Giải pháp ổn định thu nhập cho hộ nông dân sau thu hồi đất tại khu công nghiệp Lương Sơn-Hòa Bình

TÓM TẮT

Bài báo trình bày kết quả phân tích tình hình thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp Lương Sơn và ảnh

hưởng của việc thu hồi đất đến việc làm, ổn định thu nhập của các hộ nông dân. Số liệu điều tra từ 92 hộ bị ảnh

hưởng của việc thu hồi đất, bao gồm 2 nhóm: nhóm bị thu hồi một phần đất và nhóm bị thu hồi toàn bộ đất

nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy từ năm 2011, địa phương đã thu hồi 82,9 ha đất, trong đó có 77,36

ha đất nông nghiệp, đối tượng bị ảnh hưởng của việc thu hồi đất là 146 hộ gia đình và 462 lao động nông

nghiệp. Trước khi thu hồi đất thì ngành nông nghiệp đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở địa phương.

Sau thu hồi đất, tỷ trọng lao động làm nông nghiệp còn 38,78%, công nhân chiếm 20,82%, buôn bán chiếm

20,82%. Thu nhập của hộ gia đình tăng lên, các hoạt động phi công nghiệp đã góp phần cải thiện thu nhập, ổn

định cuộc sống của hộ nông dân sau thu hồi đất. Tuy nhiên, mặt trái của thu hồi đất là một bộ phận lao động

phải đi làm thuê với công việc không ổn định, thu nhập thấp. Để ổn định thu nhập cho các hộ nông dân sau khi

thu hồi đất thì cần có sự hỗ trợ từ chính quyền như đào tạo nghề, định hướng việc làm, tạo điều kiện cho người

nông dân tự chuyển đổi việc làm.

Từ khóa: Hộ nông dân, khu công nghiệp, thu hồi đất, thu nhập.

pdf 9 trang phuongnguyen 320
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp ổn định thu nhập cho hộ nông dân sau thu hồi đất tại khu công nghiệp Lương Sơn-Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp ổn định thu nhập cho hộ nông dân sau thu hồi đất tại khu công nghiệp Lương Sơn-Hòa Bình

Giải pháp ổn định thu nhập cho hộ nông dân sau thu hồi đất tại khu công nghiệp Lương Sơn-Hòa Bình
Kinh tế & Chính sách 
 151TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH THU NHẬP CHO HỘ NÔNG DÂN SAU THU HỒI ĐẤT 
TẠI KHU CÔNG NGHIỆP LƯƠNG SƠN - HÒA BÌNH 
Bùi Thị Minh Nguyệt1, Hoàng Văn Thống2 
1,2Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày kết quả phân tích tình hình thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp Lương Sơn và ảnh 
hưởng của việc thu hồi đất đến việc làm, ổn định thu nhập của các hộ nông dân. Số liệu điều tra từ 92 hộ bị ảnh 
hưởng của việc thu hồi đất, bao gồm 2 nhóm: nhóm bị thu hồi một phần đất và nhóm bị thu hồi toàn bộ đất 
nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy từ năm 2011, địa phương đã thu hồi 82,9 ha đất, trong đó có 77,36 
ha đất nông nghiệp, đối tượng bị ảnh hưởng của việc thu hồi đất là 146 hộ gia đình và 462 lao động nông 
nghiệp. Trước khi thu hồi đất thì ngành nông nghiệp đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở địa phương. 
Sau thu hồi đất, tỷ trọng lao động làm nông nghiệp còn 38,78%, công nhân chiếm 20,82%, buôn bán chiếm 
20,82%. Thu nhập của hộ gia đình tăng lên, các hoạt động phi công nghiệp đã góp phần cải thiện thu nhập, ổn 
định cuộc sống của hộ nông dân sau thu hồi đất. Tuy nhiên, mặt trái của thu hồi đất là một bộ phận lao động 
phải đi làm thuê với công việc không ổn định, thu nhập thấp. Để ổn định thu nhập cho các hộ nông dân sau khi 
thu hồi đất thì cần có sự hỗ trợ từ chính quyền như đào tạo nghề, định hướng việc làm, tạo điều kiện cho người 
nông dân tự chuyển đổi việc làm. 
Từ khóa: Hộ nông dân, khu công nghiệp, thu hồi đất, thu nhập. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường 
phát triển tất yếu của mọi quốc gia trên thế 
giới. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đã có sự thay đổi cơ bản, đó là phát triển 
đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn; là 
thay đổi căn bản xã hội nông thôn theo hướng 
công nghiệp. Ở nước ta, trong những năm qua 
trên khắp các vùng, miền của đất nước, nhiều 
khu công nghiệp (KCN) mới được xây dựng, 
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được 
nâng cấp, ngày càng đồng bộ và hiện đại. Song 
song với quá trình đó là quá trình thu hồi đất, 
đặc biệt là đất nông nghiệp để phục vụ cho 
phát triển công nghiệp là nhu cầu tất yếu. Bên 
cạnh những tác động tích cực của việc xây 
dựng các KCN như thu hút đầu tư, tạo công ăn 
việc làm, chỉnh trang đô thị thì thu hồi đất 
cũng ảnh hưởng lớn đối với người dân. 
Khu công nghiệp Lương Sơn có diện tích 
82,9 ha, nằm trên địa bàn xã Hòa Sơn, huyện 
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, là KCN quy mô 
lớn, hoạt động trong nhiều năm nay. Đời sống 
người dân kể từ khi KCN đi vào hoạt động đã 
có nhiều mặt ổn định và phát triển tốt. Tuy 
nhiên, vẫn còn nhiều người dân bị thu hồi đất 
đang gặp khó khăn như việc làm, thu nhập 
không ổn định... Để phát triển công nghiệp 
toàn tỉnh nói chung và KCN Lương Sơn nói 
riêng theo hướng bền vững, vấn đề tạo công ăn 
việc làm, ổn định thu nhập cho người dân bị 
thu hồi đất hiện là một thách thức đối với các 
ngành chức năng của Huyện. Xuất phát từ 
những vấn đề trong thực tiễn nêu trên, nghiên 
cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu ảnh 
hưởng của việc thu hồi đất đến thu nhập và ổn 
định thu nhập của hộ nông dân tại KCN Lương 
Sơn - Hòa Bình. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp thu thập thông tin 
Kinh tế & Chính sách 
 152 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
- Thông tin thứ cấp được thu thập từ các 
nguồn tài liệu đã công bố như sách, báo, tạp 
chí, các báo cáo tổng kết của xã bị thu hồi đất 
làm KCN Lương Sơn, Chi cục Thống kê huyện 
Lương Sơn, Công ty Cổ phần Bất động sản An 
Thịnh, Hoà Bình (chủ đầu tư KCN Lương Sơn)... 
- Thông tin sơ cấp được thu thập thông qua 
điều tra 92 hộ nông dân bị thu hồi đất tại địa 
phương. Nghiên cứu chia thành 2 nhóm điều 
tra: Nhóm 1 là các hộ chỉ bị thu hồi đất nông 
nghiệp với số mẫu điều tra 76 hộ; Nhóm 2: là 
các hộ bị thu hồi cả đất nông nghiệp, đất vườn 
tạp và đất thổ cư với số mẫu điều trà là 16 hộ. 
2.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu: 
Các số liệu thu thập được xử lý trên phần 
mềm excel, phần mềm SPSS. 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê 
mô tả, thống kê so sánh. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Tình hình thu hồi đất tại KCN Lương Sơn 
Khu công nghiệp Lương Sơn được thành 
lập theo quyết định số 78/QĐ-UBND ngày 
21/01/2011 của UBND tỉnh Hòa Bình. Theo 
quy hoạch chi tiết KCN Lương Sơn có diện 
tích 82,90 ha và nằm trên địa bàn các xã Hòa 
Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Để xây 
dựng KCN Lương Sơn, địa phương đã thực 
hiện công tác thu hồi đất của một số hộ gia 
đình, kết quả thể hiện trên bảng 01. 
Bảng 01. Thực trạng thu hồi đất tại KCN Lương Sơn 
TT Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Tỷ trọng (%) 
1 Tổng diện tích đất thu hồi ha 82,90 100 
a Đất nông nghiệp ha 77,36 93,32 
b Đất ở ha 4,36 5,26 
c Đất phi nông nghiệp khác ha 1,18 1,42 
2 Tổng số hộ bị thu hồi đất Hộ 146 
3 Tổng số lao động nông nghiệp bị ảnh hưởng Người 462 
 Nguôn: Phòng Tài nguyên huyện Lương Sơn 
Qua số liệu bảng 01 có thể thấy, trong tổng 
số 82,90 ha đất bị thu hồi cho KCN Lương Sơn 
thì đất nông nghiệp là 77,36 ha, chiếm tỷ lệ 
93,32%; đất ở là 4,36 ha, chiếm tỷ lệ 5,26%, 
đất phi nông nghiệp khác 1,18 ha, chiếm 
1,42%. Trong đó, đối tượng bị ảnh hưởng của 
việc thu hồi đất cho KCN là 146 hộ gia đình với 
758 nhân khẩu và 462 lao động nông nghiệp. 
3.2. Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến thu 
nhập của hộ 
3.2.1. Tình hình thu hồi đất của các hộ điều 
tra tại KCN Lương Sơn 
Tổng diện tích đất của các hộ gia đình trước 
khi thu hồi là 36,67 ha, trong đó: diện tích đất 
nông nghiệp là 36,15 ha, chiếm tỷ trọng 
98,58%; đất phi nông nghiệp vớí 0,52 ha, 
chiếm tỷ trọng 1,42%. Tổng diện tích đất nông 
nghiệp bị thu hồi là 14,78 ha (chiếm 40,88% 
diện tích đất nông nghiệp). Diện tích đất của 
các hộ nông dân sau khi thu hồi còn 21,71 ha, 
trong đó diện tích đất nông nghiệp còn lại sau 
thu hồi đất là 21,34 ha. Với tỷ lệ đất nông 
nghiệp bị thu hồi lớn đã gây ảnh hưởng không 
nhỏ đến cuộc sống của người dân bị thu hồi đất. 
Kinh tế & Chính sách 
 153TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
Bảng 02. Tình hình sử dụng đất của các hộ bị thu hồi đất 
Chỉ tiêu 
Trước thu hồi đất Sau thu hồi đất So sánh 
Diện tích 
(ha) 
Tỷ trọng 
% 
Diện tích 
(ha) 
Tỷ trọng 
% 
± 
Tỷ lệ giảm 
(%) 
1. Đất nông nghiệp 36,15 98,58 21,37 98,45 -14,78 -40,89 
2. Đất phi nông nghiệp 0,52 1,42 0,34 1,55 -0,18 -35,48 
Tổng 36,67 100,00 21,71 100,00 -14,96 -40,81 
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp 
3.2.2. Tình hình đền bù và sử dụng tiền đền 
bù của các hộ nông dân bị thu hồi đất tại 
Khu công nghiệp Lương Sơn 
Kết quả điều tra về tình hình đền bù cho các 
hộ bị thu hồi đất cho thấy: Số tiền đền bù của 
hộ nhận rất khác nhau tùy thuộc vào diện tích 
đất thu hồi. Số tiền đền bù trung bình mà một 
hộ nhận được là 860,2 triệu đồng, hộ nhận cao 
nhất là 1.566,3 triệu đồng và thấp nhất là 10,5 
triệu đồng. 
Tình hình sử dụng tiền đền bù khi bị thu 
hồi đất của các hộ điều tra được thể hiện trên 
hình 01. 
Hình 01. Tình hình sử dụng tiền đền bù của hộ bị thu hồi đất 
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp 
Qua hình 01 cho thấy, các hộ bị thu hồi đất 
sử dụng tiền bồi thường cho nhiều mục đích 
khác nhau, chủ yếu đầu tư vào sản xuất kinh 
doanh với 36/92 hộ (chiếm 39,13%), mua lại 
đất sản xuất có 18/92 hộ (chiếm 22,82%), gửi 
ngân hàng là 16/92 hộ (chiếm 17,39 %), còn 
lại cho các mục đích khác. 
Qua cách thức sử dụng tiền đền bù cho thấy, 
hầu hết các hộ bị thu hồi đất đã chú trọng vào 
việc tái đầu tư, tạo cuộc sống ổn định như là 
mua đất sản xuất hoặc đầu tư vào sản xuất kinh 
doanh. Các thức sử dụng tiền đền bù có sự 
khác nhau giữa 2 nhóm, nhóm bị thu hồi toàn 
bộ đất nông nghiệp thì quan tâm nhiều hơn đến 
việc đảm bảo thu nhập và sản xuất; nhóm các 
hộ bị thu hồi một phần diện tích đất nông 
13% 3%
39%
6%
20%
17%
1%1%
Xây dựng, sửa chữa nhà ở
Mua xe cho sử dụng cá nhân
Đầu tư vào sản xuất kinh doanh
Mua sắm vật dụng gia đình
Mua lại đất
Gửi ngân hàng
Trả nợ
Mục đích khác
Kinh tế & Chính sách 
 154 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
nghiệp thì lại có cách thức sử dụng tiền đền bù 
đa dạng hơn. Trong đó họ đã dành một khoản 
tiền lớn cho mục đích nâng cao chất lượng 
cuộc sống như sửa chữa nhà cửa, mua sắm vật 
dụng gia đình và cả mua xe ô tô. 
3.2.3. Ảnh hưởng đến việc làm của người dân 
bị thu hồi đất 
Bảng 03. Tình hình việc làm của hộ trước và sau thu hồi đất 
Nghề nghiệp 
Trước thu hồi đất Sau thu hồi đất 
Số lao động 
(Người) 
Tỷ trọng 
(%) 
Số lao động 
(Người) 
Tỷ trọng 
(%) 
1. Nông dân 167 68,16 95 38,78 
2. Công nhân 10 4,08 51 20,82 
3. Giáo viên 4 1,63 4 1,63 
4. Viên chức nhà nước 3 1,22 3 1,22 
5. Buôn bán 15 6,12 32 13,06 
6. Nhân viên văn phòng 5 2,04 6 2,45 
7. Đi học 6 2,45 6 2,45 
8. Làm thuê, mướn 8 3,27 15 6,12 
9. Nội trợ 6 2,45 6 2,45 
10. Nghỉ hưu 4 1,63 4 1,63 
11. Kinh doanh dịch vụ 8 3,27 16 6,53 
12. Nghề khác 9 3,67 7 2,86 
Tổng 245 100 245 100 
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp 
Qua số liệu bảng 03 cho thấy, trước thu hồi 
đất hầu hết người dân ở đây làm nông nghiệp 
và chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,16% tổng số lao 
động được khảo sát, số lao động phi nông 
nghiệp, gồm: đi học 2,45%, làm thuê 3,27%, 
giáo viên 1,63%, viên chức nhà nước 1,22%, 
lao động làm công nhân 4,08%. 
Sau khi thu hồi đất, cơ cấu lao động có 
nhiều biến động, tỷ trọng lao động làm nông 
nghiệp giảm (chiếm 38,78%), chủ yếu là tham 
gia hoạt động chăn nuôi và trồng cây lâu năm. 
Số lao động trong các ngành nghề phi nông 
nghiệp đều có sự gia tăng với tỷ lệ khác nhau, 
trong đó cao nhất là công nhân chiếm 20,82% 
tăng 410% so với trước khi thu hồi đất; số lao 
động tham gia các hoạt động buôn bán là 
13,06%, tăng 113,33% so với trước thu hồi 
đất;kinh doanh dịch vụ chiếm 6,53% tăng 
100% so với trước khi thu hồi đất. Các ngành 
nghề khác như giáo viên, viên chức nhà nước, 
đi học, nội trợ, nghỉ hưu không thay đổi. Các 
hoạt động buôn bán, vào làm công nhân trong 
KCN góp phần cải thiện thu nhập, ổn định 
cuộc sống của một số hộ sau thu hồi đất. Bên 
cạnh đó, lao động làm thuê cũng tăng, số lao 
động này là những nông dân bị mất đất sản 
xuất, không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng 
vào làm trong các KCN, buộc họ phải tìm kiếm 
Kinh tế & Chính sách 
 155TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
việc làm để có thu nhập cho gia đình nhưng đa 
phần là công việc không ổn định, mang tính 
thời vụ, thu nhập bấp bênh. 
Cơ hội việc làm của lao động là do ảnh 
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như: trình 
độ học vấn, vốn, nhận thức... Việc làm và loại 
việc làm là cơ sở đảm bảo cho họ khả năng cải 
thiện thu nhập, thích nghi và ổn định cuộc sống 
sau khi bị thu hồi đất. Tuy nhiên, để tham gia 
lao động tại các khu công nghiệp có những đòi 
hỏi riêng. Qua kết quả khảo sát cho thấy, một 
trong những vấn đề nổi lên sau khi thu hồi đất 
của nông hộ là tình trạng có nhiều người lao 
động mất việc làm, không có việc làm mới hay 
việc làm không phù hợp (có việc làm nhưng 
trình độ, sức khỏe, tuổi tác, tính kỷ luật... của 
người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của 
công việc hay có việc làm nhưng người lao 
động không chấp nhận làm do vất vả, thu nhập 
thấp...). Song nguyên nhân chủ yếu đều do họ 
chưa có sự chuẩn bị tốt về khả năng tìm kiếm 
việc làm trước khi Nhà nước thu hồi đất. Bên 
cạnh đó, công tác đào tạo nghề cho lao động 
nông thôn để tạo cơ hội việc làm chưa thật sự 
được quan tâm. 
Một điểm đáng chú ý là mặc dù người dân 
bị mất đất sản xuất nông nghiệp để phục vụ 
cho việc xây KCN, nhưng khi KCN hình thành 
thì việc thu hút lực lượng lao động từ những 
gia đình có đất bị thu hồi rất ít được sự quan 
tâm từ chính quyền địa phương và chủ đầu tư. 
Qua khảo sát, chỉ có khoảng 16 lao động, trong 
tổng số lao động được khảo sát, thuộc diện có 
đất bị thu hồi đang làm việc trong KCN Lương 
Sơn và theo các hộ được phỏng vấn thì công 
việc mà con em họ đang làm trong KCN do họ 
tự chủ động tìm kiếm chứ không phải từ sự 
giúp đỡ của chính quyền địa phương. 
3.2.4. Ảnh hưởng đến thu nhập của người 
dân bị thu hồi đất 
Tác động của việc mất đất, thay đổi sinh kế 
cũng làm cho thu nhập của người dân trong 
vùng bị ảnh hưởng. Qua khảo sát 92 hộ thì có 
20 hộ, chiếm tỷ lệ 21,74% số hộ trả lời thu 
nhập của họ không tăng lên so với trước khi 
thu hồi đất; nhưng có tới 72 hộ, chiếm 78,26% 
số hộ được khảo sát trả lời là thu nhập của họ 
có tăng lên sau khi thu hồi đất. 
Bảng 04. Đánh giá về thu nhập của hộ sau khi bị thu hồi đất 
Kết quả đánh giá Số lượng (hộ) Tỷ trọng (%) 
1. Thu nhập không tăng 20 21,74 
2. Thu nhập tăng lên 72 78,26 
Tổng 92 100 
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp 
Bảng 05 cho thấy rõ hơn về ảnh hưởng của 
thu hồi đất đến thu nhập bình quân của hộ, 
trước thu hồi đất nguồn thu nhập của người 
dân chủ yếu là từ nông nghiệp, đặc biệt là 
trồng trọt (hộ trồng cây lâu năm thu nhập 31,24 
triệu/năm, hộ trồng rau màu là 30,12 triệu/năm, 
hộ trồng lúa là 3,22 triệu/năm), hoạt động chăn 
nuôi tại các hộ mang tính chất nhỏ lẻ nên thu 
nhập mang lại còn thấp. Mặt khác nguồn thu 
nhập từ tiền lương tiền công chỉ đạt 2,32 
triệu/hộ/tháng và thu nhập từ buôn bán kinh 
doanh đạt 3,35 triệu/hộ/tháng. 
Kinh tế & Chính sách 
 156 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
Bảng 05. Cơ cấu thu nhập trung bình của hộ bị thu hồi đất 
Nguôn thu nhập ĐVT 
Thu nhập bình quân hộ So sánh 
Trước thu hồi Sau thu hồi ± Tỷ lệ(%) 
1- Thu nhập từ trông trọt 
Thu nhập từ lúa Tr.đ/vụ 3,22 1,02 -2,2 -68,32 
Thu nhập từ cây lâu năm Tr.đ/năm 31,24 12,42 -18,82 -60,24 
Thu nhập từ rau màu Tr.đ/năm 30,12 10,51 -19,61 -65,11 
2- Thu nhập chăn nuôi 
Thu nhập từ chăn nuôi trâu bò Tr.đ/năm 1,61 1,03 -0,58 -36,02 
Thu nhập từ chăn nuôi heo Tr.đ/năm 10,01 8,81 -1,2 -11,99 
Thu nhập từ chăn nuôi gia cầm Tr.đ/năm 1,53 0,35 -1,18 -77,12 
3- Thu từ tiền lương, tiền công Tr.đ/tháng 2,32 5,13 2,81 121,12 
4- Thu từ buôn bán kinh doanh Tr.đ/tháng 3,35 6,28 2,93 87,46 
5- Thu nhập từ hoạt động khác Tr.đ/tháng 1,25 1,2 -0,05 -4,00 
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp của tác giả 
Sau khi thu hồi đất, thu nhập bình quân của 
hộ thay đổi khá nhiều. Thu nhập từ tiền lương, 
tiền công và thu nhập từ buôn bán kinh doanh 
tăng lên đáng kể, trong khi đó thu nhập từ sản 
xuất nông nghiệp giảm mạnh. Dấu hiệu trên là 
vô cùng tích cực vì cho thấy được các hộ có 
thu nhập chính từ nông nghiệp đã dần thích 
nghi với ngành nghề mới và việc sử dụng số 
tiền được đền bù một cách hiệu quả đã góp 
phần rất lớn trong việc cải thiện thu nhập của 
hộ gia đình sau khi thu hồi đất. 
Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân làm cho 
thu nhập của một số hộ nông dân không được 
cải thiện sau khi thu hồi đất. Qua khảo sát cho 
thấy, một nguyên nhân quan trọng làm cho thu 
nhập của hộ bị giảm và sau một vài năm được 
nhận tiền đền bù thì cuộc sống của hộ lâm vào 
khó khăn là do cách sử dụng tiền đền bù chưa 
hợp lý, sử dụng quá nhiều tiền vào mục đích 
tiêu dùng như: xây dựng sửa chữa nhà ở, mua 
sắm vật dụng trong gia đình, mua xe cho sử 
dụng cá nhân... Vì vậy, nếu chính quyền địa 
phương không có giải pháp hợp lý để hỗ trợ 
người dân sau khi bị thu hồi đất, thì nguyên tắc 
trong thu hồi đất là đảm bảo cuộc sống của 
người dân phải bằng hoặc cao hơn trước khi 
thu hồi đất là rất khó đảm bảo. 
3.2.5. Một số tác động khác đến hộ nông dân 
sau khi thu hồi đất 
Sau khi nhận được tiền bồi thường, các hộ 
đã sử dụng vào rất nhiều mục đích khác nhau 
(hình 01). Nhiều hộ dân sử dụng tiền bồi 
thường đất tương đối hợp lý vào mục đích đầu 
tư phát triển sản xuất kinh doanh, một bộ phận 
đầu tư dàn trải cho mục đích không mang lại 
lợi ích kinh tế đã ảnh hưởng đến thu nhập và 
Kinh tế & Chính sách 
 157TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
ổn định thu nhập của hộ nông dân. Qua đây có 
thể thấy rằng vẫn còn một số hộ chưa nhận 
thức đúng đắn được hậu quả của việc thu hồi 
đất tác động đến tương lai của chính gia đình 
mình. 
Hơn nữa, chính sách đào tạo nghề hiện nay 
chưa thực sự gắn với nhu cầu thực tiễn của 
doanh nghiệp, vẫn còn mang tính hình thức, 
đào tạo cho hết tiền, đào tạo theo những nghề 
vốn có sẵn từ trước gây lãng phí ngân sách 
Nhà nước. Người lao động không có tay nghề 
hoặc tay nghề không được nâng cao thực sự, 
nghề đào tạo không phù hợp với nhu cầu tuyển 
dụng lao động hiện tại nên một số những 
người được đào tạo nghề không có việc làm ổn 
định, một số người vẫn không có việc làm. 
Việc thu hồi đất đã đem lại cho người nông 
dân một khoản tiền lớn, do người nông dân còn 
thiếu vốn xã hội và vốn con người nên không 
thể tìm được việc làm hay không có đủ việc 
làm ổn định. Trong một bối cảnh gia tăng áp 
lực của nền kinh tế thị trường nhiều người 
trong số họ cảm thấy cuộc sống của mình tiềm 
ẩn những rủi ro và thiếu ổn định khó đảm bảo 
sinh kế bền vững. Tất cả những điều trên cho 
thấy tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo của các hộ gia 
đình và ảnh hưởng của nó tới thu nhập của các 
hộ. 
3.3. Giải pháp ổn định thu nhập cho hộ 
nông dân sau thu hồi đất tại KCN Lương 
Sơn 
- Thực hiện tốt chính sách thu hồi đất của 
các cấp chính quyền địa phương. Chúng ta đều 
biết rằng, thu hồi đất để phát triển công nghiệp, 
xây dựng các khu công nghiệp là rất cần thiết, 
nhưng phải đảm bảo cuộc sống lâu dài của 
người có đất bị thu hồi. Giải quyết tốt lợi ích 
của người dân và coi đó là gốc rễ cho sự thành 
công của chủ trương thu hồi đất. Nếu cuộc 
sống của họ kém hơn hoặc gặp nhiều khó khăn 
thì sự nghiệp CNH, HĐH sẽ không thành công 
và không đạt được mục tiêu phát triển bền 
vững. Vì vậy, cần phải có sự chuẩn bị tốt khả 
năng tìm kiếm việc làm cho hộ bị thu hồi đất 
đóng vai trò quan trọng. Các cấp chính quyền 
địa phương cần thực hiện tốt các chính sách về 
đền bù và giải phóng mặt bằng của nhà nước, 
nhất quán từ trong việc giải tỏa và bồi thường 
cũng như các phương án tái sản xuất cho nông 
hộ bởi vì nông hộ là đối tượng dễ bị tổn 
thương cả về mặt vật chất và mặt tinh thần. Tổ 
chức thông tin, tuyên truyền về chủ trương thu 
hồi đất để người dân chủ động học nghề, 
chuyển nghề và tự tạo việc làm cho mình. 
- Xây dựng kế hoạch dạy nghề gắn với hỗ 
trợ tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất. 
Nếu chỉ dừng ở trách nhiệm là hỗ trợ tiền đền 
bù thì chưa đủ bởi vì không phải người nông 
dân nào bị thu hồi đất, nhờ vào tiền hỗ trợ cũng 
có thể học được nghề mới và tìm được việc 
làm mới. Do trình độ văn hóa thấp, không có 
kế hoạch chi tiêu, thiếu thông tin về thị trường 
lao động và nhiều lý do khác nên mặc dù nhận 
được tiền hỗ trợ để chuyển đổi công việc, 
nhưng ít người có cơ hội tìm việc làm mới. Địa 
phương phải có quy định về trách nhiệm đào 
tạo, chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới đối với 
người có đất bị thu hồi. Coi đó là vấn đề kinh 
tế, chính trị và xã hội hàng đầu mà chính 
quyền, doanh nghiệp cần giải quyết chứ không 
Kinh tế & Chính sách 
 158 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
phải để người dân tự lo. Việc quy hoạch và 
triển khai đào tạo, chuyển đổi nghề cho dân 
phải được chuẩn bị trước khi thu hồi đất của 
họ. Có chính sách ưu tiên cho những người bị 
thu hồi đất 
- Cần phải có hành lang pháp lý để doanh 
nghiệp có trách nhiệm với các nông hộ trong 
việc bồi thường giải phóng mặt bằng, sử dụng 
lao động tại chỗ. Gắn kế hoạch phát triển 
doanh nghiệp với kế hoạch tuyển dụng lao 
động tại chỗ, kế hoạch đào tạo người lao động 
phù hợp với ngành nghề và cơ cấu lao động 
của doanh nghiệp. Kế hoạch đào tạo phải được 
soạn thảo cụ thể, chi tiết, trên cơ sở tính toán 
các loại hình doanh nghiệp thu hút vào địa 
phương, nhu cầu về cơ cấu, số lượng và chất 
lượng nguồn lao động mà các doanh nghiệp 
cần để đảm bảo tính khả thi về việc làm khi 
Nhà nước thu hồi đất. 
- Tạo điều kiện thuận lợi để nông hộ tự 
chuyển đổi ngành nghề trước khi chuyển đổi 
mục đích sử dụng đất nhằm ổn định cuộc sống 
nông hộ. Nên thành lập các quỹ dạy nghề cho 
người lao động, các nhóm tương trợ kinh 
doanh, các nhóm tài chính vi mô giúp nông hộ 
sử dụng tiền của mình hợp lý hơn. 
IV. KẾT LUẬN 
Việc xây dựng và phát triển KCN Lương 
Sơn là một chủ trương đúng đắn của Đảng, 
Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. 
Việc thu hồi đất đã tác động mạnh mẽ đến 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện theo 
hướng tích cực. Đây sẽ là đòn bẩy cho phát 
triển kinh tế của địa phương và các vùng phụ 
cận, đặc biệt là đối tượng nông hộ mà lâu nay 
họ chủ yếu trông vào thu nhập từ sản xuất 
nông nghiệp nhỏ lẻ, nhưng bên cạnh đó thì các 
đối tượng này cũng dễ bị tổn thương nhất trên 
tất cả các phương diện vì họ đã quen với sản 
xuất nông nghiệp truyền thống từ lâu đời. 
Quá trình phát triển KCN tạo ra cho nông 
hộ nhiều cơ hội hơn nhưng bên cạnh đó họ 
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức hơn. 
Các hộ bị thu hồi đất có xu hướng tăng thu 
nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp và giảm 
thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp. Việc 
làm từ nông nghiệp có xu hướng giảm, việc 
làm phi nông nghiệp tăng lên. Để chuyển dịch 
lao động nông nghiệp vào các khu công nghiệp 
trên địa bàn huyện cần tập trung vào một số 
giải pháp như: phát huy vai trò của chính 
quyền địa phương, các doanh nghiệp trong việc 
tạo việc làm cho người dân sau thu hồi đất. 
Cần phát triển các hình thức đào tạo nghề, đẩy 
mạnh công tác hướng nghiệp cho nông dân, tạo 
điều kiện cho người dân tự chuyển đổi ngành 
nghề nhằm ổn định cuộc sống. Quan tâm đến 
tuyển dụng tại chỗ, đào tạo gắn với địa chỉ, 
như thế mới góp phần tạo việc làm và thu nhập 
ổn định cho các hộ nông dân bị thu hồi đất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đinh Phi Hổ (2012). Phương pháp nghiên cứu 
định lượng & Nhữngnghiên cứu thực tiễn trong kinh tế 
phát triển - Nông nghiệp. NXB. Phương Đông. 
2. Thái Thanh Phong (2009). Tiền đền bù đất và đất 
thổ cư tái định cư là tài sản quan trọng mà các hộ dân 
bị di dời đã sử dụng cho đâu tư phục hồi sinh kế. 
3. Tổng Cục Thống kê Hoà Bình. Niên giám Thống 
kê Hoà Bình năm 2014, 2015, 2016. 
4. Phạm Quang Túi (2007). Thực trạng việc làm của 
người lao động trong các hộ dân diện thu hồi đất tỉnh 
Quảng Nam. 
Kinh tế & Chính sách 
 159TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP THÁNG 10/2017 
INCOME STABILIZATION SOLUTION 
FOR FARMERS AFTER LAND ACQUISITION 
IN LUONG SON INDUSTRIAL ZONE, HOA BINH PRONVICE 
Bui Thi Minh Nguyet1, Hoang Van Thong2 
1,2Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
This paper presents the results of analysis of land acquisition situation for Luong Son industrial zone and the 
impact of land reclaimation on employment, income stabilization. Survey data from 92 households affected by 
land acquisition, including two groups: partial land acquisition group and entire agricultural land acquisition 
group. Research results show that since 2011, total of 82.9 hectares, including 77.36 hectares of agricultural 
land, has been withdrawn by local government. There are 146 households and 462 agricultural labors affected 
by land acquisition. Before land acquisition, the agriculture sector had created jobs for many local workers. 
After land acquisition, the proportion of agricultural laborers decreased to 38.78%, the workers and trader 
increased to 20.82% and 13.06%, repestively. Household income increases, trading and working activities in 
industrial zones contribute to income and stabilize the lives of households after land acquisition. However, the 
negative side of land acquisition is that part of the workforce is unstable employed and low-income jobs. In 
order to stabilize incomes for farmers after land acquisition, they need support from the government such as 
vocational training, job orientation, and facilitating farmers' self-employment. 
Keywords: Households, income, industrial zone, land acquistion. 
Ngày nhận bài : 29/8/2017 
Ngày phản biện : 16/9/2017 
Ngày quyết định đăng : 27/9/2017 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_on_dinh_thu_nhap_cho_ho_nong_dan_sau_thu_hoi_dat_t.pdf