Giải pháp phát triển sản xuất rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình

TÓM TẮT

Sản xuất rau hữu cơ (RHC) là xu thế nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng và vệ sinh an toàn

thực phẩm. Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình nhằm đánh giá thực trạng sản xuất

và đề xuất giải pháp phát triển sản xuất RHC. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo

sát trực tiếp 90 hộ nông dân trên địa bàn huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Kết quả cho thấy hiệu quả của kinh tế

sản xuất rau theo phương pháp hữu cơ cao hơn so với sản xuất rau truyền thống. Tuy nhiên, các hộ trồng RHC

phải đối mặt với những khó khăn về chi phí sản xuất, cơ sở hạ tầng, thị trường và kỹ thuật trong việc mở rộng

quy mô và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Các giải pháp phát triển sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất

rau hữu cơ bao gồm: (1) Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất hữu cơ; (2) Lựa chọn các giống rau phù

hợp, năng suất cao; (3) Liên kết giữa nhà sản xuất và nhà chuyên môn để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản

xuất rau hữu cơ bằng các hình thức tập huấn, huấn luyện và công tác khuyến nông; (4) Hoàn thiện các loại hình

tổ chức sản xuất RHC; (5) Hoàn thiện hệ thống tiêu thụ RHC; (6) Đẩy mạnh quản lý, giám sát chất lượng RHC.

pdf 9 trang phuongnguyen 8110
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp phát triển sản xuất rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp phát triển sản xuất rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình

Giải pháp phát triển sản xuất rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
Kinh tế & Chính sách 
180 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU HỮU CƠ 
TẠI HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH 
Trịnh Hải Vân1, Trần Thị Thanh Bình2 
1,2Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Sản xuất rau hữu cơ (RHC) là xu thế nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng và vệ sinh an toàn 
thực phẩm. Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình nhằm đánh giá thực trạng sản xuất 
và đề xuất giải pháp phát triển sản xuất RHC. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo 
sát trực tiếp 90 hộ nông dân trên địa bàn huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Kết quả cho thấy hiệu quả của kinh tế 
sản xuất rau theo phương pháp hữu cơ cao hơn so với sản xuất rau truyền thống. Tuy nhiên, các hộ trồng RHC 
phải đối mặt với những khó khăn về chi phí sản xuất, cơ sở hạ tầng, thị trường và kỹ thuật trong việc mở rộng 
quy mô và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Các giải pháp phát triển sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất 
rau hữu cơ bao gồm: (1) Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất hữu cơ; (2) Lựa chọn các giống rau phù 
hợp, năng suất cao; (3) Liên kết giữa nhà sản xuất và nhà chuyên môn để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản 
xuất rau hữu cơ bằng các hình thức tập huấn, huấn luyện và công tác khuyến nông; (4) Hoàn thiện các loại hình 
tổ chức sản xuất RHC; (5) Hoàn thiện hệ thống tiêu thụ RHC; (6) Đẩy mạnh quản lý, giám sát chất lượng RHC. 
Từ khóa: Huyện Lương Sơn, rau hữu cơ, sản xuất rau hữu cơ (RHC). 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là kết quả 
của quá trình sản xuất có yêu cầu nghiêm ngặt 
về kiểm soát vật tư đầu vào như không sử dụng 
phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, 
các chất phụ gia, hạt giống biến đổi gen... 
trong quá trình sản xuất và kiểm soát rất chặt 
chẽ trong quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, 
bảo quản và vận chuyển (Phạm Tiến Dũng, 
2016). Do vậy, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ 
được coi là thân thiện với môi trường, sạch, an 
toàn và chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng 
cao của người tiêu dùng trong nước và thị 
trường xuất khẩu (Nguyễn Văn Bộ, 2013). 
Tỉnh Hòa Bình nói chung, huyện Lương 
Sơn nói riêng là vùng đất tiếp giáp thủ đô Hà 
Nội đã và đang chuyển dịch cơ cấu sản xuất 
nông nghiệp, nông thôn và có khả năng đáp 
ứng nhu cầu về rau hữu cơ phục vụ nội bộ và 
một phần nhu cầu lớn của thị trường Hà Nội 
(Liên nhóm hữu cơ Lương Sơn, 2012). Tiềm 
năng phát triển thành vùng nguyên liệu rau hữu 
cơ cho công nghiệp chế biến cũng như xuất 
khẩu rau củ chính là lợi thế của người nông 
dân. Tuy nhiên, lợi thế này chưa được khai 
thác tốt vì người nông dân sản xuất nhỏ lẻ, giá 
thành sản phẩm cao, các hoạt động liên quan 
đến sản xuất rau hữu cơ trong chuỗi giá trị 
hàng hóa còn rời rạc, liên kết yếu (Hiệp hội 
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, 2017). Điều 
này phần nào giải thích tại sao tốc độ tăng diện 
tích, sản lượng rau hữu cơ chưa cao. Phát triển 
sản xuất rau hữu cơ nói chung và ở Lương Sơn 
nói riêng được bền vững cần xây dựng hệ 
thống chính sách đồng bộ liên quan đến sản 
xuất và tiêu thụ rau hữu cơ, quy hoạch quỹ đất 
sản xuất hàng hóa tập trung, tăng cường 
chuyển giao khoa học công nghệ, xây dựng hạ 
tầng phục vụ sản xuất RHC... 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp thu thập số liệu: 
Số liệu thứ cấp: Tài liệu, số liệu được sử 
dụng trong bài viết này chủ yếu được kế thừa 
từ các nghiên cứu được công bố trên sách, báo, 
tạp chí và các trang thông tin điện tử chính của 
các bộ, ngành, tổ chức liên quan. Tham vấn ý 
kiến của chuyên gia trong lĩnh vực nhằm đánh 
giá các giải pháp phát triển sản xuất và tiêu thụ 
RHC tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. 
Số liệu sơ cấp: Nghiên cứu chọn 3 xã đại 
diện cho 3 vùng gồm: Xã Thành Lập đại diện 
cho vùng phía Nam của Huyện; Xã Nhuận 
Trạch đại diện cho vùng giữa và thị trấn Lương 
Sơn đại diện cho vùng Bắc và thị trấn. Mỗi xã 
chọn ngẫu nhiên 30 hộ trồng rau hữu cơ. Khảo 
sát về tình hình sản xuất, chi phí, tiêu thụ sản 
phẩm và các vấn đề liên quan đến RHC. 
Phương pháp phân tích số liệu: Phân tích 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 181 
thống kê mô tả; tính toán các chỉ tiêu đánh giá 
hiệu quả kinh tế, phân tích theo nội dung nhằm 
đánh giá thực trạng sản xuất RHC, xác định 
những vấn đề tồn tại và đề xuất các giải pháp 
nhằm phát triển RHC trên địa bàn huyện 
Lương Sơn, Hòa Bình. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thực trạng phát triển sản xuất rau hữu 
cơ tại huyện Lương Sơn, Hòa Bình 
3.1.1. Biến động về năng suất, diện tích, sản 
lượng trên địa bàn nghiên cứu 
RHC muốn sản xuất được phải có đất tập 
trung và được khoanh vùng cách ly tránh 
nhiễm bẩn với môi trường bên ngoài, nguồn 
đất và nước được lấy đi phân tích đủ tiêu 
chuẩn sản xuất rau an toàn. Ở huyện Lương 
Sơn diện tích trồng rau lớn nhưng diện tích tập 
trung để sản xuất RHC không nhiều. 
Bảng 1. Diện tích, năng suất và sản lượng rau hữu cơ từ giai đoạn 2014 - 2016 
huyện Lương Sơn 
Tiêu chí 
Năm 
2014 2015 2016 
Diện tích rau hữu cơ (ha) 9,00 15,10 23,00 
Diện tích rau toàn huyện 580,5 597,4 620,5 
So sánh rau hữu cơ/rau thông thường (%) + 1,55 + 2,53 + 3,70 
Năng suất rau hữu cơ (tạ/ha) 231,7 250,4 276,0 
Năng suất rau thông thường (tạ/ha) 250,5 272,0 300,0 
So sánh rau hữu cơ/rau thông thường (%) -18,8 -19,6 - 24,0 
Sản lượng rau hữu cơ (tấn) 39,39 55,33 63,48 
Sản lượng rau thông thường (tấn) 90,21 122,93 139,20 
So sánh rau hữu cơ/rau thông thường (%) + 4,3 +4,5 +4,7 
 Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện Lương Sơn 
Diện tích RHC trong những năm gần đây 
được tăng lên từ 9,0 lên 23,0 ha. Tuy diện tích 
trồng RHC có tăng lên nhưng so với diện tích 
trồng rau nói chung của toàn huyện lại rất nhỏ. 
Diện tích RHC chỉ chiếm từ 1,55% đến 3,70% 
so với diện tích trồng rau trên địa bàn huyện. 
Năng suất đạt từ 231,7 đến 276,0 tạ/ha và sản 
lượng từ 39,39 đến 63,48 tấn. Năng suất và sản 
lượng RHC thấp hơn so với rau thông thường 
một phần là do khâu quản lý cỏ dại và sâu 
bệnh hại còn nhiều hạn chế, hiệu lực phòng trừ 
sâu bệnh hại của thuốc thảo mộc chưa cao. 
3.1.2. Công tác thanh tra, giám sát sản xuất 
rau hữu cơ trên địa bàn nghiên cứu 
Bảng 2. Đội ngũ thanh tra, giám sát sản xuất rau hữu cơ ở Lương Sơn 
TT Thành phần 
Số lượng 
(người) 
Ghi chú 
1 Đại diện chính quyền 
địa phương 
5 Gồm lãnh đạo UBND, Phòng Nông nghiệp, Hội Nông 
dân, Trạm BTVT, KNKL 
2 Chuyên gia của Trường 
Cao đẳng NN&PTNT 
Bắc Bộ 
3 Hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật sản xuất cho nông dân 
3 Giảng viên nông dân 2 Là những nông dân đã được tập huấn kỹ thuật trở thành 
giảng viên nông dân để truyền đạt kiến thức, hiểu biết cho 
các nông dân khác tham gia tập huấn 
4 Trưởng nhóm sở thích 25 Đại diện cho các nhóm sở thích và HTX sản xuất rau hữu cơ 
5 Tổ chức phi chính phủ 1 Đại diện cho tổ chức tài trợ ADDA Đan Mạch 
6 Công ty tiêu thụ sản 
phẩm 
4 Giám đốc hoặc nhân viên quản lý của các công ty tham 
gia tiêu thụ sản phẩm 
Nguồn: Liên nhóm nông nghiệp hữu cơ Lương Sơn 
Việc thanh tra, giám sát được thực hiện 2 
lần/năm, bắt đầu vào tháng 1 - 2 và thanh tra 
định kỳ tháng 6 hoặc tháng 7 hàng năm (định 
kỳ 6 tháng) cho tất cả các diện tích sản xuất 
Kinh tế & Chính sách 
182 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
rau hữu cơ. Song song với đó là các đợt thanh 
tra đột xuất không báo trước (thường được 
thực hiện vào khoảng thời gian rau sắp cho thu 
hoạch (trước khi cung cấp ra thị trường) hoặc 
thời điểm sản xuất rau trái vụ (thời điểm có 
nhiều sâu bệnh hại, dễ có nguy cơ nông dân sử 
dụng thuốc BVTV) theo yêu cầu của công ty 
hoặc bất kỳ thành phần nào khác. 
Lực lượng tham gia kiểm tra, giám sát sản 
xuất rau hữu cơ là các thanh tra viên thuộc 
Nhóm sản xuất hoặc Liên nhóm nằm trong hệ 
thống giám sát nội bộ đều được hoàn thành 
khóa huấn luyện về nghiệp vụ thanh tra. Hệ 
thống giám sát sản xuất RHC đề cao giám sát 
nội bộ, thanh tra chéo lẫn nhau bởi người sản 
xuất dưới sự hỗ trợ, hướng dẫn của Liên nhóm 
nông nghiệp hữu cơ Lương Sơn. Trong quy 
trình giám sát này, không có sự tham gia của 
các cơ quản lý nhà nước như Chi cục BVTV 
mà hoàn toàn là thành viên của hệ thống giám 
sát nội bộ PGS. Với quy trình giám sát này, 
cho thấy rõ sự khác biệt đối với quy trình giám 
sát của rau an toàn đã bộc lộ nhiều yếu kém. 
3.1.3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm 
Tham gia tiêu thụ RHC tại huyện Lương Sơn 
trong thời gian qua gồm có 4 doanh nghiệp 
(Công ty Cổ phần Đầu tư Tâm Đạt, Công ty 
THNN MTV Kết Nối Xanh (Greenlink), Công 
ty TNHH Liên kết Sinh thái Việt Nam 
(Ecomart), Công ty TNHH Vinagap Việt Nam 
(VinaGap) thương hiệu Bác Tôm. Ngoài ra, 
RHC còn được bán cho cửa hàng giới thiệu sản 
phẩm tại chợ Xuân Mai, chợ Lương Sơn và chợ 
địa phương khi các công ty không tiêu thụ hết 
sản phẩm. Các công ty và cửa hàng giới thiệu 
sản phẩm mua rau với giá rau hữu cơ, sản lượng 
rau được bán tại chợ địa phương sẽ có mức giá 
rau thường hoặc thậm chí thấp hơn. 
Hình 1. Hệ thống phân phối rau hữu cơ 
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) 
Có thể nhận thấy, hệ thống phân phối RHC 
còn khá đơn điệu và phụ thuộc rất nhiều vào 
năng lực tiêu thụ của các công ty, điều này gây 
khó khăn cho người sản xuất trong vấn đề 
thương lượng giá cả và các điều kiện khác 
trong hợp tác tiêu thụ sản phẩm. Một bất cập 
vẫn tồn tại là RHC đảm bảo VSATTP, ngon 
hơn nhưng vẫn còn một lượng lớn (30%) rau 
không được tiêu thụ với mức giá RHC. Điều 
này được giải thích bởi một số nguyên nhân cơ 
bản sau đây: RHC thường độ đồng đều không 
cao, mẫu mã xấu bởi sự xâm hại của sâu bệnh. 
Dẫn đến tỷ lệ rau đạt yêu cầu về quy cách sản 
phẩm mà công ty đưa ra thấp (trọng lượng, 
kích thước, tỷ lệ vết tích của sâu bệnh trên sản 
phẩm...), do đó lượng rau bán với giá hữu cơ 
còn thấp. Phần còn lại các nhóm chỉ có thể bán 
ra thị trường tự do với giá rau thông thường. 
Chủng loại rau quá ít, lặp đi lặp lại thường 
xuyên (tháng xuất hiện ít nhất chỉ có khoảng 
13 loại, tháng nhiều nhất là 37 tính cả rau thơm 
và rau gia vị) gây khó khăn cho công ty tiêu 
thụ do khách hàng có ít sự lựa chọn cho bữa 
ăn. Giá bán RHC đến tay người tiêu dùng quá 
cao, chưa thu hút được người tiêu dùng sử 
dụng sản phẩm. Thực tế cho thấy, giá RHC qua 
hệ thống phân phối đã tăng lên gấp 2 lần giá 
cổng trại. 
NHÓM 
SỞ 
THÍCH, 
HTX 
CÔNG TY (65%) 
CỬA HÀNG 
GIỚI THIỆU 
SẢN PHẨM (5%) 
CHỢ ĐỊA 
PHƯƠNG (30%) 
NGƯỜI 
TIÊU DÙNG 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 183 
3.1.4. Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển rau 
hữu cơ 
Ở các nhóm sản xuất hữu cơ được dự án của 
tổ chức ADDA hỗ trợ xây nhà ủ phân, giếng 
nước và bể chứa. Năm 2011 nhóm Đầm Rái và 
Xóm Mỏ được Công ty kết nối xanh 
(Greenlink) hỗ trợ cho mỗi nhóm một nhà lưới 
300 m2 đến nay nhà lưới đã hỏng và không sử 
dụng được. Hiện tại có 3 nhà sơ chế rau đặt tại 
xã Hợp Hòa, Thành Lập và thị trấn Lương Sơn 
và 1 xe ô tô chở được 3 tấn rau do HTX Nông 
sản Lương Sơn quản lý nguồn đầu tư từ Công 
ty Kết Nối Xanh và Chương trình Nông thôn 
mới. Hệ thống đường đi vào các nhóm chưa 
được cứng hóa gây khó khăn cho người sản 
xuất, chưa có hệ thống tưới chủ động để giảm 
công lao động. Hệ thống hạ tầng được đầu tư 
nhỏ giọt do đó chưa xây dựng được hệ thống 
hạ tầng sản xuất đồng bộ nhằm hỗ trợ phát triển 
sản xuất rau hữu cơ Lương Sơn. 
 3.1.5. Khuyến nông và hỗ trợ phát triển các 
hình thức tổ chức sản xuất 
Được sự giúp đỡ và hướng dẫn của dự án 
ADDA Đan Mạch, Hội Nông dân huyện 
Lương Sơn đã tích cực tuyên truyền vận động 
đến tổ chức Hội và hội viên nông dân trong 
huyện, quá trình thực hiện thông qua các kỳ 
sinh hoạt chi hội, tổ hội, các câu lạc bộ, phổ 
biến mục đích, ý nghĩa của mô hình sản xuất 
nông nghiệp hữu cơ. Kết quả đã tuyên truyền 
triển khai đến 20/20 cơ sở Hội, mô hình đã làm 
chuyển biến nhận thức của hội viên trong sản 
xuất nông nghiệp. Đã tổ chức được 31 lớp đào 
tạo nông dân theo chương trình sản xuất rau 
hữu cơ, thời gian học 17 tuần/lớp, mỗi lớp là 
30 người. Trên địa bàn huyện Lương Sơn có 
930 nông dân đã được đào tạo theo phương 
pháp học lý thuyết kết hợp với thực hành ngay 
trên ruộng. Học viên được cấp chứng chỉ nghề; 
đồng thời chọn ra các học viên tiêu biểu xuất 
sắc, tích cực, có sở thích làm nông nghiệp hữu 
cơ, tự nguyện tham gia các hoạt động nhóm sở 
thích. Sau tập huấn thành lập các nhóm sở 
thích, tổ chức sản xuất rau hữu cơ theo các 
nhóm sở thích thuận lợi cho việc quản lý chất 
lượng sản phẩm. Hiện tại có 25 nhóm sở thích 
và 4 HTX. Tuy nhiên, do mới được thành lập 
nên năng lực của các hợp tác xã còn yếu, các 
giám đốc HTX là các trưởng nhóm sản xuất. 
HTX mới chỉ tập trung vào hỗ trợ sản xuất và 
mở rộng diện tích đất tập trung việc kết nối với 
thị trường còn thụ động và chưa thực sự hiệu 
quả. Hoạt động của HTX vẫn mang dáng dấp 
của nhóm sở thích như trước đây. 
3.1.6. Hiệu quả sản xuất rau hữu cơ 
Sản xuất rau hữu cơ không được sử dụng 
phân bón hóa học, vì vậy cần phải có một 
lượng phân chuồng rất lớn để cung cấp chất 
dinh dưỡng cho cây trong suốt quá trình sinh 
trưởng, do đó chi phí cho phân chuồng chiếm 
tỷ lệ lớn nhất trong chi phí sản xuất. 
Bảng 3. Chi phí đầu tư trồng 1 sào/vụ giữa rau hữu cơ và rau thông thường năm 2016 
Khoản chi 
Rau hữu cơ Rau thông thường 
Chỉ tiêu Số tiền 
(1000đ) 
Tỷ lệ 
(%) 
Chỉ tiêu Số tiền 
(1000đ) 
Tỷ lệ 
(%) 
Giống 1200 cây 317,1 25,23 1100 cây 300,09 20,93 
Phân ủ/ 
phân chuồng 
1000 kg 735,0 58,49 200 kg 147,00 10,25 
Phân hóa học 0 0,0 0,00 55 kg 522,02 36,41 
BVTV 
Phun thuốc 
thảo mộc ít 
nhất 3 lần/vụ 
100,0 7,96 
Phun thuốc hóa 
học ít nhất 4 
lần/vụ 
240,67 16,79 
Nhiên liệu 44,2 3,52 105,50 7,36 
Chi phí khác 60,3 4,80 118,30 8,25 
Tổng cộng 1256,6 100,00 1433,58 100,00 
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra 
Kinh tế & Chính sách 
184 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
Phân bón cho trồng rau được các hộ tận 
dụng từ nguồn chăn nuôi gia súc, gia cầm tại 
gia đình. Tuy nhiên, với quy mô chăn nuôi 
nhỏ, lượng phân chuồng không chỉ dành riêng 
cho trồng rau mà cho cả trồng lúa, ngô, khoai, 
vì vậy người trồng rau phải mua phân chuồng 
từ các hộ, trang trại chăn nuôi lợn, gà ở địa 
phương. Do yêu cầu lượng lớn phân chuồng để 
cung cấp chất dinh dưỡng cho cây rau nên chi 
phí phân chuồng chiếm tới 58,49% tổng chi 
phí trồng rau (trồng rau truyền thống chỉ chiếm 
10,25%). Ngược lại, do áp dụng biện pháp bảo 
vệ thực vật bằng thiên địch và thuốc thảo mộc 
(tự sản xuất bằng dung dịch chứa rượu, tỏi, 
ớt) nên chi phí cho bảo vệ thực vật rất nhỏ 
là 7,96%, trong khi sản xuất truyền thống 
chiếm tới 16,79% tổng chi phí. 
Chi phí giống chiếm tỷ lệ cao sau phân ủ, 
chiếm 25,23%, cao hơn chi phí giống theo 
canh tác truyền thống, lý do là các hộ sản xuất 
năm kỹ thuật chưa tốt, hiện tượng cây giống 
sau khi gieo trồng bị chết diễn ra khá phổ biến, 
hộ sản xuất phải gieo trồng lại nhiều lần khiến 
cho chi phí giống cao hơn. Đáng chú ý l ... địa phương 
Cơ sở pháp lý duy nhất đã chính thức hỗ trợ 
sản xuất RHC ở Lương Sơn là Quyết định số 
01/2012/QĐ-TTg ngày 9/1/2012 của Thủ 
tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ 
việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông 
nghiệp tốt (VietGAP) trong nông nghiệp, lâm 
nghiệp và thủy sản. Quy trình thực hành sản 
xuất nông nghiệp tốt bao gồm VietGAP 
(Vietnamese Good Agricultural Practices) do 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 185 
Bộ NN&PTNT ban hành và các tiêu chuẩn 
GAP khác, tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ 
được Bộ NN&PTNT công nhận (trong đó có 
hệ thống PGS được chứng nhận bởi tổ chức 
ADDA Đan Mạch). Ngân sách nhà nước đầu 
tư 100% kinh phí về điều tra cơ bản, khảo sát 
địa hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu 
không khí để xác định các vùng sản xuất tập 
trung thực hiện các dự án sản xuất nông lâm 
thủy sản; hỗ trợ không quá 50% tổng vốn đầu 
tư xây dựng, cải tạo hạ tầng phục vụ sản xuất 
phù hợp với yêu cầu kỹ thuật VietGAP. Thực 
tế từ quyết định này, năm 2014 huyện Lương 
Sơn đã hỗ trợ được 200 triệu đồng cho sản xuất 
RHC, trong đó 40 triệu để phân tích mẫu đất, 
mẫu nước và 160 triệu đồng hỗ trợ các nhóm 
xây bể, mua máy bơm, gia cố đường đất đến 
khu vực sản xuất, xây cống làm đường qua 
kênh mương. Các chủ trương, chính sách khác 
mới chỉ có tính định hướng phát triển chung 
chứ chưa được triển khai trong sản xuất - tiêu 
thụ RHC. Như vậy, nhóm yếu tố chủ trương, 
chính sách của Đảng và Nhà nước có tác động 
thiếu tích cực đến phát triển sản xuất RHC. 
Điều này gây cản trở cho việc xây dựng thương 
hiệu và tạo lòng tin cho người tiêu dùng. 
3.2.2.Quy hoạch vùng sản xuất rau hữu cơ 
Sau 8 năm dự án ADDA Đan Mạch triển 
khai mô hình sản xuất RHC tại một số xã, thị 
trấn trên địa bàn huyện Lương Sơn, sản phẩm 
RHC đã được tạo ra, có giá trị kinh tế cao và 
được người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, 
việc sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún làm cho 
hiệu quả sản xuất chưa tương xứng với tiềm 
năng và lợi thế của huyện. Vì vậy, vấn đề quy 
hoạch phát triển sản xuất RHC đã được chú ý 
quan tâm từ năm 2011, góp phần xây dựng một 
nền nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi 
trường, bảo vệ sức khỏe con người, phù hợp 
với quy hoạch và chiến lược phát triển lâu dài 
của huyện giai đoạn năm 2012 - 2015 và định 
hướng tới năm 2020. Cụ thể: 
- Quy hoạch vùng sản xuất RHC tập trung 
có tổng diện tích 15 - 20 ha RHC tại thị trấn 
Lương Sơn và các xã Hợp Hoà, Nhuận Trạch, 
Tân Vinh, Hoà Sơn, Liên Sơn, Thành Lập, 
Trung Sơn, Tân Thành, Cư Yên. 
- Đến năm 2020, các vùng sản xuất RHC 
tập trung được đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng 
đảm bảo yêu cầu của sản xuất nông nghiệp 
sạch và được cấp chứng nhận là diện tích đủ 
điều kiện sản xuất RHC theo quy định của 
Nhà nước. 
- Lợi nhuận từ RHC đạt 273 - 372 triệu 
đồng/ha/năm, cao gấp 4 - 6 lần so với gieo cấy 
lúa và các cây trồng khác, đã đem lại thu nhập 
cao cho người sản xuất, góp phần ổn định đời 
sống, tạo điều kiện thực hiện các nhiệm vụ 
phát triển kinh tế xã hội khác. 
3.2.3. Các điều kiện sản xuất rau hữu cơ 
của hộ 
- Về đất đai: Các loại đất nông nghiệp đã 
được phân cho tới từng hộ dân theo Nghị định 
64 - CP của Chính phủ, do đó muốn mở rộng 
sản xuất các hộ đều phải tiến hành hình thức 
thuê, mượn, đầu thầu hoặc trao đổi, khai 
hoang, đi mua để có được đất sản xuất. Diện 
tích đất có theo hình thức đi thuê, đi mượn chỉ 
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong diện tích đất nông 
nghiệp (5,55% diện tích) bởi không nhiều hộ 
có nhu cầu cho thuê, mượn và phần diện tích 
cho thuê, mượn thường nằm cách xa nhà, sản 
xuất kém hiệu quả. Tính bình quân một nhân 
khẩu có 2.181 m2 đất sản xuất nông nghiệp, đất 
trồng lúa là 546 m2/người nhưng đất trồng màu 
chỉ đạt là 188 m2/người. Trước sức ép về quy 
hoạch đất cho sản xuất công nghiệp và các 
ngành nghề khác, cùng với sức ép tăng dân số 
thì diện tích đất nông nghiệp bình quân một 
nhân khẩu sẽ càng ngày càng giảm xuống. 
Tình trạng đất đai manh mún, quy mô sản xuất 
quá nhỏ (bình quân đất sản xuất RHC chỉ gần 
389 m2/hộ) đang là yếu tố cản trở sự phát triển 
sản xuất RHC tại huyện Lương Sơn. 
- Về lao động: Bình quân mỗi hộ có khoảng 
4 - 5 lao động, trong đó có 1 - 2 lao động chính 
làm nông nghiệp. Các hộ không thuê lao động 
mà tận dụng lao động gia đình ở mọi độ tuổi, 
lúc rảnh rỗi, lao động tận dụng chủ yếu sử 
dụng kinh nghiệm tích lũy và làm theo hướng 
dẫn của người được tham gia các lớp tập huấn 
quy trình sản xuất RHC trong gia đình hoặc 
Kinh tế & Chính sách 
186 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
trong nhóm. Phương thức canh tác hiện nay 
cũng không có quá nhiều thay đổi so với trước 
đây, chủ yếu là thay đổi cách sử dụng phân bón 
và cách BVTV. Tuổi nghề bình quân của 
người trồng rau khoảng 26 năm, có nghĩa là 
họ đã có những kinh nghiệm nhất định và thực 
hiện thuần thục các thao tác sản xuất giúp họ 
nhanh chóng tiếp thu những tiến bộ khoa học 
mới, đổi mới quy trình công nghệ trong sản xuất. 
- Về nhân lực: Số lượng lao động trong độ 
tuổi lao động chiếm tới 77,62% tổng số nhân 
khẩu, đây là nguồn nhân lực dồi dào phục vụ 
cho sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề 
khác. Số còn lại không là gánh nặng cho lực 
lượng lao động chính. Trong số lao động ở độ 
tuổi lao động có 22 người làm việc ngoài địa 
bàn huyện, chiếm 7,83% cho thấy lực lượng 
lao động chưa bị dịch chuyển sang vùng khác. 
3.2.4. Trình độ của người sản xuất 
Hình thức tổ chức sản xuất RHC chủ yếu ở 
Lương Sơn là hộ gia đình. Thực tế hình thức tổ 
chức sản xuất này có ưu thế là các hộ có thể 
chủ động trong việc bố trí sản xuất, tận dụng 
lao động của gia đình mình, nhưng việc sản 
xuất thường manh mún và không thành vùng 
tập trung, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào 
sản xuất của hộ gia đình cũng rất hạn chế. Bên 
cạnh đó một số hộ dân trồng rau theo phong trào, 
chưa thực sự quan tâm đầu tư đúng mức đến quy 
trình kỹ thuật dẫn đến đạt hiệu quả rất thấp. 
Trình độ văn hoá của các chủ hộ còn thấp, 
chủ yếu là trình độ cấp I. Trình độ văn hóa hạn 
chế đã ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong 
sản xuất, lựa chọn các hình thức sản xuất, đồng 
thời cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận 
tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất. 
3.3. Giải pháp phát triển sản xuất rau hữu 
cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình 
3.3.1. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho 
sản xuất rau hữu cơ 
Nguồn lực cần có để đầu tư cơ sở hạ tầng là 
rất lớn vì vậy đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng 
sản xuất cần được lựa chọn theo nguyên tắc ưu 
tiên. Nội dung xác định nhu cầu đầu tư tùy 
thuộc vào thực trạng của từng vùng sản xuất cụ 
thể nhưng trong đó ưu tiên hàng đầu là bảo 
đảm các điều kiện để chất lượng nước tưới 
đúng quy định và bảo đảm hệ thống nhà sơ chế 
đủ công suất hoạt động theo yêu cầu sản xuất 
tại vùng đó. 
- Tập trung đầu tư: Cứng hóa đường giao 
thông nội đồng; hệ thống tưới - tiêu (bao gồm 
cả nguồn nước tưới); nhà lưới; hệ thống điện 
cho diện tích quy hoạch sản xuất RHC Đối 
với mô hình điểm sản xuất RHC cần đầu tư 
thêm một số tiến bộ khoa học kỹ thuật như: hệ 
thống tưới phun sương, tưới nhỏ giọt, sản xuất 
giống trong khay 
- Hỗ trợ đầu tư, cải tạo một phần cơ sở hạ 
tầng cho các nhóm sản xuất RHC hiện có 
nhằm động viên thúc đẩy phát triển sản xuất 
tùy vào điều kiện thực tế. 
3.3.2. Lựa chọn các giống rau phù hợp, năng 
suất cao 
- Tuyển chọn giống cây trồng đảm bảo cho 
năng suất cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên, 
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng như: Cà 
chua, Dưa chuột, Đậu các loại, Cải bắp, Mướp 
đắng, Cà rốt, Cải bó xôi... 
3.3.3. Liên kết giữa nhà sản xuất và nhà 
chuyên môn để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật 
trong sản xuất rau hữu cơ bằng các hình 
thức tập huấn, huấn luyện và công tác 
khuyến nông 
- Liên kết với các cơ quan chuyên môn cấp 
trên, các trường cao đẳng, đại học trong ngành 
nông nghiệp mở các lớp tập huấn chuyển giao 
kỹ thuật sản xuất RHC cho các cơ sở, các hộ 
nông dân trên địa bàn huyện và tổ chức hội 
nghị hội thảo đánh giá kết quả thực hiện dự án 
hàng năm. 
- Chuyển giao tiến bộ khoa học mới vào sản 
xuất (che phủ nilon, giống mới, phương pháp 
tưới nhỏ giọt, sản xuất giống cây con trong 
khay nhựa, túi bầu). Thực hiện luân canh các 
mô hình như: Bí ăn ngọn - Rau muống - Cà 
chua, Đậu đũa - Rau dền - Su hào, Cải ngọt - 
Rau đay - Xà lách. Các mô hình này trồng luân 
canh nhau trên các luống của khu vực sản xuất. 
Phổ biến nhanh các kiến thức kỹ thuật về 
sản xuất, sơ chế, kinh doanh RHC đến mọi đối 
tượng có liên quan bằng các hình thức tập huấn 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 187 
ngắn hạn. Bước tiếp theo là xây dựng đội ngũ 
nông dân nòng cốt để tiếp tục phổ biến lan tỏa 
những tiến bộ kỹ thuật về sản xuất, sơ chế RHC. 
3.3.4. Hoàn thiện các loại hình tổ chức sản xuất 
rau hữu cơ trên địa bàn huyện Lương Sơn 
Trong thời gian tới, hai loại hình HTX sản 
xuất - tiêu thụ RHC và doanh nghiệp sản xuất - 
tiêu thụ RHC sẽ trở thành hai loại hình chính 
trong phát triển sản xuất - tiêu thụ RHC tại 
huyện Lương Sơn. Vì vậy những tác động để 
phát triển bền vững hai loại hình này cần thực 
hiện song song có sự phối hợp chặt chẽ của hai 
giải pháp: Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và phát 
huy nội lực, ý thức tự giác của các tổ chức, cá 
nhân tham gia sản xuất - kinh doanh RHC gắn 
với giám sát, quản lý của Nhà nước. 
3.3.5. Hoàn thiện hệ thống tiêu thụ rau hữu cơ 
a. Hoàn thiện các kênh phân phối rau 
hữu cơ 
- Xây dựng và triển khai tốt quy hoạch hệ 
thống tiêu thụ từ chợ đầu mối đến các cửa 
hàng, quầy hàng bán lẻ 
- Đa dạng hóa các kênh phân phối RHC, 
gồm: Cửa hàng RHC tại các khu dân cư tập 
trung (chủ yếu ở thị trường Hà Nội); Quầy 
RHC tại các chợ dân sinh thông qua các tiểu 
thương bán lẻ; Gian hàng RHC tại các siêu thị; 
Phân phối trực tiếp từ các cơ sở sản xuất đến 
người tiêu dùng bằng các hình thức hợp đồng 
tiêu thụ (cá nhân, tập thể). 
b. Xây dựng thương hiệu rau hữu cơ 
- Tiêu chuẩn hóa, xây dựng và phát triển 
thương hiệu RHC để góp phần nâng cao trách 
nhiệm người tham gia kinh doanh RHC, tạo 
niềm tin của người tiêu dùng. Từng bước nâng 
cao thị phần của RHC trong hệ thống phân 
phối thực phẩm chung của địa phương. 
- Nâng cao nhận thức của các cơ sở sản xuất 
RHC về tầm quan trọng của việc xây dựng, 
duy trì và phát triển thương hiệu cũng như nội 
dung bảo vệ thương hiệu. 
- Đầu tư vốn, công lao động để nâng cao 
năng suất chất lượng sản phẩm, hạ giá thành 
sản phẩm, đa dạng chủng loại theo nhu cầu của 
thị trường để hình thành và phát triển thương 
hiệu “Rau hữu cơ Lương Sơn”. 
c. Tiến hành các hoạt động marketing 
- Tổ chức các kênh tuyên truyền, quảng bá 
về sản phẩm RHC, kịp thời thông tin đến 
người tiêu dùng về chất lượng, địa điểm, các 
cơ sở kinh doanh RHC có uy tín. 
- Hình thức bao gói sản phẩm RHC cần 
được chú trọng để thu hút người tiêu dùng. 
- Thường xuyên tổ chức các chuyến tham 
quan, du lịch đồng ruộng để khách hàng trực 
tiếp cảm nhận và tin tưởng sử dụng sản phẩm. 
Từ đó gây hiệu ứng lan truyền về sản phẩm 
RHC tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. 
3.3.6. Đẩy mạnh quản lý, giám sát chất lượng 
rau hữu cơ 
- Đưa sản xuất RHC là nhiệm vụ trọng tâm 
trong kế hoạch sản xuất nông lâm nghiệp hàng 
năm của huyện và các xã, thị trấn. Từng bước 
đưa sản xuất RHC của huyện vào nề nếp tuân 
thủ đúng quy định về sản xuất nông nghiệp 
hữu cơ và Luật An toàn thực phẩm. 
- Tăng cường công tác thanh tra nội bộ định 
kỳ, hoặc đột xuất của các nhóm sản xuất RHC 
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người 
sản xuất, đơn vị kinh doanh trong việc thực 
hiện các quy định về sản xuất - tiêu thụ RHC. 
Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường 
hợp vi phạm. 
4. KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu đề tài cho thấy sản xuất 
RHC ở huyện Lương Sơn đã phát triển mạnh 
sản xuất RHC, thu nhập của người sản xuất 
được nâng cao, tạo công ăn việc làm cho họ. 
Tuy nhiên, vẫn đang còn một số tồn tại về diện 
tích, năng suất còn hạn chế, thu nhập của 
người nông dân chưa cao, hiệu quả kinh tế còn 
thấp, phát triển rau chưa đáp ứng được yêu cầu 
của người tiêu dùng. 
Sự hình thành phát triển chuỗi liên kết sản 
xuất và bao tiêu sản phẩm rau hữu cơ huyện 
Lương Sơn đã mang lại nhiều ý nghĩa kinh tế, 
xã hội quan trọng như: thúc đẩy sản xuất kinh 
doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao 
động, xóa đói, giảm nghèo, phân công lại lao 
động nông thôn và tạo ra sự liên kết chặt chẽ 
có trách nhiệm giữa các nhà sản xuất kinh 
doanh với người tiêu dùng. 
Kinh tế & Chính sách 
188 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Văn Bộ (2013). Nông nghiệp hữu cơ: 
Hiện trạng và giải pháp nghiên cứu - phát triển. Hội thảo 
Quốc gia Nông nghiệp hữu cơ thực trạng và định hướng 
phát triển, trang 284-302. Thành phố Hồ Chí Minh, 27 
tháng 9 năm 2013. 
2. Phạm Tiến Dũng (2016). Nông nghiệp hữu cơ. 
Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp. 
3. Liên nhóm hữu cơ Lương Sơn (2012). Báo cáo 
tổng kết 4 năm (2008-2012) thực hiện phong trào sản 
xuất rau hữu cơ trong khuôn khổ Dự án Phát triển 
Khuôn khổ cho sản xuất và Marketing nông nghiệp hữu 
cơ tại Việt Nam (2006-2009) tại huyện Lương Sơn, tỉnh 
Hòa Bình. Liên nhóm Nông nghiệp hữu cơ Lương Sơn. 
4. Hiệp hội NNHC Việt Nam (2017). Tình hình sản 
xuất NNHC và xu thế hội nhập. Báo cáo tại Hội thảo 
“Giải pháp thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm 
NNHC”. 
SOLUTIONS TO DEVELOP ORGANIC VEGETABLES PRODUCTION 
IN LUONG SON DISTRICT, HOA BINH PROVINCE 
Trinh Hai Van1, Tran Thi Thanh Binh2 
1,2Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Organic vegetable production is a trend to meet the increasing demand for quality and food hygiene and safety. 
The research was conducted in Luong Son district, Hoa Binh province to evaluate the current status of 
production and propose solutions to develop organic vegetable production. To achieve this objective, we 
conducted a survey of 90 farmers in Luong Son district. The results show that the economic efficiency of 
organic vegetable production is higher than that of conventional vegetable production. However, organic 
vegetable growers face difficulties in production costs, infrastructure, markets and techniques in terms of scale 
expansion and quality assurance. The solutions to development of organic vegetable production include: (1) 
Increase investment for infrastructure to support organic production; (2) Select high yielding vegetable 
varieties; (3) Improve linkages between producers and professionals to apply technical advances through 
training and extension services; (4) Improve the organization of production; (5) Improve the organic vegetable 
consumption system; (6) Strengthen the management and quality control of organic vegetables production. 
Keywords: Luong Son district, organic vegetables, organic vegetable production. 
Ngày nhận bài : 28/5/2018 
Ngày phản biện : 31/8/2018 
Ngày quyết định đăng : 07/9/2018 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_phat_trien_san_xuat_rau_huu_co_tai_huyen_luong_son.pdf