Giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam

Trong những năm qua, chính sách thu ngân sách nhà nước liên tục được hoàn thiện theo yêu cầu

thực tiễn đã góp phần tăng quy mô và tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước. Cụ thể, tỷ lệ huy

động GDP vào ngân sách nhà nước thông qua thuế, phí đã đạt khoảng 21% GDP/năm, gần sát với

mục tiêu nghị quyết của Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, quy mô chi ngân sách nhà nước tăng khá cao,

điều này gây không ít khó khăn đối với cân đối ngân sách nhà nước. Để giải quyết tình trạng này

cần có giải pháp hữu hiệu để cơ cấu lại ngân sách nhà nước đảm bảo phát triển ổn định, bền vững.

pdf 4 trang phuongnguyen 400
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam

Giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
23
Thực trạng cơ cấu lại NSNN ở Việt Nam có thể 
phân tích trên một số khía cạnh sau:
Về cơ cấu lại thu NSNN
Trong những năm qua, chính sách thu NSNN 
đã góp phần tăng quy mô và tỷ lệ động viên GDP 
vào NSNN. Cụ thể, tỷ lệ huy động NSNN thông qua 
thuế, phí đã đạt khoảng 21% GDP/năm, gần sát với 
mục tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra (không quá 
22% - 23% GDP/năm) nhưng có phần suy giảm so với 
giai đoạn trước (giai đoạn 2006-2011 là 24,8% GDP, 
giảm 3,8% GDP).
 Trong cơ cấu thu NSNN, tỷ trọng thu nội địa 
đã tăng cao hơn (từ 58,9% giai đoạn 2006-2010 lên 
khoảng 68% giai đoạn 2011-2015), do nền kinh tế tiếp 
tục tăng trưởng dương và duy trì tỷ lệ lạm phát ở 
mức hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu 
thu theo các sắc thuế cũng có sự thay đổi: Tỷ lệ thuế 
gián thu có xu hướng tăng dần (giai đoạn 2001-2005 
khoảng 46%; giai đoạn 2006-2010 khoảng 50%; giai 
đoạn 2011-2015 khoảng 54%) nhưng chậm so với 
quy mô phát triển của nhiều dịch vụ. Tỷ trọng thuế 
trực thu tuy có giảm do chính sách miễn, giảm thuế 
thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập 
cá nhân (TNCN) nhưng cũng cho thấy, hiệu quả của 
nền kinh tế được cải thiện. Cơ cấu các khoản thu giữa 
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được 
phân định rành mạch theo quy định của Luật NSNN, 
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương 
và khuyến khích các địa phương tăng cường quản lý 
thu thuế.
Về cơ cấu lại chi NSNN
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng 
trên 70% so với năm 2010) nhưng cũng chỉ mới đáp 
Thực trạng cơ cấu lại 
ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam
Sau khi Hiến pháp năm 2013 chính thức có hiệu 
lực (từ 1/1/2014), công tác hoàn thiện thể chế quản lý 
ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm cụ thể hóa Hiến 
pháp 2013 và các nghị quyết của Quốc hội về NSNN 
đã được chú trọng hơn. Các văn bản quy phạm pháp 
luật được hoàn thiện theo đúng lộ trình và có chất 
lượng. Hệ thống luật pháp về kinh tế - tài chính đã 
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp. 
Hệ thống thể chế chặt chẽ phù hợp đã tạo ra môi 
trường pháp lý thuận lợi cho công tác quản lý, giám 
sát và điều hành NSNN những năm vừa qua
GIẢI PHÁP CƠ CẤU LẠI 
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
ThS. NGUYỄN MINH TÂN - Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội; Email: tannm71@yahoo.com
Trong những năm qua, chính sách thu ngân sách nhà nước liên tục được hoàn thiện theo yêu cầu 
thực tiễn đã góp phần tăng quy mô và tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước. Cụ thể, tỷ lệ huy 
động GDP vào ngân sách nhà nước thông qua thuế, phí đã đạt khoảng 21% GDP/năm, gần sát với 
mục tiêu nghị quyết của Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, quy mô chi ngân sách nhà nước tăng khá cao, 
điều này gây không ít khó khăn đối với cân đối ngân sách nhà nước. Để giải quyết tình trạng này 
cần có giải pháp hữu hiệu để cơ cấu lại ngân sách nhà nước đảm bảo phát triển ổn định, bền vững.
Từ khóa: Ngân sách nhà nước, nợ công, trái phiếu chính phủ
In the past, policy on state budget revenue 
in Vietnam has been continuously updated 
and improved and resulted in a larger size 
and volume of annual state budget revenue. 
Specifically, the state budget revenue from taxes 
and charges has reached 21% GPD/year, a close 
number to the target set forth in the resolution 
of the Parliarment. However, the volume of state 
budget expenditure has been high too, this causes 
lots of difficulties to the state budget balance. To 
settle this problem, it is vital to set forth effective 
solutions to the state budget restructure and to 
sustainable development.
Keywords: State budget, public debts, Government bond
Ngày nhận bài: 8/9/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 29/9/2017
Ngày duyệt đăng: 30/9/2017
24
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh vực. 
Cân đối NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công 
sắp đến giới hạn cho phép; nhu cầu chi đầu tư phát 
triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
- Đối với chi đầu tư phát triển (ĐTPT): Tỷ trọng 
bình quân bố trí dự toán chi ĐTPT giai đoạn 2011-
2015 chiếm khoảng 18% tổng chi NSNN, thấp hơn 
so với giai đoạn 2006-2010 (bình quân 24,4%). Nếu 
tính cả nguồn trái phiếu chính phủ, xổ số kiến thiết 
thì con số này là 24% tổng chi NSNN. Điều này cho 
thấy, tình trạng ngày càng khó khăn trong việc bố trí 
NSNN cho ĐTPT. 
- Đối với chi thường xuyên: Thực hiện điều chỉnh 
tăng lương cơ sở (năm 2011, 2012 tiền lương tối thiếu). 
Điều chỉnh tăng tiền lương cơ sở 3 lần, 1 lần thực 
hiện phụ cấp công vụ 25%, 1 lần điều chỉnh tăng 8% 
đối với lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công và 
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực 
lượng vũ trang có thu nhập thấp (hệ số lương từ 2,34 
trở xuống). Việc thực hiện chính sách an sinh xã hội 
nhằm thực hiện chủ trương cải thiện cuộc sống cho 
người có công, người nghèo, người không nơi nương 
tựa, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, 
vùng có điều kiện kinh tế khó khăn và đặc biệt khó 
khăn đã đạt được kết quả nhất định; trong khi một số 
chính sách còn bất cập cần được điều chỉnh cho hợp 
lý trong thời gian tới. 
- Đối với chi trả nợ: Nợ trong nước mới bố trí đủ 
chi trả nợ lãi, chi trả nợ gốc ở mức thấp, khiến phải 
vay đảo nợ. Chính phủ phải huy động các khoản vay 
ngắn hạn với lãi suất cao nên nhu cầu chi trả nợ trong 
giai đoạn 2014 – 2016 tăng cao, tạo áp lực lớn trong 
cân đối NSNN. Đối với nợ nước ngoài: Do Việt Nam 
đã tiệm cận nước có thu nhập trung bình trên thế 
giới, việc vay ưu đãi và viện trợ của các tổ chức tài 
chính quốc tế và Chính phủ các nước ngày càng hạn 
chế. Mặt khác, do nhu cầu ĐTPT ngày càng lớn, vốn 
vay nước ngoài cho ĐTPT cũng gây áp lực lớn đến nợ 
công và cân đối NSNN trong những năm vừa qua.
Về bội chi NSNN và nợ công
Bội chi NSNN vẫn ở mức cao, không đạt mục 
tiêu đề ra (4,5% GDP vào năm 2015): Năm 2011 mức 
bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 
2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,3% GDP, năm 2015 
là 6,28% GDP), một phần bội chi đã phải sử dụng 
cân đối cho trả nợ gốc. 
 Nợ công vẫn trong giới hạn cho phép (đến nay, 
nợ công dự kiến khoảng 62,6% GDP, nợ Chính phủ 
ước khoảng 51,8% GDP và nợ nước ngoài của quốc 
gia ước khoảng 45,2% GDP), nhưng đang tiệm cận tới 
giới hạn với tốc độ tăng nhanh trong thời gian qua (từ 
2006 - 2010 tăng thêm 15% GDP và từ năm 2011 - 2015 
tăng thêm khoảng 7% GDP), bình quân mỗi năm tốc 
độ tăng nợ công khoảng 18,4%, cao gấp gần 3 lần tốc 
độ tăng trưởng kinh tế. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của 
Chính phủ (bao gồm cả trả nợ gốc và lãi) ước khoảng 
25% tổng thu NSNN, nếu tính cả vay đảo nợ thì nghĩa 
vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ còn cao hơn. Bên 
cạnh đó, bội chi NSNN vẫn ở mức cao và không đạt 
mục tiêu đề ra, đi đôi với việc tăng trưởng GDP không 
đạt kế hoạch nhưng không điều chỉnh giảm bội chi 
tương ứng thì nợ công càng có xu hướng tăng cao, 
nhất là khi có phát sinh rủi ro về giá dầu, tỷ giá
Một số khó khăn, hạn chế đặt ra 
Chính sách thu NSNN nhằm thực hiện mục tiêu 
“khoan sức dân” đã góp phần thúc đẩy sản xuất 
phát triển, song cũng bị ảnh hưởng dẫn đến giảm 
thu NSNN khá mạnh (khoảng 1% GDP/năm). Đáng 
chú ý là, nhiều sắc thuế đã thu hẹp đối tượng chịu 
thuế, giảm thuế suất, tăng mức giảm trừ gia cảnh có 
khi nhanh hơn dự kiến ban đầu (thuế TNDN, thuế 
GTGT, thuế TNCN). Thực hiện miễn, giảm thuế; cắt 
giảm, bãi bỏ hàng trăm khoản phí, lệ phí; gia hạn 
thời hạn nộp thuế GTGT, TNDN và thu tiền sử dụng 
đất; giảm thuế suất thuế TNDN cho các DN... Các 
chính sách này đã phần nào ảnh hưởng đến nguồn 
thu NSNN trong ngắn và dài hạn. 
Việc khai thác các khoản thu từ đất đai, tài nguyên 
diễn ra khá nhanh, dẫn đến những tác động không 
nhỏ về kinh tế - xã hội và môi trường. Một số địa 
phương vì muốn bảo đảm nguồn thu nên đã bán 
đất đai, sử dụng tài nguyên quá mức, trong đó có tài 
nguyên không tái tạo, tạo ra những hệ lụy lâu dài đối 
với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Chính sách chi NSNN đứng trước những khó khăn, 
thúc đẩy tăng trưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho tái 
cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo đảm an sinh xã 
hội, nên việc chi NSNN còn một số bất cập. Một số 
nguyên tắc đề ra trong Luật NSNN và các nghị quyết 
của Quốc hội chưa được đảm bảo, kỷ luật tài chính 
chưa nghiêm. Qua kết quả kiểm toán cho thấy, việc 
chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả, phô trương hình thức 
và sai chế độ vẫn còn diễn ra ở các mức độ khác nhau.
Trong những năm qua, tỷ lệ huy động NSNN 
thông qua thuế, phí đạt khoảng 21% GDP/
năm, gần sát với mục tiêu Nghị quyết của 
Quốc hội đề ra (không quá 22% - 23% GDP/
năm) nhưng có phần suy giảm so với giai đoạn 
trước (giai đoạn 2006-2011 là 24,8% GDP, 
giảm 3,8% GDP).
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
25
Bên cạnh đó, việc bố trí chi NSNN cho một số lĩnh 
vực như: giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, 
y tế theo phân cấp ngân sách giữa trung ương và 
địa phương còn chưa hợp lý. Trong giai đoạn 2011-
2015 NSNN đã bố trí đạt tỷ lệ chi theo nghị quyết của 
Đảng, Quốc hội như: Chi giáo dục - đào tạo 20% tổng 
chi NSNN, khoa học - công nghệ 2% tổng chi NSNN, 
tốc độ tăng chi y tế cao hơn tốc độ tăng chi chung 
của NSNN 
Tuy nhiên, nhiều năm thực hiện không đạt dự 
toán, gây lãng phí nguồn lực, trong khi cân đối 
NSNN còn khó khăn, nhiều nhiệm vụ chi quan trọng 
không được bố trí ngân sách. Cùng với đó, còn tồn 
tại nhiều chương trình mục tiêu, hỗ trợ cho ngân 
sách địa phương khá rộng, nên vai trò chủ đạo của 
ngân sách trung ương có xu hướng giảm, thể hiện cơ 
cấu chi ĐTPT của ngân sách trung ương đã giảm từ 
33,3% xuống còn 26%. 
Chính sách quản lý nợ công còn có quan điểm khác 
nhau về phạm vi nợ công, các khoản nợ phát sinh từ 
điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp nhà nước, 
nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chưa có phân 
định rõ ràng và sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa quản lý 
nợ công, quản lý ngân sách và quản lý đầu tư công; yêu 
cầu tách bạch quy định về quản lý vốn vay của Chính 
phủ theo từng nguồn vốn huy động để đảm bảo quản 
lý chặt chẽ, hiệu quả hơn trong điều kiện Việt Nam dần 
không còn tiếp cận được nhiều vốn vay ODA. Các quy 
định về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, 
cấp và quản lý bảo lãnh của Chính phủ cũng đã bộc lộ 
những hạn chế; Áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm 
ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát 
chặt chẽ; Việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập, 
hiệu quả chưa cao; phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn 
vay còn dàn trải, thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư 
với cân đối nghĩa vụ trả nợ...
Giải pháp cơ cấu lại 
ngân sách nhà nước và nợ công 
Phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội nước ta và tình 
hình kinh tế, chính trị thế giới trong thời gian tới, cho 
thấy, những thuận lợi, khó khăn và thách thức đan 
xen nhau, tiếp tục tác động đến cơ cấu thu, chi NSNN 
và quản lý nợ công. Nguồn thu NSNN chưa được 
cải thiện nhiều trong khi sức ép tăng chi NSNN rất 
lớn, bội chi ngân sách chưa giảm, nợ công tăng cao và 
phát sinh nhiều nhu cầu chi mới Trong thời gian tới, 
NSNN chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau đây:
Một là, do quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày 
càng sâu rộng, trong đó có việc thực hiện cam kết của 
các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và các Hiệp 
định đối tác kinh tế khu vực và thế giới, dẫn đến cắt 
giảm nhiều dòng thuế nhập khẩu. Ở trong nước, điều 
chỉnh chính sách thuế với mức thuế suất thấp dẫn tới 
tỷ lệ huy động từ thuế, phí, lệ phí sẽ giảm mạnh.
Hai là, giá dầu thô trên thế giới vẫn diễn biến khó 
lường, ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng và thực 
hiện dự toán NSNN hàng năm. Dự báo của các tổ 
chức tài chính quốc tế và cơ quan năng lượng quốc 
tế cũng không thực sự sát với tình hình, trong khi số 
thu NSNN của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào 
thu từ dầu thô.
Ba là, tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất 
nông nghiệp, thủy điện có thể gây thất thu nhiều, 
nhất là đối với các tỉnh nông nghiệp hoặc có công 
trình thủy điện. Nhu cầu chi NSNN để đầu tư kết cấu 
hạ tầng, tái cơ cấu nền kinh tế dẫn đến gia tăng chi 
ĐTPT. Chi thường xuyên cũng tăng do việc ban hành 
các chính sách cần thiết để bảo đảm an sinh xã hội.
Bốn là, việc tiếp cận vốn trên thị trường quốc tế 
khó khăn hơn, chi phí cao hơn; vốn viện trợ và các 
khoản vay ưu đãi ngày càng giảm do Việt Nam trở 
thành nước có thu nhập trung bình. Áp lực của việc 
mở rộng giới hạn trần nợ công ngày càng rõ nét do 
nợ công đã sắp đến mức trần cho phép.
Trên cơ sở tổng kết kết quả đạt được thời gian 
qua, tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược tài chính 
đến năm 2020, Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực từ 
năm ngân sách 2017), Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 
18/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết 
51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về Chương 
trình hành động triển khai khai hoạch cơ cấu lại NSNN 
và quản lý nợ công. Yêu cầu về cơ cấu lại NSNN cần 
được nhấn mạnh thêm một số nội dung sau:
- Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, bảo đảm 
tính ổn định, vững chắc của NSNN, tạo sự chủ động 
cho các ngành, các cấp trong quá trình triển khai thực 
hiện; kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh 
phù hợp với tình hình trong và ngoài nước.
- Đổi mới toàn diện cơ chế quản lý ngân sách, 
khắc phục phương pháp quản lý NSNN theo cơ chế 
cũ, triển khai thực hiện theo các quy định tiến bộ của 
Luật NSNN năm 2015. 
- Động viên, phân bổ, quản lý và sử dụng các 
nguồn tài chính hiệu quả, công bằng, công khai, minh 
bạch; ưu tiên đầu tư hợp lý cho phát triển con người, 
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết 
các vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng, an 
ninh; đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa 
quản lý tài chính công; nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán. 
- Có biện pháp quyết liệt đối với quản lý nợ công, 
bảo đảm an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc 
gia. Kiên định mục tiêu giảm dần bội chi NSNN. 
26
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
Đánh giá đầy đủ và chính xác mức dư nợ công, dư 
nợ Chính phủ và dư nợ quốc gia... 
Bên cạnh các giải pháp trên, cần tập trung triển 
khai thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường thu NSNN từ nội lực 
nền kinh tế:
 - Phấn đấu thu từ thuế, phí không thấp hơn 21-22% 
GDP, các nguồn thu cần tập trung đầy đủ vào ngân 
sách theo quy định của Luật NSNN năm 2015. Đến 
năm 2020, quy mô thu NSNN (về số tuyệt đối) tăng 
gấp 1,5 - 2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Điều chỉnh 
hợp lý tỷ trọng giữa thuế gián thu và thuế trực thu. 
- Hạn chế việc lồng ghép chính sách xã hội trong các 
sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế. Xác định 
rõ tính hợp lý của chính sách thu đối với thuế trực thu 
và thuế gián thu, từ đó phát huy vai trò thuế là nguồn 
thu quan trọng của NSNN, kích thích tăng trưởng kinh 
tế, điều tiết thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội.
- Tăng cường số thu nội địa, bảo đảm tăng gấp 2 
lần so với giai đoạn 2011-2015; tỷ trọng thu nội địa 
đạt khoảng 84-85% tổng thu NSNN để bù đắp cho số 
thu xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô có xu hướng 
giảm dần. Trong số tăng thu nội địa thì tốc độ tăng 
thu và mức đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà 
nước cần tương xứng với nguồn lực đầu tư của Nhà 
nước, bảo đảm công bằng với các thành phần kinh 
tế khác. Tiến tới xác định số thu nội địa cần loại trừ 
số thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu từ 
bán tài sản của nhà nước, để phản ánh chính xác chất 
lượng và hiệu quả của nền kinh tế. 
- Cần xem xét một số Luật thuế đã được ban hành, 
nhất là việc thuế suất giảm khá nhiều và Luật thuế sửa 
đổi, bổ sung nhiều lần làm mất tính ổn định của hệ 
thống thuế, tạo tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu 
tư. Các chính sách ưu đãi thông qua miễn, giảm thuế 
trên diện rộng đối với nhiều đối tượng đã làm giảm tỷ 
lệ huy động GDP vào NSNN thông qua thuế và phí. 
Trên cơ sở đó, sửa đổi một số sắc thuế như sau: 
+ Đối với thuế gián thu: Nghiên cứu đưa thuế GTGT 
về một mức thuế suất; Thuế TTĐB cần có sự điều chỉnh 
hợp lý, mở rộng đối tượng thu (như dịch vụ cao cấp, 
thuốc trừ sâu...); Thuế tài nguyên cần được sửa đổi, bổ 
sung, tăng mức trần thuế suất để bảo vệ tài nguyên, 
khoáng sản; Thuế nhập khẩu giảm theo các Hiệp định 
Thương mại tự do và các cam kết quốc tế khác.
+ Đối với thuế trực thu: Thuế TNCN cần điều 
chỉnh mức miễn trừ gia cảnh, tránh trường hợp biến 
thành thuế thu nhập cao, mở rộng đối tượng và 
phạm vi nộp NSNN; Thuế TNDN giữ mức thuế suất 
ổn định là 20%, bổ sung thu từ vốn nhà nước đầu tư 
vào kinh doanh, thu cổ tức tăng thêm; đồng thời, sửa 
đổi về thuế suất thuế TNDN và thuế TNCN phải bảo 
đảm đồng bộ với nhau, cân nhắc hiệu quả của việc 
sửa đổi các loại thuế đối với thu NSNN; Ban hành 
thuế tài sản và các chính sách thu từ đất.
Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu, giảm dần bội 
chi và nợ công:
- Chính sách chi NSNN cần tuân thủ các nguyên 
tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn NSNN cho 
chi thường xuyên, chi ĐTPT theo các Nghị quyết 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Nghị quyết 266/
NQ-UBTVQH13 ngày 4/10/2016 và Nghị quyết 1023/
NQ-UBTVQH13 ngày 28/8/2015), đảm bảo hiệu quả, 
công bằng, tiết kiệm, hạn chế lãng phí và chống thất 
thoát; Nâng cao hiệu quả chi ngân sách, từng bước 
thực hiện bố trí chi theo kết quả đầu ra, theo đánh 
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công việc. Tiết kiệm 
chi thường xuyên trên cơ sở quản lý chặt chẽ biên chế, 
tinh gọn bộ máy, tăng định mức chi sự nghiệp kinh 
tế, chi duy tu, bảo dưỡng... 
- Quy mô chi NSNN so với GDP cần được tính 
toán lại cho phù hợp. Cơ cấu chi ĐTPT khoảng 
25-26% tổng chi; chi thường xuyên dưới 64%, ưu tiên 
bảo đảm chi trả nợ, chi dự trữ quốc gia, thực hiện cải 
cách tiền lương và chi an sinh xã hội. 
- Bội chi NSNN cần tính toán lại theo quy định 
của Luật NSNN năm 2015, bảo đảm thấp hơn 4% 
GDP, nhưng từ năm 2021 là 3% GDP tính theo tiêu 
chí mới (bao gồm cả TPCP và không bao gồm trả nợ 
gốc); phấn đấu bội chi NSNN giảm dần mỗi năm 
khoảng 0,2% - 0,3% GDP; hướng tới cân bằng thu - 
chi NSNN; kiểm soát chặt chẽ bội chi và nợ của chính 
quyền địa phương. 
- Về nợ công, thực hiện nghiêm túc quy định tại 
khoản 3 điều 7 của Luật NSNN năm 2015, theo đó, 
vay bù đắp bội chi chỉ dành cho ĐTPT, không vay cho 
tiêu dùng thường xuyên. Nghiên cứu các kịch bản để 
có thể xử lý các tình huống xảy ra, đi đôi với việc kiểm 
soát chặt chẽ mức bội chi hàng năm và trần nợ công; 
duy trì mức trần nợ công không quá 65% GDP (sau 
năm 2020 không quá 62% GDP), nợ Chính phủ không 
quá 55% GDP, nợ nước ngoài không quá 50% GDP. 
Cơ cấu lại nợ công theo hướng kéo dài kỳ hạn, giảm 
áp lực trả nợ ngắn hạn và chi phí vay vốn, bảo đảm 
khả năng trả nợ và an ninh tài chính quốc gia. 
Tài liệu tham khảo:
1. Luật NSNN năm 2015;
2. Nghị quyết số 266/NQ-UBTVQH13 ngày 4/10/2016 ban hành các nguyên tắc, 
tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2017;
3. Nghị quyết 1023/NQ-UBTVQH13 ngày 28/8/2015 ban hành các nguyên tắc, tiêu 
chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN giai đoạn 2016-2020;
4. Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về Chương trình hành 
động triển khai khai hoạch cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công.

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_co_cau_lai_ngan_sach_nha_nuoc_va_no_cong_o_viet_na.pdf