Giá trị phát hiện sớm đột biến gen trong chẩn đoán và điều trị khiếm thính bẩm sinh

Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng nghìn trẻ khiếm thính bẩm sinh được sinh ra, trong đó nguyên nhân do yếu

tố di truyền chiếm tỉ lệ lớn. Việc phát hiện sớm các đột biến gen gây khiếm thính bẩm sinh góp phần trong chẩn

đoán, điều trị, cũng như tư vấn di truyền. Nghiên cứu của chúng tôi phân tích 100 trẻ khiếm thính bẩm sinh

được điều trị tại Khoa Tai Mũi Họng, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và được chỉ định xét nghiệm gen tại Trung

tâm Tư vấn Di truyền Trường Đại học Y Hà Nội từ 3/2017 – 10/2019. Sử dụng phương pháp giải trình tự gen

thế hệ mới (Next Generation Sequencing) kiểm tra 100 đột biến trên 18 gen khiếm thính phổ biến trên toàn thế

giới, phát hiện 30 trẻ mang đột biến ở các gen GJB2, SLC26A4, TMC1, MT-RNR1, MT-TH1, MT-TL, đột biến

gen GJB2 chiếm tỉ lệ cao nhất. Các trẻ khiếm thính mang gen đột biến đều đáp ứng tốt với cấy ốc tai điện tử,

và với những trẻ mang đột biến MT-RNR1, các bác sỹ cần cẩn trọng khi điều trị kháng sinh nhóm Aminosid

pdf 9 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị phát hiện sớm đột biến gen trong chẩn đoán và điều trị khiếm thính bẩm sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị phát hiện sớm đột biến gen trong chẩn đoán và điều trị khiếm thính bẩm sinh

Giá trị phát hiện sớm đột biến gen trong chẩn đoán và điều trị khiếm thính bẩm sinh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
42 TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Trang,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 04/05/2020
GIÁ TRỊ PHÁT HIỆN SỚM ĐỘT BIẾN GEN TRONG CHẨN ĐOÁN 
VÀ ĐIỀU TRỊ KHIẾM THÍNH BẨM SINH
Hầu Dương Trung1, Cao Minh Hưng1, Nguyễn Minh Tuấn1, Nguyễn Trọng Phước1 
Cao Minh Thành1, 2, Phạm Vũ Hồng Hạnh³ và Nguyễn Thị Trang1, 2, 
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
3Bệnh viện Việt Pháp
Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng nghìn trẻ khiếm thính bẩm sinh được sinh ra, trong đó nguyên nhân do yếu 
tố di truyền chiếm tỉ lệ lớn. Việc phát hiện sớm các đột biến gen gây khiếm thính bẩm sinh góp phần trong chẩn 
đoán, điều trị, cũng như tư vấn di truyền. Nghiên cứu của chúng tôi phân tích 100 trẻ khiếm thính bẩm sinh 
được điều trị tại Khoa Tai Mũi Họng, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và được chỉ định xét nghiệm gen tại Trung 
tâm Tư vấn Di truyền Trường Đại học Y Hà Nội từ 3/2017 – 10/2019. Sử dụng phương pháp giải trình tự gen 
thế hệ mới (Next Generation Sequencing) kiểm tra 100 đột biến trên 18 gen khiếm thính phổ biến trên toàn thế 
giới, phát hiện 30 trẻ mang đột biến ở các gen GJB2, SLC26A4, TMC1, MT-RNR1, MT-TH1, MT-TL, đột biến 
gen GJB2 chiếm tỉ lệ cao nhất. Các trẻ khiếm thính mang gen đột biến đều đáp ứng tốt với cấy ốc tai điện tử, 
và với những trẻ mang đột biến MT-RNR1, các bác sỹ cần cẩn trọng khi điều trị kháng sinh nhóm Aminosid.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khiếm thính bẩm sinh (KTBS) là tình trạng 
bệnh lí gây suy giảm ở nhiều mức độ hoặc mất 
hoàn toàn khả năng nghe ngay từ giai đoạn sơ 
sinh. Đây là một rối loạn giác quan phổ biến 
nhất trên thế giới, ước tính ảnh hưởng tới hơn 
250 triệu người trên toàn thế giới.1 Theo số liệu 
thống kê năm 2014 của Bệnh viện Phụ sản Hà 
Nội, sàng lọc 38331 trẻ sơ sinh phát hiện 688 
ca nghe kém (tỉ lệ 1,5 %). Hậu quả của việc 
mất khả năng nghe từ lúc mới sinh sẽ làm trẻ 
kém phát triển ngôn ngữ, từ đó không thể giao 
tiếp và giảm trí tuệ. Trong nghiên cứu của Eliot 
Shierer² và cộng sự cho thấy tỉ lệ khiếm tính 
bẩm sinh do nguyên nhân di truyền chiếm đến 
80%. Năm 1997, Kelsell3 và cộng sự đã lần đầu 
tiên xác định được đột biến ở gen GJB2 ảnh 
hưởng trực tiếp tới thính lực, và từ đó đến nay, 
cùng sự phát triển của các kỹ thuật di truyền 
phân tử, trên thế giới đã phát hiện ra hàng trăm 
gen với hàng ngàn đột biến liên quan. Tại Việt 
Nam, các phương pháp chẩn đoán khiếm thính 
bẩm sinh đa số là các phương pháp vật lí như 
đo âm ốc tai (OAE), đo đáp ứng điện thân não 
(ABR). Tuy nhiên với nhu cầu phát hiện ngày 
càng sớm và chính xác, các kĩ thuật di truyền 
phân tử đã tỏ rõ nhiều ưu thế. Một trong số đó 
là kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ mới Next 
Generation Sequencing (NGS), với ưu điểm 
vượt trội so với các kỹ thuật khác là có thể giải 
trình tự một khối lượng lớn thông tin di truyền, 
cùng một lúc phát hiện được đa đột biến ở 
nhiều gen, kể cả các đột biến mới phát sinh 
trong một khoảng thời gian ngắn.4 Sau khi xác 
định được các gen đột biến ở trẻ khiếm thính, 
việc mà các nhà lâm sàng quan tâm là vai trò 
của từng gen tới chẩn đoán và điều trị khiếm 
Từ khóa: Khiếm thính bẩm sinh, Next Generation Sequencing, đột biến gen, ốc tai điện tử, aminosid.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
43TCNCYH 126 (2) - 2020
thính bẩm sinh bởi trong quá trình điều trị, nhận 
thấy nhiều trường hợp đáp ứng tốt với cấy ốc 
tai điện tử - phương pháp điều trị chủ yếu cho 
trẻ khiếm thính nặng, nhưng một số lại không 
cải thiện. Chưa có nhiều công trình nghiên cứu 
về các gen gây khiếm thính bẩm sinh ở Việt 
Nam, gần đây là nghiên cứu của tác giả Phạm 
Vũ Hồng Hạnh về: “Bước đầu ứng dụng kỹ 
thuật giải trình tự gen thế hệ mới xác định đột 
biến gen liên quan khiếm thính bẩm sinh”.5 Tuy 
nhiên giá trị của việc xác định các đột biến này 
chưa được các tác giả Việt Nam đề cập, vì vậy 
chúng tôi mong muốn tiến hành nghiên cứu với 
hai mục tiêu:
1. Xác định tỉ lệ các đột biến gen gây khiếm 
thính bẩm sinh bằng kỹ thuật giải trình tự gen 
thế hệ mới (NGS).
2. Đánh giá vai trò của các đột biến gen 
trong lựa chọn phương pháp điều trị và dự 
phòng khiếm thính bẩm sinh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
- Tiêu chuẩn lựa chọn: 100 trẻ được chẩn 
đoán khiếm thính bẩm sinh đến khám và điều trị 
tại Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội từ tháng 3/2017 - tháng 10/2019. Trẻ và họ 
hàng bậc I (bố mẹ và anh chị em ruột) được chỉ 
định tới làm xét nghiệm tại Trung tâm Tư vấn Di 
truyền thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Trẻ khiếm thính có mẹ 
nhiễm virus Rubella, CMV,  trong quá trình 
mang thai. Gia đình trẻ không đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán khiếm thính bẩm 
sinh: 
Người bình thường có thể nghe được âm 
thanh ở dưới ngưỡng 20dB trong điều kiện im 
lặng. Khiếm thính bẩm sinh là tình trạng ngưỡng 
nghe cao hơn người bình thường ngay từ giai 
đoạn sơ sinh, trong đó ngưỡng nghe: 
 + 20 - 40dB: nghe kém nhẹ
+ 40 - 70dB: nghe kém vừa
+ 70 - 90dB: điếc nặng
+ 90 - 120dB: điếc sâu
+ > 120dB: điếc đặc
2. Phương pháp
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3/2017 - 
tháng 10/2019
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Tư vấn Di 
truyền thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Cỡ mẫu: 100 trẻ khiếm thính bẩm sinh cùng 
bố mẹ và anh chị. 
Nội dung nghiên cứu:
- Lựa chọn bệnh nhân.
- DNA tổng số được tách chiết từ mẫu máu 
ngoại vi của 100 trẻ nghe kém bẩm sinh bằng 
bằng DNeasy Blood & Tissue Kit (Qiagen). 
- DNA của bệnh nhân được cắt thành những 
đoạn exon V6 nhỏ có kích thước 150 - 200bp 
bằng kit Aligent SureSelect Human All Exon V6 
(Aligent technology CA, USA). Lai các đoạn 
exon với các đoạn dò có gắn hạt biotin. Tiến 
hành gắn Streptavidin lên những đoạn ADN lai 
ghép. Rửa sạch các hạt biotin – streptavidin, 
chỉ giữ lại những mạch đơn (của bệnh nhân). 
Những mạch đơn này sẽ được thực hiện phản 
ứng nhân gen PCR. 
- Sản phẩm thu được chuẩn bị cho quá trình 
giải trình tự tự động với mồi thiết kế sẵn cho 100 
đột biến trên 18 gen biến gồm: GJB2, GJB3, 
SLC26A4, 12S rARN, MT-CO1, MT-TL1, MT-
TS1, MT-TH, DSPP, GPR98, DFNA5, TMC1, 
MYO7A, TECTA, DIABLO, COCH, MYO15A và 
PRPS1 (CapitalBio, Mỹ). 
- Đọc và phân tích kết quả giải trình tự gen: 
Dữ liệu trình tự được sắp xếp và so sánh với 
Ngân hàng gen người (hg19) bằng phần mềm 
Burrows–Wheeler Alignerv 0.7.10 và phân tích 
bằng Genome Analysis Toolkit v3.4. Ảnh hưởng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
44 TCNCYH 126 (2) - 2020
của biến thể được xác định bằng các phần 
mềm SnpEff v4.1, 1000Genome, ClinVar 
Chọn lọc các biến thể theo các chỉ số MQ > 50, 
Sift_score và Polyphen2_score từ 0 đến 1, các 
gen liên quan đến khiếm thính bẩm sinh.
 - Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS. 
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ chặt chẽ theo đạo đức 
nghiên cứu trong Y học. Đối tượng tham gia và 
người bảo hộ đều được giải thích rõ về cuộc 
nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Người bảo hộ có quyền từ chối hoặc dừng 
tham gia cho đối tượng nghiên cứu bất cứ lúc 
nào. Bệnh nhân và gia đình được thông báo 
về kết quả xét nghiệm gen. Các thông tin cá 
nhân được bảo mật và chỉ được sử dụng trong 
nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
 Trong các trẻ tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã phát hiện đột biến gen ở 30 trẻ. Trong đó đột 
biến xuất hiện nhiều nhất ở gen GJB2 là 235delC. (Bảng 1 )
Bảng 1. Tỷ lệ các loại đột biến gen xuất hiện trong nhóm nghiên cứu
Gen đột 
biến
Loại đột biến
Số trường hợp Tỷ lệ trong số đột 
biến phát hiện
(n = 30)
Tỷ lệ trong số bệnh 
nhân nghiên cứu
(n = 100)
Đồng hợp Dị hợp
GJB2
c.235delC 8 5*
53,34% 16%
c.299_300delAT 0 3*
SLC26A4
c.439A>G 0 2
10% 3%c.754T>C 0 1**
c.1229C>T 0 0**
TMC1
c.1334G>A 0 1
23,33% 7%
c.150delT 3 3
12S-rARN 
(MT RNR1)
m.1555A>G 0 1
6,67% 2%
m.1494C>T 0 1
MT-TL1 m.3243A>G 0 1 3,33% 1%
MT-TH m.1220T>C 0 1 3,33% 1%
Tổng cộng 30 100% 30%
Chú thích: (*) trường hợp dị hợp tử kép ở gen GJB2 là c.235delC và c.299-300delAT chỉ tính vào 
1 trường hợp ở c.235delC. (**) trường hợp dị hợp tử kép ở gen SLC26A4 là c.754T>C và c.1229C>T 
tính vào 1 trường hợp ở c.754T>C 
Đặc biệt chúng tôi phát hiện được 2 trường hợp dị hợp tử kép: 1 trường hợp mang 2 đột biến 
235delC và 299-300delAT của gen GJB2 ; 1 trường hợp mang 2 đột biến c.754T>C và c.1229C>T 
của gen SLC26A4. 
 Trong nghiên cứu lần này, không chỉ các trẻ khiếm thính được xét nghiệm gen mà cả bố mẹ của 
trẻ cũng được kiểm tra có mang gen đột biến hay không. Qua phân tích, chúng tôi ghi nhận trong 30 
trẻ phát hiện đột biến, có 20 trẻ có cả bố và mẹ đều mang gen đột biến, 9 trẻ có bố hoặc mẹ mang 
gen đột biến, và đặc biệt một trường hợp có cả bố và mẹ đều không mang gen đột biến. (Biểu đồ 1)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
45TCNCYH 126 (2) - 2020
Biểu đồ 1. Tỉ lệ trẻ khiếm thính bẩm sinh đã phát hiện đột biến có bố mẹ mang gen đột biến
Để tìm hiểu rõ hơn mối liên quan di truyền giữa trẻ khiếm thính bẩm sinh và gia đình chúng tôi 
xây dựng 03 gia hệ từ các trẻ khiếm thính bẩm sinh tới làm xét nghiệm. Gia hệ I và II (Hình 1), trẻ 
đều mang đột biến ở gen GJB2, đã được chẩn đoán khiếm thính bẩm sinh và cấy ốc tai điện tử, bố 
mẹ của 2 trẻ đều không bị bệnh nhưng mang gen bệnh. Điều khác biệt là ở gia hệ I trẻ khiếm thính 
bẩm sinh bị đột biến ở gen GJB2 dạng đồng hợp tử 235delC d o cả bố và mẹ đều mang một đột biến 
là 235delC; còn ở gia hệ II trẻ bị đột biến ở gen GJB2 dạng dị hợp tử kép 235delC/299-300delAT, 
do trẻ nhận một alen 235delC từ bố và một alen 299-300delAT từ mẹ. Gia hệ III (Hình 2), đương sự 
là 1 trẻ nam khiếm thính bẩm sinh đã cấy ốc tai điện tử có đột biến ở gen TMC1 nhưng khi kiểm tra 
cả bố và mẹ đều không mang đột biến này, chứng tỏ đột biến mới phát sinh trong quá trình tạo giao 
tử. Kết quả từ 03 gia hệ trên chỉ mang tính khảo sát bước đầu và chưa đại diện cho 30 bệnh nhi.
Hình 1. Hai gia hệ đột biến ở gen GJB2
Gia hệ I: trẻ KTBS có kiểu gen đồng hợp tử 235delC. Gia hệ II: Trẻ KTBS có kiểu gen dị hợp tử 
kép, mang 1 alen 235 delC và 1 alen 299-300delAT
67%
30%
3%
Trẻ khiếm thính bẩm sinh có cả 
bố và mẹ cùng mang gen đột biến 
Trẻ khiếm thính bẩm sinh chỉ có 
bố hoặc mẹ mang gen đột biến 
Trẻ khiếm thính bẩm sinh có cả 
bố và mẹ không mang gen đột 
biến 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
46 TCNCYH 126 (2) - 2020
Hình 2. Gia hệ đột biến ở gen TMC1
IV. BÀN LUẬN
 Tỉ lệ tìm đột biến gen trong nhóm trẻ nghiên 
cứu của chúng tôi là 30%, tương đối cao so 
với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam như 
của tác giả Nguyễn Thùy Dương10 (2014) là 
3.95%, Hồ Kim Hoa11 (2016) là 6.8%, Phạm Vũ 
Hồng Hạnh5 (2017) là 18.3%. Điều này có thể 
giải thích là do cách chọn mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi đã có tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
chặt chẽ hơn, loại đi các trường hợp mẹ nhiễm 
virus rubella, CMV... trong quá trình mang thai 
và nghiên cứu của chúng tôi khảo sát nhiều đột 
biến hơn. Tuy nhiên với nguyên nhân khiếm 
thính bẩm sinh 80% do di truyền theo Eliot 
Shierer² công bố thì tỉ lệ này còn khá khiêm tốn. 
Một lý do khác là còn nhiều đột biến chưa tìm 
thấy và bộ kit sử dụng chưa bao phủ được tất 
cả các đột biến gen có liên quan tới khiếm thính 
bẩm sinh. Trong thời gian sắp tới, sau khi hoàn 
thiện quy trình giải trình tự 270 gen liên quan 
khiếm thính bẩm sinh, chúng tôi tin rằng sẽ tìm 
được tỉ lệ đột biến cao hơn và hi vọng sẽ tìm 
được tần số đột biến đặc trưng cho quần thể 
người Việt Nam.
 Tương đồng với các nghiên cứu khác trên 
toàn thế giới, đột biến gen phổ biến nhất chúng 
tôi tìm được trong nghiên cứu lần này ở gen 
GJB2. Gen GJB2 nằm trên NST số 13, mã hóa 
protein connexin 26 (Cx26) có vai trò cân bằng 
nồng độ ion K+ của tế bào lông trong ốc tai.12 
Việc kênh protein Cx26 mất chức năng làm tích 
lũy K+ ở tế bào lông và làm tế bào này thoái hóa. 
Phổ biến thứ hai trong nghiên cứu của chúng 
tôi là đột biến ở gen TMC1 trên NST số 9, quy 
định kênh protein của ion Ca2+ giúp dẫn truyền 
điện thế trên màng của tế bào có lông chuyển 
ở tai trong.13 Các đột biến xảy ra tại gene TMC1 
sẽ gây ảnh hưởng tới sự dẫn truyền điện thế 
của tế bào có lông qua khe synap. Hậu quả 
của đột biến dẫn tới điếc tiếp nhận, không đi 
kèm với các hội chứng. Đột biến ở gen TMC1 
có cả hai dạng trội và lặn, trong đó dạng trội 
thường gây khiếm thính tiến triển còn dạng 
lặn thường gây khiếm thính bẩm sinh nghiêm 
trọng. Một đột biến khác của gen trong nhân là 
tại gen SLC26A4 mã hóa protein pendrin vận 
chuyển anion Cl- và HCO3- nằm trên NST số 
714. Đột biến gen SLC26A4 dẫn đến sự thay 
đổi vận chuyển ion qua màng tế bào ở ốc tai, 
làm giảm hoặc mất thính lực bẩm sinh liên quan 
tới hội chứng, gồm hai hội chứng phổ biến là 
hội chứng Pendred và hội chứng mở rộng ống 
tiền đình. Trong chẩn đoán, việc xác định được 
đột biến ở gen này sẽ gợi ý cho các nhà lâm 
sàng tổn thương ở các cơ quan khác nữa ngoài 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
47TCNCYH 126 (2) - 2020
thính giác, cụ thể là tình trạng suy giáp trạng 
bẩm sinh trong hội chứng Pendred.
 Bên cạnh các gen nằm trên nhiễm sắc thể 
trong nhân tế bào, chúng tôi phát hiện 3 gen 
trong ty thể cũng ảnh hưởng tới thính lực. Đáng 
chú ý trong đó là gen MT - RNR1 mã hóa cho 
rARN 12S. Đột biến ở gen này làm ribosome 
ti thể trở nên giống ở vi khuẩn hơn, tăng nhạy 
cảm với aminoglycoside, một kháng sinh được 
xác định liên quan tới tổn thương tế bào lông 
và thần kinh thính giác.9 Việc phát hiện sớm 
đột biến gen này sẽ giúp dự phòng KTBS rất 
tốt vì chỉ cần tránh sử dụng kháng sinh nhóm 
aminosid. 
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, 
có mối liên hệ mật thiết giữa các đột biến gen 
liên quan tới khiếm thính bẩm sinh với mức độ 
khiếm thính và hiệu quả của các phương pháp 
điều trị, tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên 
thế giới được tóm tắt tại bảng 2. Trong nghiên 
cứu của Christina M.Sloan-Heggen6 và cộng 
sự năm 2016 đã chỉ ra rằng, phần lớn đột biến 
ở gen STRC chỉ gây khiếm thính nhẹ tới trung 
bình và đáp ứng tốt với máy trợ thính. Trong 
khi đó, nghiên cứu của Robert Eppsteiner7 
và cộng sự đã chỉ ra đột biến gen TMPRSS3 
trong tế bào của hạch thần kinh xoắn ốc làm 
thoái hóa các nơron nên việc cấy ốc tai điện 
tử không hiệu quả. Trong nghiên cứu lần này 
của chúng tôi, các đột biến tìm được đều gây 
tổn thương tại các tế bào trong ốc tai (tế bào 
có lông, tế bào phụ), gây khiếm thính mức độ 
nặng và việc điều trị bằng cấy ốc tai điện tử rất 
có hiệu quả, các trẻ khiếm thính bẩm sinh trong 
nghiên cứu đều đáp ứng tốt với ốc tai điện tử 
và chưa phải cấy lại. Điều này ủng hộ kết quả 
nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới được 
nêu trong bảng 2 về hiệu quả cấy ốc tai điện tử 
với các đột biến gen GJB2, TMC1, SLC26A4, 
MT-RNR1, MT-TH, MT-TL1. Nhưng ngày nay, 
người ta cũng nhận ra một số bất lợi của ốc 
tai điện tử như việc nhận thức cao độ kém, 
tăng khó khăn trong việc nhận diện giọng nói 
và ngôn ngữ nói, đặc biệt là trong môi trường 
nhiều tiếng ồn, chúng cũng là các thiết bị giả 
nên đòi hỏi sự chăm sóc của bệnh nhân trong 
suốt cuộc đời của họ. Do đó, các liệu pháp dựa 
trên gen và tế bào đang được phát triển với 
ưu điểm là có thể bảo tồn hoặc phục hồi thính 
giác với nhận thức âm thanh tự nhiên hơn, vì 
khả năng phân giải tần số của chúng cao hơn 
nhiều so với cấy ốc tai điện tử. Vào tháng 2 
năm 2019, Carl A và cộng sự15 đã thử nghiệm 
liệu pháp gen trên chuột, họ tạo ra các chuột 
đột biến hỏng gen TMC1 bị khiếm thính, sau đó 
họ chuyển gen nhờ vecto Adeno, sau một thời 
gian, nhận thấy chuột phục hồi lại thính giác, 
một kết quả đáng mong đợi. 
Việc phát hiện và quản lý đột biến gen gây 
khiếm thính bẩm sinh, nghiên cứu phả hệ để 
tư vấn trước hôn nhân giúp các cặp vợ chồng 
biết tỉ lệ rủi ro sinh con bị bệnh, đưa ra những 
lời khuyên cho gia đình chú ý sàng lọc sớm, 
giảm thiểu tỷ lệ sinh ra những trẻ khiếm thính 
bẩm sinh cũng giúp nâng cao chất lượng cuộc 
sống và giảm gánh nặng kinh tế. Ví dụ, đối với 
trường hợp ở gia hệ I và II, nên làm tốt công 
tác tư vấn trước hôn nhân, cho họ biết trước 
nguy cơ sinh trẻ khiếm thính để nếu quyết tâm 
cưới nhau và muốn có con, họ nên tầm soát di 
truyền trước sinh hoặc trước chuyển phôi. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
48 TCNCYH 126 (2) - 2020
Bảng 2. Mối liên quan giữa các đột biến gen với mức độ khiếm thính 
và hiệu quả của các biện pháp can thiệp.
Gen
Vị trí biểu hiện trong 
tế bào ốc tai
Mức độ khiếm thính 
bẩm sinh
Hiệu quả can 
thiệp Tác giả
GJB2
Conexin 26 TB hỗ 
trợ
Nặng có hoặc không 
hội chứng
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Máy trợ thính hiệu 
quả thấp
Christina et 
al6.
TMC1
Kênh protein vận 
chuyển ion TB lông 
trong và ngoài
Nặng không hội chứng
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Máy trợ thính hiệu 
quả thấp
Robert et al7. 
SLC26A4
Kênh vận chuyển Cl 
TB biểu mô gờ xoắn 
ốc
Nặng có hoặc không 
hội chứng
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Máy trợ thính hiệu 
quả thấp
Robert et al7.
Rose et al8.
MT-RNR1
Mã hóa ARN ti thể 
12S ribosome
Nghe kém nhiều mức 
độ khi sử dụng kháng 
sinh nhóm amisosid
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Hạn chế sử 
dụng KS nhóm 
Aminoglycosid
Li et al9.
MT-TH Chưa rõ HC MELAS
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Robert et al7.
MT-TL1
Giảm tạo ATP các 
kênh K+ TB lông 
ngoài Corti
HC MELAS
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả cao
Robert et al7.
STRC
Protein ngoại bào 
TB lông ngoài
Nhẹ
Máy trợ thính hiệu 
quả cao
Christina et 
al6.
TMPRSS3
TB hạch thần kinh 
ốc tai
Nặng
Cấy ốc tai điện tử 
hiệu quả thấp
Robert et al7.
V. KẾT LUẬN
 Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy:
- Tỉ lệ đột biến gen ở trẻ khiếm thính bẩm 
sinh là 30%, trong đó tỷ lệ đột biến gen GJB2 
chiếm tỷ lệ cao nhất 53%. Tỉ lệ đột biến các gen 
còn lại lần lượt là TMC1 23%, SLC26A4 10%, 
MT-RNR1 7%, MT-TL1 3%, MT-TH 3%.
- Việc phát hiện các đột biến gen liên quan 
đến khiếm thính bẩm sinh có vai trò quan trọng 
trong công tác tư vấn di truyền, định hướng 
chẩn đoán sớm và tiên lượng hiệu qủa điều trị 
bằng ốc tai điện tử ở những bệnh nhân khiếm 
thính bẩm sinh.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy 
cô, các bác sĩ, điều dưỡng, kĩ thuật viên tại 
Trung tâm tư vấn Di truyền và khoa Tai mũi 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
49TCNCYH 126 (2) - 2020
họng Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã nhiệt tình 
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho chúng tôi hoàn 
thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Mathers C, Smith A and Concha M. Global 
burden of hearing loss in the year 2000. World 
Health Report. 2003.
2. Shearer AE, Hildebrand MS, Smith 
RJH. Hereditary Hearing Loss and Deafness 
Overview.
3. Kelsell, D. P., Dunlop et al. Connexin 
26 mutations in hereditary non-syndromic 
sensorineural deafness. Nature.1997;387:80-83
4. Di Resta C, Galbiati S, Carrera P, Ferrari 
M. Next-generation sequencing approach 
for the diagnosis of human diseases: open 
challenges and new opportunities. EJIFCC. 
2018.
5. Phạm Vũ Hồng Hạnh và cs. Bước đầu 
ứng dụng kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ mới 
xác định đột biến gen liên quan khiếm thính 
bẩm sinh. Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tổng 
Hội Y học Việt Nam, Hội Sinh lý học Việt Nam. 
9/2017;3(21):1-5.
6. Sloan-Heggen CM, Bierer AO, Shearer 
AE et al. Comprehensive genetic testing in the 
clinical evaluation of 1119 patients with hearing 
loss. Hum Genet. 2016.
7. Eppsteiner RW, Shearer AE, Hildebrand 
MS et al. Prediction of Cochlear Implant 
Performance by Genetic Mutation: The Spiral 
Ganglion Hypothesis. Hear Res. 2012.
8. Rose J, Muskett JA, King KA et al. 
Hearing Loss Associated with Enlarged 
Vestibular Aqueduct and Zero or One Mutant 
Allele of SLC26A4. Laryngoscope. 2017 
July;127(7):238-243.
9. Li R, Xing G, Yan M et al. Consegregation 
of C-insertion at position 961 with the A1555G 
mutation of the mitochrondial 12S-rRNA gene 
in large Chinese family with maternally inherited 
hearing loss. American Journal of Medical 
Genetics. 2003.
10. Nguyễn Thùy Dương, Phí Thị Thu 
Trang, Nông Văn Hải. Xác định đột biến gen 
GJB2 ở một gia đình bệnh nhân có hai con mắc 
bệnh khiếm thính. Tạp chí Công nghệ Sinh học. 
2015;12(4):601-605.
11. Hồ Kim Hoa, Nguyễn Thị Trang, Lê 
Hoàng Thắng và cộng sự. Ứng dụng DNA 
Microarray phát hiện đột biến gene gây khiếm 
thính bẩm sinh ở trẻ em Việt Nam. Tạp chí Y 
học Việt Nam. 2016; 445:134-138.
12. Maeda S, Nakagawa S, Suga M et 
al. Structure of the connexin 26 gap junction 
channel at 3.5-asgstrom resolution. Nature. 
2009;458:597-602.
13. Pan B, Geleoc GS, Asai et al. 
TMC1 and TMC2 are components of the 
mechanotransduction channel in hair cells of 
the mammalian inner ear. Neuron. 2013;79:504-
515.
14. Everett LA., Glaser B et al. Pendred 
syndrome is caused by mutations in a putative 
sulphate transporter gene (PDS). Nature Genet. 
1997;17:411-422.
15. Nist-Lund CA, Pan B, Patterson A et 
al. Improved TMC1 gene therapy restores 
hearing and balance in mice with genetic inner 
ear disorders. Natural Communications. 2019 
Feb;236.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
50 TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
EARLY DETECTION OF COMMON DEAFNESS GENE 
MUTATIONS ASSOCIATED WITH DIAGNOSIS AND 
TREATMENT
In Vietnam, thousands of children are born with congenital hearing loss every year, of which 
genetic factors play a massive role. Therefore, early detection of congenital hearing loss mutations is 
decisive in diagnosis, treatment as well as genetic councelling. This research selected 100 hereditary 
deaf children with cochlear implants and their parents at Hanoi Medical University Hospital from 
March 2017 to October 2019. After applying Next Generation Sequencing (NGS) to inspect 100 most 
common mutations worldwide on 18 genes, analysis showed 30 mutations in 100 cases, including both 
homozygous and heterozygous form of 6 genes GJB2, SLC26A4, TMC1, 12S-rARN, MT-TH, MT-TL1. 
GJB2 mutation accounted for the highest proportion of the detected genes. All children carrying the 
mutant genes discovered in this research responded well to cochlear implants. It was also worth noting 
that doctors should be especially careful when treating children with MT-RNR1 mutation with Aminosid.
Keywords: congenital hearing loss, Next Generation Sequencing, gene mutations, cochlear 
implant, aminosid.

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_phat_hien_som_dot_bien_gen_trong_chan_doan_va_dieu_t.pdf