Phân bố biến thể đường đi gân cơ gan chân ở 
cẳng chân 
Trong 28 mẫu cẳng chân có sự hiện diện gân 
cơ gan chân có 14 mẫu có kiểu bảm tận loại 1 
chiếm 50%, 6 mẫu có kiểu bám tận loại 2 chiếm 
21,43%, 6 mẫu có kiểu bám tận loại 5 chiếm 
21,43% và có 2 mẫu bám tận theo kiểu loại 4 
chiếm 7,14%. 
Bảng 2: Bảng phân loại kiểu bám tận gân cơ gan 
chân theo biến thể đường đi của gân ở cẳng chân 
(N=28) 
Biến thể đường đi của 
gân ở cẳng chân 
Loại bám tận Kiểm định 
Fisher 1 2 4 5 
Biến thể A 14 6 0 6 
F<0,05 
Biến thể B 0 0 2 0 
Có mối liên hệ giữa phân loại bám tận và 
biến thể đường đi (F <0,05), đối với biến thể A thì 
gân có kiểu bám tận loại 1, 2, 5 và đối với biến 
thể B gân có kiểu bám tận loại 4 (Bảng 2). 
Khoảng cách trung bình từ tâm diện bám tận 
cơ gan chân đến bó mạch chày sau là 12,52 ± 0,68 
mm, khoảng cách ngắn nhất là 11,07 mm, 
khoảng cách dài nhất là 13,37 mm. 
Đặc điểm kích thước gân cơ gan chân được 
ghi nhận trong Bảng 3, 4 và Hình 3. 
Bảng 3: Bảng mô tả và so sánh chiều dài gân ở của cả 
mẫu, chân phải và chân trái (N=28) 
 Số mẫu Chiều dài trung bình (cm) 
Chưa chập 28 34,93 1,48 
Chập đôi 28 16,94 0,88 
Chập ba 28 11,28 0,52 
Có sự tương quan giữa chiều dài gân và 
chiều dài cẳng chân (p <0,05), đây là tương quan 
thuận có nghĩa là khi chiều dài cẳng chân càng 
lớn thì chiều dài gân chưa chập, chập đôi và 
chập ba càng lớn. 
Phương trình hồi quy tuyến tính: 
Y(cm) = 13,1477 + 0,6723X (cm). 
Với X là chiều dài cẳng chân và Y là chiều 
dài gân. 
Bảng 4: Bảng mô tả và so sánh đường kính gân 
(N=28) 
 Số mẫu Độ lệch chuẩn (mm) 
Chưa chập 28 1,63 0,13 
Chập đôi 28 2,13 0,13 
Chập ba 28 2,50 0,25 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 63
Không có mối liên quan giữa đường kính 
gân với giới tính hay chân bên Phải-Trái. 
Không có sự tương quan giữa đường kính 
gân và chiều dài cẳng chân (p >0,05). 
Hình 3: Sự tương quan chiều dài gân chưa chập và 
chiều dài cẳng chân 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm tuổi, giới tính 
Tuổi trung bình mẫu cao do số mẫu chúng 
tôi chưa đủ lớn và chưa phản ảnh thực tế so với 
dân số chung, do vậy kết quả nghiên cứu có thể 
sai lệch so với dân số chung. 
Sự hiện diện của gân 
Trong 30 cẳng chân trong mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi thì có 28 cẳng chân có sự hiện diện 
của cơ gan chân, chiếm 93,33% và có 2 cẳng chân 
ở cùng một mẫu xác không có sự hiện diện của 
cơ gan chân chiếm 6,67%. Không có mỗi liên 
quan giữa giới tính và sự hiện diện của gân p 
>0,05. Kết quả này tương tự với tác giả Olewnik 
L(3) là 10,80% và Mobin N(4) là 6,67%. 
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi và tra cứu 
các kết quả nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ hiện 
diện gân cơ gan chân khá cao, hơn 90%, tuy nhiên 
có khoảng 10% không có gân. Vì vậy cơ gan chân 
là một cấu trúc giải phẫu khá hằng định. 
Đặc điểm chân phẫu tích và giải phẫu ứng 
dụng gân cơ gan chân 
Chiều dài cẳng chân 
Tra cứu nghiên cứu trong nước chúng tôi 
chưa tìm thấy nghiên cứu nào về chiều dài 
cẳng chân trên dân số việt nam. Đối với các 
nghiên cứu trên thế giới về cơ gan chân chúng 
tôi cũng không tìm được số liệu thống kê chiều 
dài cẳng chân. 
Đặc điểm nguyên uỷ cơ gan chân 
Bảng 5: Bảng phân loại nguyên uỷ cơ gan chân trong 
các nghiên cứu 
Nghiên cứu Loại 1 Loại 2 Loại 3 Loại 4 Loại 5 
Neeraj K 
(2017)
(
5
)
25% 17,80% 46,40% 7,10% 3,60% 
Mobin N 
(2016)
(
4
)
20,68% 24,13% 44,82% 8,62% 5,17% 
Chúng tôi 
(2020) 
20,72% 27,92% 51,37% 0% 0% 
Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương tự với 
nghiên cứu của tác giả Mobin N(4) và Neeraj K(5) 
(Bảng 5). Và trong tất cả các mẫu quan sát thì 
nguyên uỷ 2 chân phải và trái giống nhau hoàn 
toàn. Chúng tôi không tìm thấy nghiên cứu khác 
ghi nhận các kích thước về chiều dài cũng như 
chiều rộng nguyên uỷ cơ gan chân. Đặc điểm 
giải phẫu nguyên uỷ của cơ gan chân chủ yếu là 
bám ở mặt sau lồi cầu ngoài ngay kế cận nguyên 
uỷ đầu ngoài cơ bụng chân và cho các thớ sợi 
đến mỏm trên lồi cầu ngoài, dây chằng khoeo 
chéo hoặc bao khớp sau. Các thớ sợi theo mỏm 
trên lồi cầu ngoài sẽ đi ngay phía trước của thần 
kinh mác chung và đầu dài cơ nhị đầu. Phía 
trong nguyên uỷ cơ gan chân chính là cấu trúc 
bó mạch thần kinh khoeo theo thứ tự từ ngoài 
vào trong là thần kinh chày sau, tĩnh mạch 
khoeo và động mạch khoeo. 
Qua đó chúng tôi thấy được nguyên uỷ cơ 
gan chân rất gần với cấu trúc bó mạch thần kinh 
khoeo và thường được ngăn cách bởi một lớp 
mỡ dày. Điều này rất quan trọng khi chúng ta áp 
dụng kỹ thuật lấy gân từ đầu gân hay lấy gần từ 
nguyên uỷ cơ gan chân vì nếu bóc tách quá cao 
đến càng gần nguyên uỷ thì nguy cơ tổn thương 
bó mạch thần kinh khoeo càng có thể xảy ra. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 64
Sau khi xuất phát từ lồi cầu ngoài thì cơ gan 
chân dần chuyển thành chỗ nối gân cơ và hướng 
đi dần vào trong nằm giữa cơ dép và cơ bụng 
chân trước khi chuyển thành gân hoàn toàn và 
vào vùng cẳng chân. Dựa vào nguyên uỷ, cấu 
trúc xung quanh và đường đi, hướng đi của gân 
cơ gan chân sẽ giúp xác định vị trí gân khi lấy 
gân từ đầu gần và khi lấy gân chúng ta nên 
hướng dụng cụ theo hướng đi của gân để hạn 
chế tổn thương cấu trúc giải phẫu xung quanh. 
Đường đi và bám tận 
Sau khi qua vùng khoeo, phần gân cơ đi 
xuống cẳng chân theo cạnh trong và nằm phía 
trước cơ bụng chân, kết thúc bằng một gân dài 
mảnh đi giữa cơ bụng chân và cơ dép và dọc 
theo cạnh trong gân gót. Tuỳ vào đường đi của 
gân mà theo Olewnik L(3) chia thành biến thể A 
và biến thể B và theo kết quả chúng tôi ghi nhận 
trên 28 mẫu cẳng chân có sự hiện diện gân cơ 
gan chân thì có 26 mẫu có biến thể đường đi 
dạng A chiếm 92,86% và 2 biến thể đường đi 
dạng B chiếm 7,14%. Và biến thể đường đi giống 
nhau xuất hiện ở 2 cẳng chân của cùng 1 mẫu 
xác tươi. Dùng phép kiểm Chi bình phương thì 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
biến thể đường đi và giới tính p >0,05. Trong 
nghiên cứu của tác Olewnik L(3) thì biến thể A 
chiếm 84,50% và biến thể B chiếm 15,50% trong 
mẫu quan sát, và biến thể đường đi giữa chân 
bên phải hay trái hoặc giới tính khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê. Biến thể đường đi khác 
nhau chủ yếu do khác biệt về loại bám tận và 
chúng tôi sẽ đề cập sau đây. 
Trong nghiên cứu chúng tôi, 28 mẫu cẳng 
chân có sự hiện diện gân cơ gan chân có 14 mẫu 
có kiểu bảm tận loại 1 chiếm 50%, 6 mẫu có kiểu 
bám tận loại 2 chiếm 21,43%, 6 mẫu có kiểu bám 
tận loại 5 chiếm 21,43% và có 2 mẫu bám tận 
theo kiểu loại 4 chiếm 7,14%. 
Dựa vào Bảng 5 thì kết quả quan sát của 
chúng tôi khá tương đồng với các nghiên cứu 
của Olewnik L(3), riêng phân loại 3 theo tác giả 
có tần suất nhiều hơn loại 4 nhưng trong 
nghiên cứu chúng tôi không có mẫu nào thuộc 
bám tận loại 3 và loại 6, sự khác biệt này có thể 
do khác biệt về chủng tộc hoặc do số lượng 
mẫu chưa đủ lớn. 
Đối với biến thể A thì có kiểu bám tận loại 1, 
2 và 5, còn đối với biến thể B thì trong mẫu 
nghiên cứu ghi nhận bám tận loại 4. Có thể lý 
giải vì biến thể đường đi B có hướng đi trước 
gân gót nên phù hợp với loại bám tận nằm trước 
gân gót mà cụ thể là loại 3 và 4. Trước khi phẫu 
thuật cần có phương tiện khảo sát sự hiện diện 
của gân cơ gan chân và trong quá trình phẫu 
thuật cần lưu ý bộc lộ sâu hơn phía trước gân 
gót để tìm sự hiện diện gân cơ gan chân đối với 
biến thể B và loại bám tận 3, 4, 6. Khoảng cách 
trung bình từ tâm diện bám tận cơ gan chân đến 
bó mạch chày sau là 12,52 ± 0,68 mm. Không có 
nghiên cứu nào khác ghi nhận khoảng cách này. 
Chúng ta có thể thấy khoảng cách từ diện bám 
tận đến bó mạch chày sau rất gần, tuy nghiên 
giữa chúng có lớp mỡ và cân dày bao phủ bó 
mạch chày sau. 
Đặc điểm kích thước gân cơ gan chân 
Qua bảng nghiên cứu chúng tôi cho con số 
chiều dài gân chưa chập trung bình của cả mẫu 
là 34,93 ± 1,48 cm, chiều dài nhỏ nhất là 32,80 cm, 
chiều dài lớn nhất là 37,60 cm, kết quả này tương 
đồng với một số nghiên cứu của tác giả Ahmed 
N(5), Mobin N(4) 32,32 cm. Sự khác biệt này có thể 
lý giải là các tác giả như Mobin N(4) nghiên cứu 
trên xác ướp formol, phần gân lẫn trong cơ trên 
xác ướp formol không xác định được, trong khi 
đó các mẫu xác tươi trong nghiên cứu của chúng 
tôi lấy luôn phần gân lẫn trong cơ nên cho kết 
quả chiều dài gân dài hơn. Chúng tôi không tìm 
ra nghiên cứu nào xác định chiều dài của gân cơ 
gan chân sau khi chập. So sánh chiều dài gân với 
giới tính và chân phải - trái thì không có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p >0,05. 
Tra cứu trong y văn và các nghiên cứu trên 
thế giới chỉ có nghiên cứu của tác giả Jakubietz 
MG(6) là đo đường kính gân cơ gan chân với kết 
quả chân phải: 1,99 1 mm và chân trái: 2,30 
1,10 mm lớn hơn với đường kính gân chưa chập 
của chúng tôi. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 65
Có thể thấy đường kính gân cơ gan chân 
trong nghiên cứu chúng tôi rất nhỏ nhưng vì 
chiều dài tương đối lớn nên có thể cải thiện 
bằng cách chập đôi và chập ba để tăng số đo 
đường kính. 
KẾT LUẬN 
Cơ gan chân cùng với cơ bụng chân tham gia 
chức năng vận động khớp cổ chân và khớp gối, 
tuy nhiên cơ gan chân có thể được cắt lấy ra khỏi 
chân mà không ảnh hưởng đáng kể chức năng 
chi. Với tỷ lệ hiện diện tương đối hằng định và 
kích thước phù hợp, gân cơ gan chân được có 
thể sử dụng làm mảnh ghép trong các phẫu 
thuật chỉnh hình và tạo hình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Pagenstert GI, Hintermann B, and Knupp M (2006). Operative 
management of chronic ankle instability: plantaris graft. Foot and 
Ankle Clinics, 11(3):567-583. 
2. Ahmed N and Sarwari KN (2013). Morphological variations 
and surgical importance of the plantaris muscle in humans. 
Indian Journal of Fundamental and Applied Life Sciences, 3(4):342-
346. 
3. Olewnik Ł, Wysiadecki G, Polguj M, et al (2017). Anatomic 
study suggests that the morphology of the plantaris tendon may 
be related to Achilles tendonitis. Surgical and Radiologic Anatomy, 
39(1):69-75. 
4. Mobin N (2016). Anatomical variations of plantaris muscle: a 
cadaveric study. Int J Anat Res, 4(2):2196-2199. 
5. Neeraj K, Anupriya K, and Sunil NT (2017). Study of anatomical 
variations of plantaris muscle in cadaver. International Journal of 
Scientific Research, 6(5):566-567. 
6. Jakubietz MG, Jakubietz DF, Gruenert JG, et al (2011). Adequacy 
of palmaris longus and plantaris tendons for tendon grafting. J 
Hand Surg Am, 36(4):695-698. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phau_ung_dung_gan_co_gan_chan.pdf