Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản trong bối cảnh hội nhập
1. SỰ CẦN THIẾT VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH
VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN
Ngành lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, an sinh xã hội và môi trường sinh thái. Hiện tại,
ngành lâm nghiệp đang quản lý 16,24 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp, chiếm khoảng
½ tổng diện tích lãnh thổ quốc gia, liên quan trực tiếp đến đời sống của trên 25 triệu
đồng bào. Do vậy, việc phát triển rừng và quản lý rừng bền vững là mục tiêu, là ưu
tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Ngành lâm nghiệp không những tạo ra các
sản phẩm lâm sản hàng hóa và dịch vụ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân; mà còn có
vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường như phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ
nước, điều hòa khí hậu., góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt đối với bảo vệ
biên giới hải đảo; góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống, xóa đói, giảm
nghèo cho người dân nông thôn và miền núi. Trong giai đoạn hiện nay, ngành lâm
nghiệp đang triển khai thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-
2020, thực hiện Tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững. Những đóng góp của ngành lâm nghiệp cả về kinh tế, xã hội,
môi trường đang được khẳng định và được xã hội công nhận.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản trong bối cảnh hội nhập
127 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TS. Bùi Thị Minh Nguyệt, TS. Phạm Thị Huế Trường Đại học Lâm nghiệp 1. SỰ CẦN THIẾT VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN Ngành lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, an sinh xã hội và môi trường sinh thái. Hiện tại, ngành lâm nghiệp đang quản lý 16,24 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp, chiếm khoảng ½ tổng diện tích lãnh thổ quốc gia, liên quan trực tiếp đến đời sống của trên 25 triệu đồng bào. Do vậy, việc phát triển rừng và quản lý rừng bền vững là mục tiêu, là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Ngành lâm nghiệp không những tạo ra các sản phẩm lâm sản hàng hóa và dịch vụ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân; mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường như phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa khí hậu..., góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt đối với bảo vệ biên giới hải đảo; góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống, xóa đói, giảm nghèo cho người dân nông thôn và miền núi. Trong giai đoạn hiện nay, ngành lâm nghiệp đang triển khai thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006- 2020, thực hiện Tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Những đóng góp của ngành lâm nghiệp cả về kinh tế, xã hội, môi trường đang được khẳng định và được xã hội công nhận. Ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu lâm sản đã đạt được thành tựu vượt bậc trong những năm vừa qua. Theo Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản của Việt Nam chiếm khoảng 6% thị phần toàn cầu. Năm 2019, xuất khẩu lâm sản đạt 11,2 tỷ USD, tăng 19,2% so với năm 2018, vượt 6,6% so với kế hoạch (10,5 tỷ USD). Xuất siêu lâm sản đạt 8,65 tỷ USD, cao nhất trong nhóm ngành hàng nông lâm sản xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu gỗ, lâm sản được mở rộng, sản phẩm gỗ và lâm sản xuất khẩu của nước ta năm 2005 mới xuất khẩu đến 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, đến năm 2018 đã có mặt ở hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia thứ 5 trên thế giới, thứ 2 châu Á, thứ nhất Đông Nam Á về xuất khẩu gỗ và lâm sản. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam còn nhận định rằng: Chế biến gỗ là 1 trong 10 ngành mang lại nguồn thu lớn nhất từ xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào GDP cả nước. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước ta có khoảng 4.200 doanh nghiệp hoạt động trong ngành này. Trong đó có khoảng 95% doanh nghiệp tư nhân, khoảng 16% doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI. Ngoài ra, còn có thêm 5% doanh nghiệp nhà nước và 340 làng nghề chế biến gỗ. Những con số trên cho thấy cơ hội phát triển của ngành chế biến và thương mại lâm sản trong thời gian tới là rất lớn. Ngoài các yếu tố thuận lợi, ngành Lâm nghiệp nói chung và ngành chế biến và thương mại lâm sản nói riêng của Việt Nam đang phải đối mặt không ít thách thức, nhất là vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Theo quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam 128 giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ phát triển tỷ lệ nhân lực qua đào tạo khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ mức 15,5% năm 2010 lên khoảng 50% vào năm 2020. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020, nguồn nhân lực khối ngành này sẽ thiếu khoảng 3,2 triệu lao động qua đào tạo (Bộ GD&ĐT, 2019). Trong đó, thiếu hụt lực lượng cán bộ khoa học trình độ chuyên môn cao, đặc biệt ở một số lĩnh vực mới, công nghệ cao, cân đối nhân lực ở các chuyên môn. Nhu cầu lao động ngành chế biến gỗ và lâm sản được dự báo đến năm 2020 cần khoảng 64.000 người có trình độ Đại học, trên Đại học và 266.860 công nhân kỹ thuật; đến năm 2025 cần khoảng 106.800 người có trình độ Đại học, trên Đại học và 445.200 công nhân kỹ thuật. Lao động khác trong lĩnh vực trồng rừng, chế biến trung gian và công nghiệp phụ trợ sẽ lớn hơn gấp 3 lần so với hiện tại [5]. Ngoài ra, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (DN) FDI và DN Việt Nam về nguồn nhân lực ngày càng khốc liệt. Các doanh nghiệp có lao động không qua đào tạo, không có chứng chỉ nghề sẽ gặp rủi ro khi Việt Nam gia nhập các hiệp định thương mại tự do. Theo Bộ NN&PTNT (2019), trình độ của lao động không chỉ tác động đến năng suất của khâu sản xuất, chế biến mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định giá trị thương mại của sản phẩm [3]. Với những đòi hỏi trên, việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành Lâm nghiệp, trong đó bao gồm cả nhân lực thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản là hết sức cần thiết. 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN 2.1. Mục tiêu, định hướng phát triển ngành lâm nghiệp Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ và Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt xác định mục tiêu phát triển ngành lâm nghiệp: Phát triển lâm nghiệp bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, sử dụng tài nguyên rừng và quỹ đất được quy hoạch cho lâm nghiệp có hiệu quả và bền vững. Nâng độ che phủ rừng, tăng năng suất, chất lượng và giá trị của rừng, đáp ứng cơ bản nhu cầu gỗ, lâm sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân có cuộc sống gắn với nghề rừng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Định hướng thực hiện: (1) Cơ cấu các loại rừng đến năm 2020 khoảng 16,2 - 16,5 triệu ha, trong đó: rừng sản xuất 8,132 triệu ha, rừng phòng hộ 5,842 triệu ha và rừng đặc dụng 2,271 triệu ha. (2) Nâng cao giá trị gia tăng của ngành bằng thay đổi cách tiếp cận tổng hợp theo chuỗi hành trình của sản phẩm từ khâu tạo nguyên liệu cho tới khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển và nâng cao chất lượng rừng, phát triển công nghiệp chế biến gỗ. (3) Điều chỉnh cơ cấu các loại hình tổ chức quản lý rừng, chuyển đổi các công ty lâm nghiệp nhà nước được hình thành từ các lâm trường quốc doanh, phát triển kinh tế tư nhân hợp tác. (4) Tăng nguồn vốn đầu tư cả từ ngân sách nhà nước và ngoài ngân sách nhà nước. (5) Phát triển theo vùng kinh tế - sinh thái lâm nghiệp. Với mục tiêu và định hướng phát triển ngành lâm nghiệp như trên, đòi hỏi cần phải có những giải pháp, chương trình hành động nhằm cung cấp nguồn nhân lực đầy đủ cho các hoạt động phát triển lâm nghiệp. 129 2.2. Đặc điểm sử dụng nguồn nhân lực trong ngành Lâm nghiệp Lâm nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, quan điểm phát triển lâm nghiệp cũng có nhiều thay đổi ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sử dụng nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản. Quan điểm coi Lâm nghiệp là ngành kinh tế - kỹ thuật bao gồm quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; chế biến và thương mại lâm sản hay quan điểm phát triển lâm nghiệp bền vững dựa trên 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường. Với quan điểm này sử dụng lao động trong lâm nghiệp không thuần túy là lao động kỹ thuật mà đòi hỏi cả khía cạnh kinh tế và thương mại. Đây là tiền đề quan trọng để chuyển từ kinh tế lâm nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng rừng sang bảo vệ, phục hồi rừng, trồng rừng gắn với chế biến và thương mại lâm sản, nâng cao giá trị gia tăng của ngành. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước và hội nhập quốc tế, các hoạt động quản lý, sản xuất của ngành lâm nghiệp ngành càng đa dạng và phong phú hơn, bên cạnh các hoạt động sản xuất trực tiếp như trồng rừng, chăm sóc rừng, khai thác và chế biến lâm sản.. các hoạt động gián tiếp liên quan đến khai thác giá trị sinh thái, bảo vệ môi trường, xuất nhập khẩu cũng ngày càng phát triển và thu hút một số lượng đáng kể lao động ngành lâm nghiệp. Có thể nhận thấy, những hoạt động của ngành lâm nghiệp rất rộng, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ lâm sinh, chọn giống, quản lý tài nguyên rừng, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, khai thác chế biến lâm sản, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế lâm nghiệp, thương mại lâm sản, Để thực hiện được những mục tiêu, định hướng đặt ra thì phải có những chương trình, kế hoạch hành động cụ thể về phát triển nguồn nhân lực ngành lâm nghiệp. Trong đó, phải đánh giá được nhu cầu đào tạo theo từng lĩnh vực, trình độ đào tạo, đối tượng tham gia đào tạo và tiến độ thực hiện. Một số vấn đề sử dụng lao động trong ngành lâm nghiệp thời gian qua: - Chủ yếu sử dụng lao động giản đơn, mang tính thời vụ. Hằng năm, ngành thu hút nhiều lao động thời vụ để phục vụ cho hoạt động sản xuất, chế biến, thương mại lâm sản. Đối với các hoạt động trồng rừng thì do tính thời vụ của sản xuất nên việc sử dụng lao động mang tính thời vụ. Với lĩnh vực thương mại, mặc dù không gặp vấn đề về tính thời vụ trong sản xuất nhưng do các hợp đồng lớn thường vào cuối năm hay thời điểm khi khai thác gỗ [7] nên việc sử dụng lao động bị ảnh hưởng. Với tính chất mùa vụ như vậy, nhiều doanh nghiệp sử dụng hợp đồng có thời hạn với người lao động, thậm chí lao động không có hợp đồng [8]. Theo kết quả nghiên cứu của Cục Chế biến NLTS và NM, lao động theo mùa vụ (từ 7 đến 10 tháng trong năm) hiện chiếm khoảng 35 - 40%. - Về độ tuổi lao động: Theo số liệu khảo sát các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cho thấy bình quân mỗi doanh nghiệp sử dụng 277 lao động trong độ tuổi lao động chính (18-65 tuổi) và 2,5 lao động ở độ tuổi dưới 18 và trên 65. Nói cách khác, số lao động nằm trong độ tuổi chính chiếm 99% trong tổng số lao động trong mỗi doanh nghiệp. Lượng lao động nằm ngoài độ tuổi chính chỉ chiếm 1% [8]. - Phần lớn việc làm đều nằm trong lĩnh vực sản xuất sản xuất và dịch vụ có giá trị gia tăng thấp, khi có tới 76% tổng số lao động làm việc tại các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh, hay các công việc không có hợp đồng lao động (Demombynes và Testaverde, 2017). Số lao động trong khu vực kinh tế tăng nhanh hơn khu vực hành 130 chính, sự nghiệp, lao động trong khu vực kinh tế tăng 19,9% so với năm 2012, bình quân mỗi năm tăng 3,7%. Khối doanh nghiệp đang thu hút hơn 14 triệu lao động, tăng 28,2% (tương đương 3,1 triệu người) so với năm 2012. Số doanh nghiệp khối nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 1% (tăng hơn 1000 DN, 27,5% so với năm 2012) nhưng lao động giảm 1,1 nghìn người (0,4%) so với năm 2012. Trong khối nông nghiệp, thì lao động lâm nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng số lao động của ngành nông, lâm và thủy sản (số liệu thống kê, 2014). Lao động lâm nghiệp được chia thành 2 nhóm là chuyên về lâm nghiệp và lao động lâm nghiệp kiêm ngành nghề khác, lao động chuyên về lâm nghiệp chiếm khoảng 28,14% (42.237 người). - Lao động lâm nghiệp chủ yếu tập trung ở Bắc trung bộ và duyên hải miền trung, chiếm 54%, tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc, chiếm 24% tổng số lao động lâm nghiệp. Các vùng Tây nguyên và Đông nam bộ có tiềm năng về phát triển lâm nghiệp rất lớn, nhưng lao động về lâm nghiệp chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (4%) trong tổng số lao động lâm nghiệp của cả nước. - Lao động lâm nghiệp trong độ tuổi làm việc được chia theo 2 hình thức làm việc là làm việc cho gia đình và đi làm có nhận lượng. Số lao động lâm nghiệp làm cho gia đình là 98.421 người, chiếm hơn hơn 50% tổng số lao động lâm nghiệp. Điều này cho thấy, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp lâm nghiệp vẫn còn nhỏ, ít sử dụng lao động, chưa thực sự tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho đồng bào ở nông thôn, miền núi. Số liệu thống kê cũng cho thấy, trong tổng số 56.692 hộ gia đình sản xuất lâm nghiệp, có 30.714 hộ gia đình (chiếm 54%) là chuyên về sản xuất lâm nghiệp, còn 25.978 là hộ gia đình lâm nghiệp kiêm ngành khác (chiếm 46%). Phần lớn (chiếm 91%) hộ lâm nghiệp là ở nông thôn miền núi. Qua số liệu phân tích về đặc điểm diễn biến và quy mô nguồn nhân lực ngành lâm nghiệp cho thấy, số lượng lao động ngành lâm nghiệp còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số lượng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản, chưa thực sự tương xứng với tổng diện tích đất đai mà ngành lâm nghiệp được giao quản lý (chiếm gần ½ lãnh thổ) và tiềm năng về phát triển sản xuất lâm nghiệp. Trái ngược với xu thế giảm quy mô lao động nông nghiệp, chuyển dịch dần sang công nghiệp và dịch vụ trong những năm vừa qua. Trong ngành lâm nghiệp, cùng với sự gia tăng về giá trị của sản xuất, xuất khẩu lâm sản, quy mô về lao động và sản xuất lâm nghiệp có sự tăng trưởng dương ở hầu hết các vùng trong cả nước. Đây có thể nói là một tín hiệu tích cực trong phát huy vị thế và vai trò của ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, từng bước tạo thêm nhiều công ăn, việc làm, nâng cao thu nhập của người dân sống với nghề rừng, góp phần bảo vệ môi trường và tạo sự ổn định về an ninh, quốc phòng như các chủ trương và chiến lược phát triển ngành đã đề ra. 2.3. Thực trạng đào tạo nhân lực lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản Hiện tại cả nước có 08 trường đại học thực hiện đào tạo nhân lực cho ngành lâm nghiệp gồm Đại học Lâm nghiệp, 04 trường khối nông-lâm nghiệp và 03 trường đại học vùng và khu vực. Các lĩnh vực đào tạo chính của các trường gồm: (i) Lâm nghiệp/lâm sinh; (ii) Quản lý tài nguyên rừng; (iii) Quản lý tài nguyên thiên nhiên/tài nguyên thiên nhiên và môi trường; (iv) Chế biến lâm sản/thiết kế nội thất; (v) Lâm nghiệp đô thị/kiến trúc cảnh quan. Trong các lĩnh vực đào tạo, ngành Kinh tế lâm nghiệp trước đây có một số trường đào tạo. 131 Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh của trường Đại học Lâm nghiệp, tiền thân là Khoa Kinh tế Lâm nghiệp được thành lập vào năm 1964. Năm 1995 Khoa được thành lập lại theo Quyết định số 551/TCLĐ, ngày 24/8/1995 của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT), trực thuộc Trường Đại học Lâm nghiệp với tên gọi Khoa Quản trị kinh doanh và đến năm 2008 chính thức đổi tên thành Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh. Khoa Kinh tế & QTKD hiện quản lý 7 ngành học bậc đại học, gồm: Ngành Quản trị kinh doanh (QTKD), Kinh tế, Kinh tế nông nghiệp (Trước đây là ngành Kinh tế Lâm nghiệp), Kế toán, Công tác xã hội, Quản trị Dịch vụ Du lịch và Lữ hành và Công nghệ thông tin; 02 ngành học bậc thạc sĩ: Kinh tế nông nghiệp và Quản lý kinh tế; 01 ngành tiến sỹ: Kinh tế nông nghiệp. Hàng năm, Khoa Kinh tế & QTKD thu hút một số lượng lớn sinh viên và học viên theo học. Bảng 1. Các ngành nghề đào tạo của Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh Năm Trước 2000 2002 2004 2008 2011 2016 2017 Số lượng ngành 2 3 4 7 6 6 7 Tên ngành - Kinh tế LN -QTKD - Kinh tế LN - QTKD -Quản lý đất đai - Kinh tế LN - QTKD - Quản lý đất đai -Kế toán - Kinh tế LN - QTKD - Quản lý đất đai - Kế toán - Kinh tế - Kinh tế tài nguyên - Hệ thống thông tin - QTKD - Quản lý đất đai - Kế toán - Kinh tế -Hệ thống thông tin - Kinh tế nông nghiệp - QTKD - Kế toán - Kinh tế -Hệ thống thông tin - Kinh tế nông nghiệp - Công tác xã hội - QTKD - Kế toán - Kinh tế - Hệ thống thông tin - Kinh tế nông nghiệp - Công tác xã hội - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Từ khi thành lập đến năm 2008, ngành Kinh tế lâm nghiệp luôn là ngành đào tạo có số lượng sinh viên đông, cung cấp nguồn nhân lực về kinh tế cho ngành Lâm nghiệp. Từ năm 2008 đến nay, ngành Kinh tế lâm nghiệp được đổi tên thành ngành Kinh tế nông nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, số lượng sinh viên học ngành Kinh tế nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh. 132 Bảng 2. Kết quả đào tạo của Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh Bậc/hệ ĐT 1964-1990 1991-1995 1996-2014 2014- 2019 Tổng 1. Bậc Đại học 1.530 414 7.542 4.102 13.588 - Chính quy 964 182 4.421 2.887 8.454 - VLVH 315 109 2.927 623 3.974 - Chuyên tu, cử tuyển 251 123 0 0 374 - Liên thông 0 0 194 592 786 Bình quân 1 năm 59 83 838 684 247 2. Cao học 0 0 1.120 1.552 2.672 3. Nghiên cứu sinh 0 0 0 21 21 Từ khi thành lập đến nay, Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh đã đào tạo 13.588 sinh viên hệ đại học, 2.672 học viên cao học. Ngành nghề đào tạo trong Khoa được mở rộng, các ngành nghề đáp ứng cho nhiều ngành nghề khác nhau chứ không phải chỉ có ngành Lâm nghiệp. Với kết quả thống kê cho thấy, số lượng sinh viên học khối ngành Kinh tế đông so với các ngành kỹ thuật trong trường nhưng số lượng sinh viên được đào tạo chuyên sâu về kinh tế nông lâm nghiệp và thương mại lâm sản có xu hướng giảm. 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN - Rà soát và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành lâm nghiệp trên toàn quốc. Trong đó đánh giá được thực trạng và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực theo từng lĩnh vực (giống, lâm sinh, công nghệ chế biến gỗ, kinh tế và thương mại lâm sản, dịch vụ lâm nghiệp,) và theo trình độ đào tạo (đào tạo nghề, đào tạo chuyên nghiệp, đào tạo đại học, sau đại học). Hoạt động đào tạo cần theo định hướng và mục tiêu phát triển lâm nghiệp. - Xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực các cán bộ quản lý các cấp, các doanh nghiệp, cộng đồng, hộ gia đình làm nghề rừng, kinh doanh và chế biến lâm sản. Đặc biệt là nâng cao kỹ năng quản trị cho chủ cơ sở sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, kiến thức thị trường, thương mại trong lâm nghiệp,. - Khuyến khích, tạo thuận lợi để doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo thực hiện hợp tác và liên kết trong đào tạo, nhằm nâng cao kỹ năng cho lao động của doanh nghiệp, tăng kỹ năng thực hành, thực tập của các cơ sở đào tạo. Thực hiện đào tạo theo đặt hàng. Cải thiện nguồn cung và chất lượng nhân lực một cách đồng bộ không phải là vấn đề có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà cần ít nhất từ 5 -10 năm mới có thể mang lại hiệu quả. Trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực trước mắt, các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp chế biến và thương mại cần chủ động thực hiện liên kết với cơ sở đào tạo triển khai các khóa học ngắn hạn cho lao động hoặc đặt hàng đào tạo theo nhu cầu. Doanh nghiệp đặt hàng, nhà trường đào tạo theo yêu cầu doanh nghiệp, lên khung chương trình, đào tạo, thực tập. Đại học đẩy mạnh, thiết kế chương trình "học và hành" để sinh viên được trau dồi, rèn luyện kỹ năng làm nghề. Đồng 133 thời, nhà trường đào tạo đa dạng ngành nghề đáp ứng nhu cầu của ngành lâm nghiệp, tăng cường đẩy mạnh đào tạo quốc tế để tăng cường kiến thức, thông tin, trình độ của nguồn nhân lực tương lai”. - Đề nghị đẩy mạnh những chương trình quốc gia về phát triển nguồn nhân lực cho ngành chế biến gỗ Việt Nam; trong đó chú trọng việc đào tạo kiến thức và kỹ năng, tay nghề phù hợp với sản xuất sản phẩm gỗ, nâng cao trình độ vận hành máy móc, thiết bị của công nhân, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, điều hành sản xuất, kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của đội ngũ quản lý nhưng bên cạnh đó cần kiến thức về kinh tế, thị trường. - Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu trong bối cảnh công nghệ cao, công nghệ 4.0, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo; xây dựng các mô hình thành công với ý tưởng công nghệ mới, có mô hình kinh doanh sáng tạo và chấp nhận rủi ro để đưa những sản phẩm, dịch vụ chế biến gỗ và lâm sản ra thị trường cho các đối tượng tiềm năng là sinh viên, doanh nghiệp starup. Qua đó nâng cao nhận thức của toàn xã hội, thu hút người học, tạo hứng khởi cho người trẻ tham gia học tập và lao động, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và tiềm năng cho ngành Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản. - Xây dựng Đề án “Tăng cường năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học cho Trường/Viện nghiên cứu/Doanh nghiệp phục vụ chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu”: Mục đích của đề án này là thử nghiệm xây dựng và triển khai chương trình đào tạo tiên tiến, chất lượng cao, ứng dụng khoa học công nghệ mới đào tạo đội ngũ kỹ sư có thể vận hành, quản trị điều hành nền sản xuất hiện đại tiên tiến; triển khai các dự án nghiên cứu hợp tác công nghệ cao với doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản. 4. KẾT LUẬN Ngành Chế biến và xuất khẩu lâm sản lại có tốc độ phát triển nhanh, tỷ lệ xuất siêu trên 70% và GTGT trên 40%. Tiềm năng này chỉ thực sự biến thành khả năng, nếu được Chính phủ đồng hành bằng sự khẳng định “Chế biến gỗ là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế thị trường dựa trên sự hội nhập sâu rộng vào thị trường đồ gỗ quốc tế, nguồn nguyên liệu trong nước, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, nguồn nhân lực được đào tạo phù hợp” với những giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp phát triển. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam về nguồn nhân lực càng khốc liệt. Đặc biệt, các doanh nghiệp có lao động không qua đào tạo, không có chứng chỉ nghề sẽ gặp rủi ro khi Việt Nam gia nhập CPPP. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nhân lực trong lĩnh vực kinh tế và thương mại lâm sản là việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Quang Bảo (2014), Báo cáo đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành Lâm nghiệp, Hội thảo phát triển ngành Lâm nghiệp tại Đà Nẵng. 2. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2012), Quyết định 2728/QĐ-BNN-CB 2012 về Quy hoạch công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đến 2020 và định hướng đến năm 2030. 134 3. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2019), Tài liệu diễn đàn ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản năm 2018 - thành công, bài học kinh nghiệm; giải pháp bứt phá năm 2019. 4. Cục thương mại, CBNLTS&NM, 2012, Báo cáo điều tra phục vụ Quy hoạch công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 5. Lê Hòa (2019), Ngành gỗ thiếu hụt nhân lực trình độ cao, Báo kiểm toán. 6. Trần Huy Hoàn, Võ Kim Tuyến (2016), Ngành dịch vụ môi trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 7. Trần Văn Hùng (2016), Phát triển ngành chế biến gỗ vùng đông nam bộ, Luận án Tiến sỹ. 8. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), 2016, Báo cáo Nghiên cứu Một số rủi ro chính của ngành chế biến gỗ xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập Thực trạng và Giải pháp chính sách 9. Thủ tướng Chính phủ (2019), Chỉ thị số: 08/CT-TTg về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ xuất khẩu ngày 28 tháng 3 năm 2019 10. Tổng cục thống kê, Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017, NXB Thống kê 11. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018), Tác động cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, Hà Nội.
File đính kèm:
- giai_phap_phat_trien_nguon_nhan_luc_trong_linh_vuc_kinh_te_v.pdf