Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường tài chính Việt Nam

Quy mô thị trường tài chính của Việt Nam mặc dù đã từng bước mở rộng, tăng từ mức 88% GDP

(năm 2006) lên mức trên 160% GDP vào cuối năm 2016, tuy nhiên, vẫn ở mức thấp nếu so với một

số nước khác trong khu vực. Các thị trường cấu thành thị trường tài chính Việt Nam còn kém phát

triển, đặc biệt là các chuẩn mực về quản trị công ty, mức độ ổn định hệ thống còn thấp. Bài viết

phân tích những thách thức trong đảm bảo an toàn tài chính của thị trường tài chính Việt Nam, đề

xuất giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường.

pdf 4 trang phuongnguyen 420
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường tài chính Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường tài chính Việt Nam

Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường tài chính Việt Nam
TÀI CHÍNH - Tháng 9/2017
23
- Đối với thị trường chứng khoán: Các tiêu chí 
giám sát an toàn tài chính thường tập trung vào 
việc giám sát an toàn tài chính của các định chế trên 
thị trường, được quy định tại Thông tư 226/2010/
TT-BTC ngày 31/12/2010 quy định chỉ tiêu an toàn 
tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức 
kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu 
an toàn tài chính; Thông tư 165/2012/TT-BTC ngày 
09/10/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông 
tư 226/2010/TT-BTC. Tiêu chí quan trọng nhất là 
đảm bảo tỷ lệ vốn khả dụng (so sánh giữa vốn khả 
dụng và tổng giá trị rủi ro). Định kỳ hàng tháng, các 
công ty chứng khoán phải báo cáo Ủy ban Chứng 
khoán Nhà nước về tỷ lệ vốn khả dụng và báo cáo 
bất thường khi tỷ lệ vốn khả dụng thấp hơn một 
mức nhất định. Những công ty chứng khoán có tỷ 
lệ vốn khả dụng dao động từ 120% đến 150% sẽ bị 
đặt vào tình trạng kiểm soát và khi tỷ lệ vốn khả 
dụng thấp hơn 120% sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm 
soát đặc biệt. 
- Đối với thị trường bảo hiểm: Giám sát an toàn tài 
chính của các doanh nghiệp bảo hiểm với các quy 
định riêng cho từng loại nghiệp vụ như nhân thọ 
và phi nhân thọ. Trong đó, quy định về trích lập dự 
phòng nghiệp vụ, quy định khống chế mức đầu tư 
vào các tài sản được đưa ra để đảm bảo phân tán 
rủi ro, quy định về tỷ lệ biên khả năng thanh toán 
tối thiểu để đảm bảo khả năng thanh toán của các 
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), ngoài ra còn quy 
định về tách quỹ và phân chia thăng dư trong bảo 
hiểm nhân thọ. Công cụ giám sát là hệ thống chỉ 
tiêu theo Quyết định 153/2003/QĐ-BTC và Thông 
tư 195/2014/TT-BTC hướng dẫn đánh giá, xếp loại 
DNBH, có hiệu lực thi hành từ 1/2/2015. Theo đó, 
Một số tiêu chí giám sát 
an toàn thị trường tài chính Việt Nam
Đảm bảo an ninh tài chính của thị trường tài 
chính (TTTC) được hiểu là việc duy trì được sự ổn 
định và lành mạnh tài chính trong quá trình vận 
hành của thị trường và hoạt động của các định chế 
tài chính, trên cơ sở đó, giảm thiểu và hạn chế được 
rủi ro trên thị trường và hệ thống tài chính. Ở Việt 
Nam, việc đảm bảo an toàn tài chính trên TTTC được 
thực hiện thông qua các tiêu chí giám sát an toàn tài 
chính trên thị trường tiền tệ - ngân hàng, thị trường 
chứng khoán (TTCK) và thị trường bảo hiểm. 
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH 
TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
TS. LÊ THỊ THÙY VÂN - Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính
Quy mô thị trường tài chính của Việt Nam mặc dù đã từng bước mở rộng, tăng từ mức 88% GDP 
(năm 2006) lên mức trên 160% GDP vào cuối năm 2016, tuy nhiên, vẫn ở mức thấp nếu so với một 
số nước khác trong khu vực. Các thị trường cấu thành thị trường tài chính Việt Nam còn kém phát 
triển, đặc biệt là các chuẩn mực về quản trị công ty, mức độ ổn định hệ thống còn thấp. Bài viết 
phân tích những thách thức trong đảm bảo an toàn tài chính của thị trường tài chính Việt Nam, đề 
xuất giải pháp đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường.
Từ khóa: Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, an ninh tài chính, tiền tệ
Despite the fact that the scale of financial 
market in Vietnam has been enlarged from 
88% GDP (2006) to more than 160% (2016), 
it is still at low level in comparison with other 
regional countries. The component markets 
of financial market in Vietnam have not been 
really developed reflected in the low standards 
of corporate management and system stability. 
This paper analyzes the challenges in financial 
security of the financial market in Vietnam, 
thereby, recommends solutions to this problem.
Keywords: Financial market, stock market, 
financial and monetary security
Ngày nhận bài: 4/8/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 22/8/2017 
Ngày duyệt đăng: 24/8/2017
24
ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
các DN bị mất khả năng thanh toán; bị đặt trong 
tình trạng kiểm soát đặc biệt (bao gồm DN có nguy 
cơ không đảm bảo khả năng thanh toán - chỉ tiêu 
tỷ lệ biên khả năng thanh toán không bảo đảm biên 
độ hoặc trích lập dự phòng nghiệp vụ không đáp 
ứng theo hướng dẫn) thuộc nhóm 3 và không khôi 
phục được khả năng thanh toán... sẽ bị thu hồi giấy 
phép hoạt động.
- Đối với thị trường tiền tệ - ngân hàng: Các 
chuẩn mực quốc tế theo Basel II và hệ thống 
chỉ tiêu CAMELS được sử dụng để đảm bảo an 
toàn trong hoạt động ngân hàng. Các quy định 
về đảm bảo an ninh trên thị trường tiền tệ - 
ngân hàng cũng từng bước được ban hành và 
từng bước hoàn thiện nhằm xây dựng những 
nền tảng cần thiết, hướng đến có một hệ thống 
tài chính lành mạnh, ổn định và thực hiện tốt 
vai trò phân bổ vốn trong nền kinh tế (Thông 
tư 13/2010/TT-NHNN về quy định các tỷ lệ đảm 
bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD; 
Thông tư 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung 
một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN; 
Thông tư 07/2013/TT-NHNN quy định về việc 
kiểm soát đặc biệt đối với TCTD). Theo đó, an 
ninh tài chính đối với hoạt động của các TCTD là 
việc đảm bảo sự an toàn nguồn vốn, an toàn hoạt 
động, trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có 
và tài sản ròng) của các tổ chức tín dụng được 
thực hiện một cách ổn định, an toàn, vững mạnh. 
Những thách thức trong việc 
đảm bảo an ninh tài chính trên thị trường tài chính
Mặc dù, Việt Nam đã và đang từng bước hoàn 
thiện các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn trong hoạt 
động của các trung gian tài chính và ổn định thị 
trường theo chuẩn mực quốc tế nhưng TTTC vẫn 
tiềm ẩn nhiều rủi ro, quy mô thị trường nhỏ và 
dễ bị tác động từ những biến động của thị trường 
quốc tế. Việc đảm bảo an ninh tài chính trên TTTC 
gặp phải một số khó khăn, thách thức sau:
 quy mô TTTC của Việt Nam mặc dù 
đã từng bước mở rộng, tăng từ mức 88% GDP 
(năm 2006) lên mức trên 160% GDP vào cuối năm 
2016; tuy nhiên, vẫn ở mức thấp nếu so với một 
số nước khác trong khu vực như Malaysia (360% 
GDP); Singapore (462% GDP). Trình độ phát triển 
của các thị trường cấu thành TTTC Việt Nam còn 
kém phát triển, đặc biệt là các chuẩn mực về quản 
trị công ty, mức độ ổn định hệ thống còn thấp. 
Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), 
chỉ số phát triển TTTC của Việt Nam (0,103) chỉ 
cao hơn Lào, Campuchia và thấp hơn các nước 
còn lại trong khu vực như: Indonesia (0,259); 
Philippines (0,381); Malaysia (0,617); Thái Lan 
(0,612); Singapore (0,695); Trung Quốc (0,747). Khả 
năng tiếp cận thị trường, độ sâu và tính hiệu quả 
TTTC Việt Nam cũng thấp, xếp vị trí thứ 71/183 
và 51/183 trên thế giới và thấp hơn một số nước 
trong khu vực (Malaysia, Thái Lan, Philippines, 
Indonesia, Singapore, Trung Quốc).
Hai là, TTTC phát triển thiếu ổn định, phụ thuộc 
nhiều vào thị trường tiền tệ - ngân hàng trong khi 
khu vực này phát triển thiếu tính ổn định, nguồn 
vốn huy động của hệ thống ngân hàng chủ yếu 
là nguồn vốn ngắn hạn và không kỳ hạn nên tính 
ổn định chưa cao; chất lượng tín dụng vẫn còn là 
vấn đề khi rủi ro nợ xấu chưa được xử lý triệt để. 
Tỷ lệ tín dụng tư nhân/GDP của Việt Nam thấp 
hơn Malaysia và Singapore ở mức 20-30 điểm 
phần trăm, cách biệt so với mức chỉ 36,5% của 
Indonesia. Mặc dù vậy, xem xét chỉ tiêu số lượng 
máy ATM/100.000 người lớn có thể thấy, khả năng 
tiếp cận thị trường tiền tệ ngân hàng ở Việt Nam 
tương đối thấp (24 máy ATM/100.000 người lớn) so 
với các nước trong khu vực (59 ở Singapore; 52 ở 
Malaysia và 50 ở Indonesia). Hơn nữa, thách thức 
lớn nhất đối với các ngân hàng trong việc áp dụng 
HÌNH 1: ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH 
VÀ CÁC KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Nguồn: Tổng hợp từ IMF, 2014 và 2015b
HÌNH 2: ĐỘ SÂU, KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VÀ TÍNH HIỆU QUẢ 
CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của IMF
TÀI CHÍNH - Tháng 9/2017
25
đoạn phục hồi (2012-2013), dòng vốn FPI lại một 
lần nữa rút khỏi Việt Nam trong năm 2014-2015, 
dưới tác động của cuộc khủng hoảng giá dầu và 
sự biến động mạnh trên TTCK Trung Quốc. Do đó, 
mặc dù dòng vốn FPI vào Việt Nam tăng và có dấu 
hiệu khả quan trong năm 2016-2017, phản ánh tiềm 
năng phát triển của nền kinh tế, tuy nhiên, vẫn có 
những rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến an ninh tài 
chính quốc gia của Việt Nam. 
Giải pháp đảm bảo an ninh thị trường tài chính
Để giảm thiểu những rủi ro, thách thức trong 
đảm bảo an ninh trên TTTC Việt Nam, một số giải 
pháp cần được chú trọng bao gồm:
Thứ nhất, giảm thiểu rủi ro đối với hệ thống 
tài chính phụ thuộc vào ngân hàng bằng cách 
ổn định thị trường tiền tệ - ngân hàng và xử lý 
rủi ro thanh khoản; đồng thời, đa dạng hóa các 
hình thức sử dụng vốn nhằm giảm thiểu rủi ro 
thua lỗ cho ngân hàng do tập trung quá nhiều 
vào hoạt động tín dụng. Trong đó, chú trọng các 
biện pháp tăng cường giám sát của NHNN đối 
với hoạt động kinh doanh của các NHTM, đặc biệt 
là nhóm NHTM cổ phần có quy mô nhỏ và kinh 
doanh thiếu hiệu quả. Thực hiện giám sát chặt chẽ 
và áp dụng các biện pháp xử lý đối với các NHTM 
thuộc diện kiểm soát đặc biệt theo Thông tư số 
07/2013/TT-NHNN (yêu cầu tăng vốn điều lệ; xây 
dựng, trình NHNN kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt 
buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại với các TCTD 
khác) nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động 
kinh doanh của chính NHTM đó và hạn chế ảnh 
hưởng lan truyền rủi ro cho cả hệ thống. 
Thứ hai, đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư trên thị 
trường vốn, phát triển đồng bộ các thị trường 
(TTCK, thị trường tiền tệ - ngân hàng và thị 
trường bảo hiểm), và giảm sự phụ thuộc vào thị 
trường tiền tệ - ngân hàng. Theo đó, xây dựng cơ 
chế khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư có tổ 
Basel II là nhu cầu tăng vốn, một số ngân hàng 
thương mại (NHTM) cổ phần nhỏ phát triển quá 
nhanh, quy mô tín dụng vượt quá năng lực quản 
lý và cơ sở hạ tầng khiến nguy cơ đổ vỡ gia tăng, 
ảnh hưởng đến an ninh TTTC.
Ba là, cơ sở hạ tầng tài chính còn nhiều bất cập, 
thể hiện chủ yếu ở 2 khía cạnh cơ bản như: (i) Môi 
trường pháp lý cho hoạt động của các trung gian tài 
chính còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển 
của thị trường; (ii) Mức độ áp dụng công nghệ thông 
tin của hệ thống tài chính còn thấp và có khoảng 
cách khá xa so với nhiều nước trong khu vực và trên 
thế giới, chưa theo kịp với những đòi hỏi của thực tế 
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
Bốn là, hệ thống giám sát TTTC chưa giám sát 
và kiểm soát được rủi ro trên thị trường, đặc biệt là 
các rủi ro liên thông trên TTTC phát sinh từ các tập 
đoàn tài chính. Các tập đoàn tài chính lợi dụng “lỗ 
hổng pháp lý” về thanh tra, giám sát để tìm cách 
để lách những quy định hiện hành, lựa chọn cơ cấu 
sở hữu phức tạp nhằm tránh sự kiểm tra, giám sát 
hoặc gây trở ngại cho hoạt động giám sát của cơ 
quan chức năng. Các công ty con, công ty liên kết 
của tập đoàn tài chính tham gia vào các hoạt động 
“ngân hàng ngầm” với các hình thức “cho vay” 
đa dạng như mua trái phiếu, đầu tư cổ phiếu vào 
tài sản bảo đảm đã được chứng khoán hóa, chứng 
khoán phái sinh, bảo lãnh tín dụng dưới nhiều 
hình thức. Các hoạt động “ngân hàng ngầm” này 
không bị quản lý, kiểm tra, giám sát bởi những quy 
định về hoạt động ngân hàng truyền thống. Do đó, 
rủi ro “chuyển giao kỳ hạn và thanh khoản”, “rút 
vốn ồ ạt” từ các hoạt động “ngân hàng ngầm” này 
có thể tác động tiêu cực dẫn đến sự sụp đổ khu vực 
ngân hàng truyền thống.
Năm là, rủi ro bong bóng giá tài sản và đảo 
chiều dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn đầu 
tư nước ngoài gián tiếp (FPI). Việc các nhà đầu tư 
nước ngoài rút vốn đột ngột, với quy mô lớn, sẽ 
gây mất ổn định hệ thống tài chính và làm chệch 
hướng mục tiêu của các chính sách vĩ mô. Bên cạnh 
đó, đối với các nước đang phát triển với quy mô và 
độ sâu của TTTC còn thấp như Việt Nam, thì việc 
khủng hoảng niềm tin có thể diễn ra ở mức trầm 
trọng hơn bởi nó dẫn đến các hành động theo “xu 
hướng bầy đàn” của các nhà đầu tư. Xét ở khía 
cạnh khác, khi TTTC toàn cầu gặp những cú sốc 
lớn khiến dòng vốn quốc tế biến động mạnh, nền 
kinh tế Việt Nam sẽ càng dễ tổn thương. Xem xét 
diễn biến dòng vốn FPI vào Việt Nam trong gần 10 
năm qua có thể nhận thấy dòng vốn ngắn hạn này 
có tính biến động cao và dễ bị chảo chiều. Sau giai 
HÌNH 3: MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ QUY MÔ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 
NGÂN HÀNG VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
Nguồn: Cơ sở dữ liệu WB
26
ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
chức như Quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH) và DNBH, 
tạo sự liên thông và vận hành thông suốt giữa 
TTCK và thị trường bảo hiểm. Đối với DNBH, đặc 
biệt là bảo hiểm nhân thọ với các hợp đồng bảo 
hiểm kỳ hạn dài, cần có chính sách hạn chế đầu 
tư vào gửi tiền tại các TCTD, tăng cường đầu tư 
vào trái phiếu, cổ phiếu. Đối với Quỹ BHXH, cần 
xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư vào các tài 
sản tài chính theo hướng trước mắt chỉ tập trung 
vào trái phiếu chính phủ và trái phiếu DN có bảo 
lãnh; đồng thời, có lộ trình cho phép đầu tư vào 
cổ phiếu có chất lượng nhưng vẫn khống chế hạn 
mức nhằm đảm bảo an toàn vốn.
Thứ ba, phát triển hệ thống đánh giá khả năng 
chống đỡ với các cú sốc trên TTTC như đánh giá 
thông qua tính toán stress test cho hệ thống tài chính 
(ngân hàng, chứng khoán, quỹ đầu tư). Trên cơ sở 
đó, đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro hay mức độ 
tổn thương của các tổ chức tài chính trước những cú 
sốc gây ra ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức 
tài chính qua các chỉ tiêu đảm bảo an ninh tài chính 
(trong đó, chú trọng các chỉ số tài chính về vốn, mức 
độ tổn thất, tỷ lệ an toàn về thanh khoản) nhằm 
giúp cơ quan hoạch định chính sách và các tổ chức 
tài chính chủ động đối phó những rủi ro. 
Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các 
NHTM Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát 
triển ổn định và hiệu quả theo các chuẩn mực và 
thông lệ quốc tế. Việc tăng vốn chủ sở hữu thông 
qua tăng vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam là 
giải pháp quan trọng được xem xét đối với các 
ngân hàng để có vốn cao hơn, đáp ứng các yêu 
cầu về đảm bảo an toàn vốn theo Hiệp ước Basel 
II và Basel III trong những năm tới. Theo đó, các 
NHTM Việt Nam cần xây dựng lộ trình và thực 
hiện tăng vốn chủ sở hữu, cải thiện hệ số an toàn 
vốn theo tiêu chuẩn Basel II trong ngắn hạn theo 
các phương án: (i) Xây dựng chiến lược tăng vốn 
đi kèm với sử dụng vốn hợp lý để đảm bảo sự 
phát triển vốn bền vững và giảm áp lực về cổ tức 
cho các cổ đông do tăng vốn một cách ồ ạt nhưng 
chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể, hiệu quả; (ii) 
Tăng vốn qua bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến 
lược nước ngoài, chủ động đẩy mạnh liên doanh, 
liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng 
nguồn vốn, trình độ kỹ thuật và năng lực quản 
lý từ các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, 
trong dài hạn, việc tăng vốn chủ sở hữu nên thực 
hiện thông qua tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh 
doanh. Do đó, các NHTM cần cải thiện hiệu quả 
kinh doanh và hoàn thiện chính sách phân phối 
lợi nhuận phù hợp với những đặc thù kinh doanh 
của mỗi NHTM và các quy định pháp luật. 
Thứ năm, xem xét áp dụng mô hình giám sát 
hợp nhất để có thể giúp khắc phục những hạn chế 
của mô hình giám sát riêng lẻ và có thể giám sát 
được đầy đủ hoạt động liên thị trường của các định 
chế trung gian tài chính cũng như các tập đoàn tài 
chính – ngân hàng. Cùng với việc lựa chọn mô 
hình, công tác giám sát các tập đoàn tài chính ngân 
hàng của Việt Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề cần 
xem xét, đặc biệt trong bối cảnh các sản phẩm liên 
kết xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự mở rộng 
lĩnh vực kinh doanh của các công ty, tập đoàn. 
Với mô hình giám sát phân tán như của Việt 
Nam, việc giám sát tập đoàn tài chính sẽ phức tạp 
hơn bởi một tập đoàn có thể do nhiều cơ quan 
quản lý (NHNN cùng giám sát. Chính các hoạt 
động đa lĩnh vực như trên đã đặt ra nhiều vấn đề 
cần xem xét đối với công tác thanh tra, giám sát các 
tập đoàn tài chính – ngân hàng. Trong đó, các vấn 
đề cần chú ý đó là: (i) Tăng cường cơ chế phối hợp 
giữa các cơ quan quản lý, giám sát; (ii) Đảm bảo 
mức vốn an toàn của cả tập đoàn trên cơ sở báo cáo 
tài chính hợp nhất; (iii) Đảm bảo tính minh bạch 
thông tin và tăng cường hiệu quả giám sát rủi ro.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát 
chặt chẽ sự luân chuyển dòng vốn quốc tế vào và ra 
lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là dòng vốn FDI. Theo 
đó, giám sát chặt chẽ các luồng vốn vào, điều chỉnh 
cơ cấu luồng vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi 
ro của các luồng vốn ngắn hạn; Theo dõi chặt chẽ các 
dòng luân chuyển vốn của các tổ chức tài chính, các 
định chế ngân hàng – tín dụng nước ngoài, đồng thời 
kết hợp giám sát thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, việc 
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát các 
luồng vốn cần phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và 
trình độ phát triển của TTTC. Quản lý chặt thị trường 
giao dịch ngoại tệ tự do, tránh hiện tượng đầu cơ dẫn 
đến xu hướng chính nhà đầu tư trong nước rút tiền 
chuyển thành ngoại tệ, gây sức ép lên vấn đề tỷ giá và 
dự trữ ngoại hối. 
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thị Thùy Vân (2014), “Xu hướng cải tổ hệ thống giám sát tài chính 
trên thế giới và một số hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính; 
2. IMF (2015a), “Financial Soundness Indicators and the IMF”;
3. IMF (2015), “Rethinking Financial Deepening: Stability and Growth in 
Emerging Markets”;
4. IMF (2014), “Review of the Financial Sector Assessment Program: Further 
Adaptation to the Post Crisis Era”. Washington: International Monetary Fund;
5. IOSCO (2003), “Objectives and Principles of Securities Regulation”;
6. IOSCO (2012), “Development and Regulation of Institutional Investors in 
Emerging Markets”.

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_dam_bao_an_ninh_tai_chinh_tren_thi_truong_tai_chin.pdf