Giải phẫu ứng dụng dây chằng chè đùi trong khớp gối người Việt Nam

Đặt vấn đề: Trật khớp chè đùi sau chấn thương là một tổn thương cơ xương thường gặp trong cấp cứu ở

lứa tuổi vị thành niên và thanh niên với 94-100% trường hợp liên quan đến tổn thương dây chằng chè đùi trong.

Các nghiên cứu hiện có về giải phẫu dây chằng chè đùi trong còn nhiều tranh cãi và chưa thống nhất. Nắm vững

được giải phẫu của dây chằng chè đùi trong là yêu cầu cần thiết của phẫu thuật tái tạo dây chằng chè đùi trong

theo giải phẫu. Nghiên cứu này xác định đặc điểm giải phẫu của dây chằng chè đùi trong ở khớp gối của người

Việt Nam.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca. Chúng tôi thực hiện phẫu tích 30 mẫu gối từ 20

xác tươi và 10 xác ướp được lưu trữ tại bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, sau đó

xác định đặc điểm giải phẫu của dây chằng chè đùi trong ở khớp gối và khảo sát sự thay đổi chiều dài của dây

chằng này ở các mức gấp gối từ 0o đến 90o. Trên cơ sở các đặc điểm giải phẫu thu nhận được, chúng tôi tiến hành

đề nghị điểm đặt mảnh ghép tái tạo dây chằng chè đùi trong và tư thế gối cố định mảnh ghép trong phẫu thuật

pdf 8 trang phuongnguyen 440
Bạn đang xem tài liệu "Giải phẫu ứng dụng dây chằng chè đùi trong khớp gối người Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải phẫu ứng dụng dây chằng chè đùi trong khớp gối người Việt Nam

Giải phẫu ứng dụng dây chằng chè đùi trong khớp gối người Việt Nam
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG DÂY CHẰNG CHÈ ĐÙI 
TRONG KHỚP GỐI NGƯỜI VIỆT NAM 
Hoàng Quốc Anh1, Đỗ Phước Hùng2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trật khớp chè đùi sau chấn thương là một tổn thương cơ xương thường gặp trong cấp cứu ở 
lứa tuổi vị thành niên và thanh niên với 94-100% trường hợp liên quan đến tổn thương dây chằng chè đùi trong. 
Các nghiên cứu hiện có về giải phẫu dây chằng chè đùi trong còn nhiều tranh cãi và chưa thống nhất. Nắm vững 
được giải phẫu của dây chằng chè đùi trong là yêu cầu cần thiết của phẫu thuật tái tạo dây chằng chè đùi trong 
theo giải phẫu. Nghiên cứu này xác định đặc điểm giải phẫu của dây chằng chè đùi trong ở khớp gối của người 
Việt Nam. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca. Chúng tôi thực hiện phẫu tích 30 mẫu gối từ 20 
xác tươi và 10 xác ướp được lưu trữ tại bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, sau đó 
xác định đặc điểm giải phẫu của dây chằng chè đùi trong ở khớp gối và khảo sát sự thay đổi chiều dài của dây 
chằng này ở các mức gấp gối từ 0o đến 90o. Trên cơ sở các đặc điểm giải phẫu thu nhận được, chúng tôi tiến hành 
đề nghị điểm đặt mảnh ghép tái tạo dây chằng chè đùi trong và tư thế gối cố định mảnh ghép trong phẫu thuật. 
Kết quả: Tỉ lệ hiện diện của dây chằng chè đùi trong là 93,33%. Dây chằng là cấu trúc thớ sợi dạng dải 
băng, bám từ xương bánh chè đến xương đùi, có hình dạng rẻ quạt và đồng hồ cát. 100% trường hợp dây chằng 
chè đùi trong có chiều rộng ở diện bám xương bánh chè lớn hơn diện bám xương đùi và được cơ chéo rộng trong 
che phủ mặt trong. Ở mẫu gối tươi, chiều dài trung bình của dây chằng ở tư thế gối duỗi là 60,23 ± 6,14mm. Vị 
trí tâm diện bám tại xương đùi của dây chằng so với củ cơ khép và mỏm trên lồi cầu trong không hằng định. Dây 
chằng chè đùi trong có chiều dài lớn nhất ở tư thế gối duỗi, giảm dần khi gấp gối từ 0o đến 90o. 
Kết luận: Trong phẫu thuật tái tạo dây chằng chè đùi trong, lựa chọn vị trí đặt mảnh ghép theo giải phẫu 
rất quan trọng, đặc biệt đối với điểm đặt tại xương đùi. Tuy nhiên do vị trí của tâm diện bám so với củ cơ khép và 
mỏm trên lồi cầu trong ở nghiên cứu của chúng tôi không hằng định nên cần có những nghiên cứu sau để xác 
định điểm đặt tối ưu cho mảnh ghép. 
Từ khóa: dây chằng chè đùi trong, mất vững khớp chè đùi 
ABSTRACT 
CLINICAL ANATOMY OF VIETNAMESE MEDIAL PATELLOFEMORAL LIGAMENT 
Hoang Quoc Anh, Do Phuoc Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 07 - 14 
Background: Traumatic patella dislocation is a common skeletalmuscular injuries found in young and 
aldolescent patients, associated with medial patellfemoral ligament rupture in 94–100 %. The medial 
patellofemoral ligament is a band of retinacular tissue within layer II of the medial side of knee and as the main 
medial soft tissue stabiliser of the patella. This structure’s anatomy has widely been described. but doubt still 
persists particularly concerning the precise location of its femoral insertion and its length change pattern. 
Positioning the femoral insertion of the graft during MPFL reconstruction is a key point of the procedure since it 
1Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TP. HCM 
2Bộ môn Chấn thương Chỉnh hình & Phục hồi Chức năng, Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Hoàng Quốc Anh ĐT: 0902603609 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8
allows anatomic adjustments of the graft resulting in a good clinical outcome. The aim of this study was to 
investigate the anatomy of the medial patellofemoral ligament (MPFL) in cadaver specimens to determine an 
anatomical basis for the best MPFL reconstruction. 
Methods: Case series report. Dissections were performed and measurements were made for thirty cadaveric 
knees followed by investigaton of the shape, the size, the patellar and femoral insertion and all the other 
relationships with medial structures of the knee. 
Results: Present in 93.33% specimens, the medial patellofemoral ligament is a fibrous, band-like tissue, 
originated from the patella, goes medially and inserts into the medial condyle of the femur. In fresh-frozen 
cadaveric specimens, the mean length of the medial patellofemoral ligament was 60.23 ± 6.14mm. Neither the 
relationship between the location of the center of insertion of the medial patellofemoral ligament and the medial 
epicondyle or the adductor tubecule was consistent. The length of the medial patellofemoral ligament was longest 
when the knee is in full extension and gradually decreased when the knee is flexed. 
Conclusions: For the MPFL reconstruction, choice of graft placement positions is key point to success, 
especially with femoral position. However, due to variaties of femoral insertion in our study, further studies need 
to be done to locate the optimal graft placement position. 
Keywords: medial patellofemoral ligament, patellofemoral joint, patellofemoral instability 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trật khớp chè đùi sau chấn thương là một 
tổn thương cơ xương thường gặp trong cấp cứu 
ở lứa tuổi vị thành niên và thanh niên(1). Trong 
các tổn thương khớp gối, bệnh lý này chiếm tỉ lệ 
2% - 3% và là nguyên nhân đứng hàng thứ hai 
gây nên tình trạng tụ máu ở khớp gối, trong đó 
61% liên quan đến chấn thương thể thao(1,2). 
Trật khớp chè đùi ra ngoài cấp tính liên quan 
đến tổn thương dây chằng chè đùi trong (Medial 
PatelloFemoral Ligament, viết tắt MPFL) chiếm 
tỉ lệ 94% - 100%(3). MPFL nằm ở lớp thứ hai của 
mặt trong gối (theo phân loại của Warren và 
Marshall) và là cấu trúc cố định tĩnh bên trong có 
vai trò quan trọng nhất để cố định xương bánh 
chè, đặc biệt trong tầm gấp gối 0o – 30o(4,5). 
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm và phương 
pháp điều trị cho tình trạng trật khớp chè đùi 
sau chấn thương, bao gồm: điều trị bảo tồn, 
phẫu thuật sửa chữa và phẫu thuật tái tạo 
MPFL. Các nghiên cứu trước đây cho thấy điều 
trị bảo tồn hay phẫu thuật sửa chữa MPFL sau 
chấn thương chưa chứng minh được hiệu quả 
điều trị. Đến năm 1992, Gomes đã công bố ca 
phẫu thuật tái tạo MPFL và báo cáo sau 5 năm 
điều trị cho kết quả tốt(6). Camanho GL năm 2009 
cũng chứng minh phẫu thuật tái tạo MPFL trên 
những đối tượng bệnh nhân trật khớp chè đùi có 
tổn thương MPFL khu trú cho kết quả vượt trội 
so với nhóm bệnh nhân được điều trị bảo tồn(7). 
Vì vậy, hiện nay phẫu thuật tái tạo MPFL bằng 
phương pháp mổ hở hay nội soi được áp dụng 
rộng rãi ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. 
Phẫu thuật tái tạo MPFL không chính xác về 
mặt giải phẫu có thể dẫn đến giảm tầm vận 
động gối, đau gối, thất bại mảnh ghép, rộng 
đường hầm, trật khớp chè đùi tái diễn, tăng áp 
lực mặt khớp chè đùi trong dẫn đến thoái hoá 
sớm khớp chè đùi trong(5,8,9,10). Hiểu rõ đặc điểm 
giải phẫu MPFL sẽ giảm được nguy cơ thất bại 
điều trị. 
Tỉ lệ hiện diện của MPFL là 35% - 100% 
trong các nghiên cứu nước ngoài(11). Tuy nhiên, 
cho đến nay đặc điểm giải phẫu của MPFL vẫn 
chưa có sự đồng thuận. Trong đó, diện bám tại 
xương đùi và đặc điểm cơ sinh học khác nhau 
giữa các nghiên cứu gây không ít bàn cãi và khó 
khăn cho các phẫu thuật viên trong việc lựa chọn 
điểm đặt mảnh ghép tái tạo cũng như lựa chọn 
tư thế gối khi cố định mảnh ghép. 
Hiện nay ở Việt Nam chưa có công trình 
nghiên cứu mô tả về giải phẫu của MPFL được 
công bố. Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 9
nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này 
nhằm xác định đặc điểm giải phẫu của MPFL ở 
khớp gối của người Việt Nam. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
30 mẫu gối từ xác tươi và xác ướp được lưu 
trữ tại Bộ môn Giải phẫu học – Đại học Y Dược 
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian thực 
hiện nghiên cứu (01/2020-08/2020). 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Gối xác tươi và xác ướp ≥18 tuổi được lưu 
trữ tại bộ môn Giải phẫu học – Đại học Y Dược 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Khớp gối có dị tật bẩm sinh, có bằng chứng 
chấn thương vùng gối khi phẫu tích như: gãy 
vùng đầu dưới xương đùi, gãy đầu trên xương 
chày, tổn thương mặt trong khớp gối 
Khớp gối có bằng chứng can thiệp phẫu 
thuật. 
Khớp gối có bướu làm thay đổi cấu trúc bình 
thường của khớp gối. 
Hư khớp gối trên đại thể. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Phương pháp thực hiện 
Mẫu gối được cố định và đặt ở tư thế duỗi 
(được xác nhận bằng thước đo góc), ngửa, rạch 
da theo đường giữa gối từ 10 cm trên xương 
bánh chè đến dưới lồi củ chày 5 cm. Ở cực trên 
và cực dưới đường rạch giữa, rạch da mặt trong 
với chiều dài tương ứng 1/3 chu vi đùi và 1/3 chu 
vi cẳng chân, vuông góc với đường rạch giữa. 
Sau đó lật vạt da vào trong, ra sau, bóc tách lớp 
mỡ, mô dưới da, đến lớp cân cơ để bộc lộ cấu 
trúc mặt trong vùng gối. 
Bóc tách cẩn thận lớp thứ nhất của mặt trong 
khớp gối (liên tục với cân mạc đùi) để bộc lộ các 
cấu trúc thuộc lớp thứ hai của mặt trong khớp 
gối (bao gồm lớp nông dây chằng bên trong và 
MPFL). Chỗ bám vào bánh chè và gân cơ tứ đầu 
đùi của cơ chéo rộng trong (Vastus Medialis 
Oblique muscle) được giải phóng để bộc lộ diện 
bám trên bánh chè của MPFL. Diện bám tại 
xương đùi của MPFL được xác định bằng cách 
đặt Kelly phía sau dây chằng, bóc tách theo 
đường đi các thớ sợi của MPFL về phía xương 
đùi cho đến khi chạm xương. Quan sát và ghi 
nhận sự liên quan của MPFL với các cấu trúc 
thuộc mặt trong khớp gối. 
Tâm diện bám được xác định theo hình dạng 
diện bám lúc phẫu tích. Tâm diện bám của 
MPFL tại xương bánh chè được đánh dấu bằng 1 
kim, kí hiệu A. Tâm diện bám của dây chằng tại 
xương đùi được đánh dấu bằng 1 kim khác, kí 
hiệu là B. 
Chiều dài của MPFL là khoảng cách giữa 2 
điểm AB ở tư thế gối 0o(xác tươi và xác ướp), 30o, 
60o, 90o (xác tươi). 
Chiều rộng của MPFL được đo ở 3 vị trí: tại 
diện bám xương bánh chè, tại vị trí 1/3 giữa và 
tại diện bám xương đùi. 
Xác định đặc điểm giải phẫu diện bám tại 
xương đùi của MPFL so với mỏm trên lồi cầu 
trong và củ cơ khép bằng cách đo khoảng cách 
ngang và khoảng cách dọc từ tâm diện bám 
của MPFL đến 2 mốc xương này theo hệ trục 
toạ độ: gốc hệ trục đi qua mốc xương, trục 
hoành song song với mặt khớp gối, trục tung 
vuông góc trục hoành. Mối tương quan về vị 
trí của tâm diện bám so với mốc xương được 
xác định trên-dưới, trước-sau. 
Tất cả các phép đo đạc được sử dụng bằng 
thước kẹp Caliper, đơn vị mm, được thực hiện 
bởi cùng một người. 
Phân tích số liệu 
Kết quả được mã hoá, phân tích số liệu 
bằng phần mềm Stata 14.0. Sử dụng phép kiểm 
T-student để khảo sát sự khác biệt về mặt 
thống kê của các chỉ số đo. Kết quả được trình 
bày nghiên cứu bằng Word 2019 dưới dạng 
bảng, biểu đồ và hình. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 10
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 26/HĐĐĐ ngày 
06/01/2020. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 01/2020 đến tháng 8/2020, chúng 
tôi đã thực hiện tiến hành nghiên cứu trên 30 
mẫu gối từ 20 mẫu xác tươi và 10 mẫu xác ướp 
được lưu trữ tại Bộ môn Giải phẫu học – Đại học 
Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Hình 1: Dây chằng chè đùi trong ở mẫu gối trái * 
(Nguồn: Tư liệu nghiên cứu, mẫu 785) 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Độ tuổi trung bình khi mất của các xác là 
72,43 ± 8,70 tuổi, với độ tuổi thấp nhất khi mất là 
56 tuổi, độ tuổi cao nhất khi mất là 89 tuổi. 
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ 
mẫu gối có giới nam so với nữ là 1,73:1, tỷ lệ 
mẫu gối vị trí trái so với phải là 1:1. 
Đặc điểm giải phẫu của MPFL 
Dây chằng là cấu trúc thớ sợi, dạng daỉ băng, 
nằm ở lớp thứ hai (theo phân loại Warren và 
Marshall), bám từ xương bánh chè đến xương 
đùi (Hình 1). Tỉ lệ hiện diện của MPFL là 93,33%. 
Dây chằng có 2 hình dạng: hình rẻ quạt 
(53,57%) và hình đồng hồ cát (46,43%). 
Chiều dài trung bình ở tư thế gối duỗi của 
MPFL là 60,23 ± 6,14mm (52,14 – 75,47mm) trên 
xác tươi và 55,49 ± 12,09mm (31,12 – 71,90mm) 
trên xác ướp. 
Bảng 1: Chiều dài trung bình của MPFL ở mẫu gối 
tươi theo tư thế gối (n=19) 
Tư thế gối Chiều dài trung bình của MPFL (mm) 
0
o 
60,23 ± 6,14 
30
o
 56,23 ± 4,37 
60
o
 54,97 ± 4,37 
90
o
 54,01 ± 4,21 
Ở mẫu gối tươi có hiện diện MPFL, dây 
chằng có chiều dài trung bình lớn nhất là 
60,23mm ở tư thế gối 0o và nhỏ nhất là 
54,01mm ở tư thế gối 90o. Chiều dài của MPFL 
có xu hướng giảm dần khi gấp gối từ 0o đến 
90o (Bảng 1). 
Hình 2: Chiều dài trung bình của MPFL ở các tư thế 
gấp gối (n=19) 
Theo Hình 2, MPFL có chiều dài trung bình 
lớn nhất ở tư thế gối 0o, chiều dài giảm dần ở các 
mức độ gấp gối từ 0o đến 90o, với sự thay đổi lớn 
về chiều dài ở tầm gấp gối từ 0o đến 30o, tương 
đối đẳng trường ở mức gấp gối 60o-90o. 
Ở mẫu gối có hiện diện của MPFL, 100% 
trường hợp chiều rộng của dây chằng tại diện 
bám xương bánh chè lớn hơn diện bám tại 
xương đùi (Bảng 2). 
Bảng 2: Chiều rộng trung bình của MPFL ở mẫu gối 
tươi theo tư thế gối (đơn vị: mm) 
Chiều rộng Xác tươi (n=19) Xác ướp (n=9) 
Tại diện bám xương đùi 8,08 ± 2,71 mm 8,21 ± 3,20 mm 
Tại 1/3 giữa dây chằng 9,09 ± 4,44 mm 7,69 ± 4,48 mm 
Tại diện bám xương 
bánh chè 
23,31 ± 7,97 mm 16,19 ± 7,62 mm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 11
Hình 3: Vị trí tâm diện bám so với mỏm trên lồi cầu 
trong 
So với mỏm trên lồi cầu trong, tâm diện 
bám của MPFL nằm ở vị trí phía trên, phía sau 
(71,43%) và phía trên, phía trước (28,57%) 
(Hình 3). 
So với củ cơ khép, tâm diện bám của MPFL 
nằm ở vị trí phía dưới, phía sau (57,14%) và phía 
dưới, phía trước (42,86%) (Hình 4). 
Hình 4: Vị trí tâm diện bám so với củ cơ khép 
MPFL có liên hệ với lớp nông dây chằng bên 
trong khớp gối bằng 1 trẽ cân, bám từ bờ dưới 
của MPFL đến bờ trước của lớp nông dây chằng 
bên trong khớp gối (67,86%). 
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, 92,86% 
trường hợp MPFL bám trực tiếp vào xương 
bánh chè, 7,14% trường hợp dây chằng hoà cùng 
với cơ chéo rộng trong và đến bàm vào nơi bám 
của cơ chéo rộng trong. Chúng tôi còn ghi nhận 
được có 28,57% trường hợp dây chằng có các thớ 
sợi đến bám vào bờ trong gân cơ tứ đầu đùi. 
Tất cả 28 mẫu khớp gối có hiện diện của 
MPFL, dây chằng được cơ chéo rộng trong phủ 
một phần ở bờ trên, mặt trong và có trẽ cân bám 
vào bao cơ chéo rộng trong. Hầu hết các trường 
hợp MPFL có thể bóc tách hoàn toàn khỏi cơ 
chéo rộng trong (75%); có trường hợp dây chằng 
dính một phần với cơ chéo rộng trong (21,42%); 
duy nhất có 1 trường hợp không thể tách biệt 
MPFL và cơ chéo rộng trong (3,57%). 
BÀN LUẬN 
Tuổi khi mất trung bình trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 72,43 ± 8,70 tuổi, với tuổi khi 
mất nhỏ nhất là 56 tuổi, lớn nhất là 89 tuổi. 
Đây là độ tuổi khá cao và là một hạn chế 
không thể tránh khỏi khi thực hiện nghiên cứu 
trên xác. Trật bánh chè ra ngoài nói chung hay 
chấn thương về MPFL nói riêng lại thường xảy 
ra ở độ tuổi thanh niên. Bên cạnh đó, bệnh lý 
thoái hoá khớp gối và những bệnh lý khác ở 
khớp gối liên quan đến người lớn tuổi có thể 
làm thay đổi cấu trúc xương, mô mềm ở khớp 
gối. Ngoài ra, các kích thước đo đạc ở người 
lớn tuổi có thể khác biệt so với dân số chung. 
Do không có sự chủ động trong vấn đề chọn 
mẫu nên phân bố về giới trong các mẫu nghiên 
cứu của chúng tôi không đồng đều, giới nam 
nhiều hơn giới nữ với tỉ lệ 1,73:1. Đây là hạn 
chế trong đề tài của chúng tôi. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy MPFL có 
tỉ lệ hiện diện là 93,33%, tương đối hằng định. Tỉ 
lệ này của chúng tôi tương đồng với các tác giả 
khi cho thấy MPFL là cấu trúc hiện diện ở 35% - 
100% khớp gối. 
Trên tất cả 28 mẫu khớp gối có sự hiện diện 
của MPFL, chúng tôi đều ghi nhận được MPFL 
là một cấu trúc thớ sợi dạng dải băng, bám từ 
xương bánh chè đến lồi cầu trong xương đùi. 
Dây chằng nằm bên ngoài so với cơ chéo rộng 
trong và tất cả các trường hợp đều liên kết với 
cấu trúc này bằng trẽ cân bám từ bờ trên của dây 
chằng đến bám vào bao cơ rộng trong. Sau quá 
trình bóc tách, chúng tôi ghi nhận 6/28 trường 
hợp (3 mẫu xác tươi, 3 mẫu xác ướp) MPFL dính 
một phần với cơ chéo rộng trong (21,42%); 1/28 
trường hợp MPFL khó phẫu tích tách biệt với cơ 
chéo rộng trong (3,57%). Còn lại đa số trường 
hợp 21/28 MPFL có thể dễ dàng bóc tách với cơ 
chéo rộng trong (75%). Kết quả nghiên cứu với 
chúng tôi tương đồng với các tác giả Baldwin JL, 
Bicos J, Smirk C và Tuxøe JI(12,13,14,15). Sự liên kết 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 12
này có thể giải thích cho vấn đề tổn thương 
MPFL thường đi kèm tổn thương cơ chéo rộng trong. 
Trên tất cả 28 mẫu khớp gối có hiện diện của 
MPFL, chúng tôi ghi nhận dây chằng có hai hình 
dạng: hình rẻ quạt và hình đồng hồ cát. Tỉ lệ 
giữa hai hình dạng quan sát được của MPFL gần 
như tương đương nhau. Quan sát này trong 
nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với mô tả 
trong các nghiên cứu của Baldwin JL, Bicos J, 
LaPrade RF, Nomura E, Placella G, Smirk C và 
Tuxøe JI(12,13,14,15,16,17,18). 
Về chiều dài, sử dụng phép kiểm t để so 
sánh chiều dài MPFL nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
so với Baldwin JL (p=0,74, =0,05) và Nomura E 
(p=0,42, =0,05). Tuy nhiên, nghiên cứu của 
Placella G (p=0,04, =0,05) cho thấy chiều dài của 
MPFL lớn hơn nghiên cứu của chúng tôi và các 
nghiên cứu khác (p <0,001, =0,05). Điều này có 
thể được lí giải do sự khác biệt về đặc điểm của 
mẫu nghiên cứu. Sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê giữa xác tươi và xác ướp cũng như giữa 
giới nam và giới nữ (p >0,05). 
MPFL có sự thay đổi lớn về chiều dài ở tầm 
gấp gối từ 0o đến 30o, tương đối đẳng trường ở 
mức gấp gối 60o - 90o. Điều này tương đồng với 
khảo sát về sự thay đổi chiều dài của MPFL 
trong nghiên cứu của Kernkamp WA(4) và 
Stephen JM(5). Cả hai tác giả đều báo cáo kết quả 
MPFL không đẳng trường ở tầm gấp gối từ 0o 
đến 110o. MPFL dài nhất (căng nhất) ở tư thế gối 
duỗi, giảm dần chiều dài ở tầm gấp gối từ 0o đến 
30o và gần đẳng trường ở tầm gấp gối hơn 30o. 
Tuy nhiên mô tả của chúng tôi lại khác so với 
Nomura E(19) và Yoo YS(20). Sự khác biệt này có 
thể được giải thích bởi sự khác nhau về đặc điểm 
mẫu nghiên cứu, phương pháp và dụng cụ đo 
đạc khác nhau. 
Bảng 3: So sánh kích thước MPFL 
 Baldwin JL
(12)
 Nomura E
(17)
 Placella G
(18)
 Chúng tôi 
Số mẫu 50 20 20 19 
Chiều dài (mm) 59,80 ± 4,10 58,80 ± 4,70 72 ± 15,60 60,23 ± 6,14 
Chiều rộng 
(mm) 
Lồi cầu trong xương đùi 10,60 ± 2,90 Không đo 8,90 ± 3,30 8,08 ± 2,71 
1/3 giữa Không đo 12 ± 3,10 10,50 ± 3,40 9,09 ± 4,44 
Xương bánh chè 28,20 ± 5,60 Không đo 24,50 ± 5,20 23,31 ± 7,97 
Về chiều rộng, sử dụng phép kiểm t để so 
sánh chiều rộng của MPFL ở cả 3 vị trí, nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê so với Placella (p >0,05, 
=0,05). Tất cả các trường hợp MPFL có diện 
bám tại xương bánh chè lớn hơn diện bám tại 
xương đùi. 
Chúng tôi ghi nhận trong nghiên cứu của 
chúng tôi, đa số trường hợp tâm diện bám dây 
chằng nằm ở vị trí phía trên, phía sau so với 
mỏm trên lồi cầu trong (71,43%), còn lại ở vị trí 
phía trên, phía trước (28,57%). Quan sát của 
chúng tôi có phần không tương đồng với các tác 
giả LaPrade RF, Nomura E và Placella G. Sự 
khác biệt này là do sự khác nhau về đặc điểm 
mẫu nghiên cứu. Bên cạnh đó, theo Hình 3, vị trí 
tâm diện bám tại xương đùi của MPFL tương 
đối phân tán so với mỏm trên lồi cầu trong nên 
không chọn mỏm trên lồi cầu trong là mốc 
xương để xác định tâm diện bám tại xương đùi 
của MPFL. 
MPFL trong nghiên cứu của chúng tôi 16/28 
trường hợp tâm diện bám nằm sau (57,14%) và 
12/28 trường hợp nằm trước (42,86%) so với củ 
cơ khép. Quan sát của chúng tôi có phần không 
tương đồng với các tác giả LaPrade RF, Nomura 
E và Placella G. Sự khác biệt này là do sự khác 
nhau về đặc điểm mẫu nghiên cứu. Bên cạnh đó, 
theo Hình 4, vị trí tâm diện bám tại xương đùi 
của MPFL tương đối phân tán so với củ cơ khép 
nên không chọn củ cơ khép là mốc xương để xác 
định tâm diện bám tại xương đùi của MPFL. 
Chúng tôi ghi nhận 67,86% trường hợp 
MPFL trong nghiên cứu của chúng tôi có trẽ cân 
bám từ bờ dưới đến bờ trước của lớp nông dây 
chằng bên trong khớp gối. Mối liên hệ này đã 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 13
được mô tả bởi các tác giả LaPrade RF, Nomura 
E và Placella G(16,17,18). 
Tại diện bám xương bánh chè, đa số trường 
hợp MPFL bám vào trực tiếp vào bờ trên trong 
của xương bánh chè (92,86%). Chúng tôi còn ghi 
nhận có 8/28 trường hợp MPFL có các thớ sợi 
chạy theo hướng lên trên và đến bám vào bờ 
trong gân cơ tứ đầu đùi (28,57%). Các thớ sợi 
này được nhắc đến trong nghiên cứu của 
Kruckeberg BM(21), có tên là dây chằng đùi – gân 
tứ đầu đùi bên trong (Medial Quadriceps 
Tendon Femoral Ligament). 
KẾT LUẬN 
Dây chằng chè đùi trong là một cấu trúc 
giải phẫu tương đối hằng định với tỉ lệ hiện 
diện 93,33%. 
Dây chằng chè đùi trong là cấu trúc thớ sợi 
dạng dải băng, bám từ xương bánh chè, hướng 
vào trong đến bám vào lồi cầu trong xương đùi. 
Dây chằng chè đùi trong nằm ở lớp thứ hai mặt 
trong khớp gối (theo phân loại của Warren và 
Marshall), cùng lớp với lớp nông dây chằng bên 
trong và bên trong so với bao khớp gối. 
Dây chằng chè đùi trong có hai hình dạng: 
đồng hồ cát và rẻ quạt 
Chiều dài trung bình của dây chằng chè đùi 
trong trên xác tươi là 60,23 ± 6,14 mm; trên xác 
ướp là 55,49 ± 12,09 mm. 
Dây chằng chè đùi trong dài nhất ở tư thế 
gối 0o, chiều dài dây chằng giảm dần khi gấp gối 
từ 0o đến 60o, tương đối đẳng trường ở tầm gấp 
gối 60 - 90o. 
Chiều rộng tại diện bám xương bánh chè của 
dây chằng chè đùi trong lớn hơn tại diện bám 
xương đùi. 
Dây chằng chè đùi trong nằm ở vị trí phía 
sau, trên (71,43%) và phía trước, trên (28,57%) so 
với mỏm trên lồi cầu trong xương đùi. 
Dây chằng chè đùi trong nằm ở vị trí phía 
sau, dưới (57,14%) và phía trước, dưới (42,86%) 
so với củ cơ khép. 
Dây chằng chè đùi trong liên kết với lớp 
nông dây chằng bên trong khớp gối bằng một 
trẽ cân, đi từ bờ dưới dây chằng chè đùi trong 
đến bờ trước lớp nông dây chằng bên trong 
khớp gối (67,86%). 
Đa số trường hợp (92,86%) dây chằng chè 
đùi trong bám trực tiếp vào xương bánh chè, chỉ 
có 7,14% trường hợp dây chằng hoà cùng với cơ 
chéo rộng trong đến bám vào nơi bám của cơ 
chéo rộng trong. 
Dây chằng chè đùi trong có các thớ sợi đến 
bám vào bờ trong gân cơ tứ đầu đùi (28,57%). 
Các thớ sợi này còn được gọi là dây chằng đùi 
gân cơ tứ đầu đùi. 
100% trường hợp dây chằng chè đùi trong 
được phủ một phần mặt trong và bờ trên bởi cơ 
chéo rộng trong và đều có trẽ cân liên kết với 
bao cơ chéo rộng trong. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Fithian DC, Paxton EW, Stone ML, et al (2004). Epidemiology 
and natural history of acute patellar dislocation. Am J Sports 
Med, 32(5):1114-21. 
2. Weber AE, Nathani A, Dines JS, et al (2016). An Algorithmic 
Approach to the Management of Recurrent Lateral Patellar 
Dislocation. J Bone Joint Surg Am. 98(5):417-427. 
3. Panni AS, Vasso M, Cerciello S (2013). Acute patellar 
dislocation. What to do?. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc, 
21(2):275-278. 
4. Kernkamp WA, Wang C, Li C, et al (2019). The Medial 
Patellofemoral Ligament Is a Dynamic and Anisometric 
Structure: An In Vivo Study on Length Changes and Isometry. 
Am J Sports Med, 47(7):1645-1653. 
5. Stephen JM, Lumpaopong P, Deehan DJ, et al (2012). The 
medial patellofemoral ligament: location of femoral attachment 
and length change patterns resulting from anatomic and 
nonanatomic attachments. Am J Sports Med, 40(8):1871-1879. 
6. Ellera Gomes JL, Stigler Marczyk LR, César de César P, et al 
(2004). Medial patellofemoral ligament reconstruction with 
semitendinosus autograft for chronic patellar instability: a 
follow-up study. Arthroscopy, 20(2):147-151. 
7. Camanho GL, Viegas Ade C, Bitar AC, et al (2009). Conservative 
versus surgical treatment for repair of the medial patellofemoral 
ligament in acute dislocations of the patella. Arthroscopy, 
25(6):620-625. 
8. Bollier M, Fulkerson J, Cosgarea A, et al (2011). Technical failure 
of medial patellofemoral ligament reconstruction. Arthroscopy, 
27(8):1153-1159. 
9. Elias JJ, Cosgarea AJ (2006). Technical errors during medial 
patellofemoral ligament reconstruction could overload medial 
patellofemoral cartilage: a computational analysis. Am J Sports 
Med, 34(9):1478-1485. 
10. Elias JJ, Wilson DR, Adamson R, et al (2004). Evaluation of a 
computational model used to predict the patellofemoral contact 
pressure distribution. J Biomech, 37(3):295-302. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 14
11. Amis AA, Firer P, Mountney J, et al (2003). Anatomy and 
biomechanics of the medial patellofemoral ligament. Knee, 
10(3):215-220. 
12. Baldwin JL (2009). The anatomy of the medial patellofemoral 
ligament. Am J Sports Med, 37(12):2355-2361. 
13. Bicos J, Fulkerson JP, Amis A (2007). Current concepts review: 
the medial patellofemoral ligament. Am J Sports Med, 35(3):484-
492. 
14. Smirk C, Morris H (2003). The anatomy and reconstruction of 
the medial patellofemoral ligament. Knee, 10(3):221-227. 
15. Tuxøe JI, Teir M, Winge S, et al (2002). The medial 
patellofemoral ligament: a dissection study. Knee Surg Sports 
Traumatol Arthrosc, 10(3):138-140. 
16. LaPrade RF, Engebretsen AH, Ly TV, et al (2007). The anatomy 
of the medial part of the knee. J Bone Joint Surg Am, 89(9):2000-
2010. 
17. Nomura E, Inoue M, Osada N (2005). Anatomical analysis of the 
medial patellofemoral ligament of the knee, especially the 
femoral attachment. Knee Surg Sports Traumatol Arthrosc, 
13(7):510-515. 
18. Placella G, Tei MM, Sebastiani E, et al (2014). Shape and size of 
the medial patellofemoral ligament for the best surgical 
reconstruction: a human cadaveric study. Knee Surg Sports 
Traumatol Arthrosc, 22(10):2327-2333. 
19. Nomura E, Horiuchi Y, Kihara M (2000). Medial patellofemoral 
ligament restraint in lateral patellar translation and 
reconstruction. Knee, 7(2):121-127. 
20. Yoo YS, Chang HG, Seo YJ, et al (2012). Changes in the length of 
the medial patellofemoral ligament: an in vivo analysis using 3-
dimensional computed tomography. Am J Sports Med, 
40(9):2142-2148. 
21. Kruckeberg BM, Chahla J, Moatshe G, et al (2018). Quantitative 
and Qualitative Analysis of the Medial Patellar Ligaments: An 
Anatomic and Radiographic Study. Am J Sports Med, 46(1):153-
162. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phau_ung_dung_day_chang_che_dui_trong_khop_goi_nguoi_vi.pdf