Giá trị phân loại LI-RADS trên cắt lớp vi tính trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan

Đánh giá giá trị của phân loại LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính (cắt lớp vi tính) trong chẩn đoán ung thư

biểu mô tế bào gan (ung thư biểu mô tế bào gan ). Phương pháp tiến cứu trên 80 bệnh nhân với 93 tổn thương

phát hiện trên cắt lớp vi tính 64 dãy tại Bệnh viện Việt Đức từ T5/2019 đến T2/2020. Tổn thương được mô tả

và phân loại theo LI-RADS 2018, đối chiếu với giải phẫu bệnh, xác định giá trị dự đoán ung thư biểu mô tế bào

gan của từng phân loại và độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, âm tính của phân loại LI-RADS.

Kết quả: 93 tổn thương gồm 75 ác tính và 18 lành tính. Giá trị dự đoán ung thư biểu mô tế bào gan của LR1

đến LR5 và LRM lần lượt là 0%; 0%; 41,7%; 77,8%; 93% và 20%. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương

tính và âm tính của phân loại LI-RADS khi tính riêng LR5 trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan lần

lượt là 66,7%; 88,9%; 93% và 54,5%; khi kết hợp LR4 và LR5 tương ứng là 90%; 74,1%; 88,5% và 76,9%. Kết

luận: Phân loại LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan .

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị phân loại LI-RADS trên cắt lớp vi tính trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị phân loại LI-RADS trên cắt lớp vi tính trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan

Giá trị phân loại  LI-RADS trên cắt lớp vi tính trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
109TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 03/04/2020
Ngày được chấp nhận: 22/04/2020
GIÁ TRỊ PHÂN LOẠI LI-RADS TRÊN CẮT LỚP VI TÍNH 
TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN 
Trần Thị Hồng Nhung1, , Nguyễn Duy Hùng1,2, Nguyễn Duy Huề1
1Trường Đại học Y Hà Nội 
2Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Đánh giá giá trị của phân loại LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính (cắt lớp vi tính) trong chẩn đoán ung thư 
biểu mô tế bào gan (ung thư biểu mô tế bào gan ). Phương pháp tiến cứu trên 80 bệnh nhân với 93 tổn thương 
phát hiện trên cắt lớp vi tính 64 dãy tại Bệnh viện Việt Đức từ T5/2019 đến T2/2020. Tổn thương được mô tả 
và phân loại theo LI-RADS 2018, đối chiếu với giải phẫu bệnh, xác định giá trị dự đoán ung thư biểu mô tế bào 
gan của từng phân loại và độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, âm tính của phân loại LI-RADS. 
Kết quả: 93 tổn thương gồm 75 ác tính và 18 lành tính. Giá trị dự đoán ung thư biểu mô tế bào gan của LR1 
đến LR5 và LRM lần lượt là 0%; 0%; 41,7%; 77,8%; 93% và 20%. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương 
tính và âm tính của phân loại LI-RADS khi tính riêng LR5 trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan lần 
lượt là 66,7%; 88,9%; 93% và 54,5%; khi kết hợp LR4 và LR5 tương ứng là 90%; 74,1%; 88,5% và 76,9%. Kết 
luận: Phân loại LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan .
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư 
gan nguyên phát phổ biến nhất và là nguyên 
nhân chính của tử vong ở các bệnh nhân có 
bệnh lý gan mạn tính.¹ Ung thư biểu mô tế bào 
gan đứng thứ 3 về tỷ lệ tử vong và đứng thứ 
5 về tỷ lệ mắc trong các loại ung thư trên toàn 
thế giới.² Không giống như đa số các loại ung 
thư khác, chẩn đoán xác định ung thư biểu mô 
tế bào gan có thể chỉ dựa vào đặc điểm hình 
ảnh điển hình trên những bệnh nhân có nguy 
cơ cao mà không nhất thiết phải chờ đợi có kết 
quả giải phẫu bệnh,³ do đó, rút ngắn được thời 
gian chẩn đoán và không làm chậm quá trình 
điều trị cho bệnh nhân. 
Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) đóng vai trò 
quan trọng trong sàng lọc, chẩn đoán ung thư 
biểu mô tế bào gan cũng như đánh giá sau điều 
trị.¹ Trong đó, cắt lớp vi tính (cắt lớp vi tính) đa 
dãy là phương pháp CĐHA rất có giá trị trong 
chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan. Tuy 
nhiên, các kĩ thuật chụp, thuật ngữ mô tả các 
tổn thương, các tiêu chuẩn chẩn đoán lại có sự 
khác nhau giữa các quốc gia, các bác sỹ lâm 
sàng và CĐHA. Vì vậy, Hiệp hội CĐHA Hoa Kỳ 
đã nghiên cứu và xây dựng hệ thống dữ liệu và 
báo cáo kết quả CĐHA gan LI-RADS (The Liver 
Imaging Reporting and Data System), xuất bản 
lần đầu tiên năm 2011. Hệ thống phân loại này 
nhằm chuẩn hóa các thăm khám hình ảnh trong 
sàng lọc, chẩn đoán và đánh giá đáp ứng sau 
điều trị ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị 
ung thư biểu mô tế bào gan.3 Đồng thời thống 
nhất các thuật ngữ mô tả tổn thương giữa các 
bác sỹ CĐHA, cũng như giữa bác sỹ CĐHA và 
bác sỹ lâm sàng. Hệ thống phân loại này liên 
tục được cập nhật bổ sung qua các năm 2013, 
2014, 2017 và 2018 và được đưa vào khuyến 
cáo trong hướng dẫn thực hành lâm sàng 2018 
của Hiệp hội nghiên cứu các bệnh gan Hoa Kỳ 
Từ khóa: Gan, ung thư biểu mô tế bào gan, bệnh gan mạn tính, LI-RADS 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
110 TCNCYH 126 (2) - 2020
(AASLD).4
Trên thế giới đã có các nghiên cứu về LI-
RADS, tuy nhiên hầu hết trong số đó là các 
phiên bản cũ,5–7 các nghiên cứu trên phiên bản 
mới nhất năm 2018 chưa nhiều.8 Ngoài ra, tại 
Việt Nam chưa có đề tài nghiên cứu về phân 
loại này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
này với mục tiêu đánh giá giá trị của phân loại 
LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính trong chẩn 
đoán ung thư biểu mô tế bào gan.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các bệnh nhân trên 18 tuổi có yếu tố nguy 
cơ của ung thư biểu mô tế bào gan bao gồm 
xơ gan và viêm gan B mạn tính, đến khám tại 
Bệnh viện hữu nghị Việt Đức trong thời gian 
tháng 5/2019 đến tháng 2/2020, có phát hiện 
tổn thương gan khu trú trên phim chụp cắt lớp 
vi tính 64 dãy, sau đó được sinh thiết hoặc phẫu 
thuật (có kết quả giải phẫu bệnh), đồng ý tham 
gia nghiên cứu, có hồ sơ lưu trữ đầy đủ. Loại 
trừ các bệnh nhân dưới 18 tuổi, không có yếu 
tố nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan , không 
có tổn thương gan khu trú hoặc tổn thương đã 
được sinh thiết hay phẫu thuật trước đó, đã 
được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan 
từ trước, không đồng ý tham gia nghiên cứu, 
không có hồ sơ bệnh án đầy đủ.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả cắt ngang
Kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính
Bệnh nhân nhịn ăn 6-8h trước khi chụp, 
được thực hiện chụp trên máy cắt lớp vi tính 
64 dãy Optima CT660 của hãng GE – Mỹ, chọn 
chế độ chụp ổ bụng, thông số quét 120kV, 
175mA, trường chụp (FOV) 40cm², cắt từ vòm 
hoành đến khớp mu, độ dày lát cắt 5mm, tái 
tạo 0,625mm. Bệnh nhân nằm ngửa, nín thở 
trong mỗi thì chụp, chụp thì trước tiêm, sau 
đó tiêm tĩnh mạch thuốc cản quang Xenetix 
100mml/350mg, liều 1,5 ml/kg, tiêm máy, tốc độ 
tiêm 3 ml/s, tiếp tục chụp thì động mạch muộn ở 
giây thứ 30 kể từ khi bắt đầu tiêm, thì tĩnh mạch 
ở giây thứ 60 và thì muộn ở phút thứ 3.
Quy trình, phương pháp thu thập số liệu
Thu thập các thông tin về đặc điểm của mẫu 
nghiên cứu bao gồm các thông tin về tuổi, giới, 
yếu tố nguy cơ của ung thư biểu mô tế bào gan 
(bao gồm xơ gan và viêm gan B mạn tính), tiền 
sử về các bệnh lý gan. Hình ảnh cắt lớp vi tính 
của tổn thương được mô tả bởi bác sĩ CĐHA 
có 10 - 30 năm kinh nghiệm trong chẩn đoán 
hình ảnh gan mật, đọc độc lập và không biết 
kết quả giải phẫu bệnh trước khi đối chiếu. Các 
đặc điểm mô tả bao gồm: (1)vị trí, (2) số lượng, 
(3) kích thước đo bằng đường kính lớn nhất từ 
bờ ngoài của tổn thương,4 (4) có ngấm thuốc 
thì động mạch khi tổn thương có tỷ trọng cao 
hơn nhu mô gan lành xung quanh,4 (5) có thải 
thuốc thì tĩnh mạch và thì muộn khi tổn thương 
có tỷ trọng thấp hơn nhu mô gan lành xung 
quanh,4 (6) có vỏ ngấm thuốc được định nghĩa 
là viền nhẵn sắc nét tăng tỷ trọng bao quanh 
tổn thương quan sát ở thì tĩnh mạch hoặc thì 
muộn,4 (7) dấu hiệu u xâm lấn tĩnh mạch khi 
quan sát thấy tổ chức ngấm thuốc trong lòng 
tĩnh mạch.4 Sau khi mô tả đầy đủ các đặc điểm, 
tổn thương sẽ được phân loại theo phân loại 
LI-RADS trên cắt lớp vi tính năm 2018.9 Nếu 
bệnh nhân có nhiều hơn một tổn thương thì mỗi 
tổn thương được mô tả và phân loại LI-RADS 
riêng. Các bệnh nhân sau khi được sinh thiết 
hoặc phẫu thuật, kết quả giải phẫu bệnh được 
chia thành 3 nhóm: lành tính, ung thư biểu mô 
tế bào gan và tổn thương ác tính khác.
3. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập và phân tích bằng phần 
mềm SPSS 20.0. Các biến định lượng được 
trình bày dưới dạng trung bình và độ lệch 
chuẩn, được kiểm định bằng phép kiểm t hoặc 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
111TCNCYH 126 (2) - 2020
U Mann Whitney, có ý nghĩa thống kê với p < 
0,05. Các biến định tính được trình bày dưới 
dạng tỷ lệ và được kiểm định bằng phép kiểm 
chi bình phương hoặc Fisher. 
Để đánh giá độ chính xác của phân loại 
LI-RADS, các tổn thương phân loại LR5 hoặc 
LR4+LR5 xếp vào nhóm ung thư biểu mô tế 
bào gan , các phân loại còn lại xếp vào nhóm 
không phải ung thư biểu mô tế bào gan , trừ 
nhóm LRTIV không đưa vào xếp loại bởi phân 
loại này chỉ phản ánh tình trạng u xâm lấn vào 
trong tĩnh mạch mà không phản ánh bản chất 
u. Sau đó đối chiếu với tiêu chuẩn vàng là kết 
quả giải phẫu bệnh để xây dựng bảng 2x2, từ 
đó tính độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán 
dương tính, giá trị dự đoán âm tính của phân 
loại LI-RADS trong chẩn đoán ung thư biểu mô 
tế bào gan.
4. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân được giải thích đầy đủ về quy 
trình nghiên cứu và đồng ý tham gia. Các thông 
tin hồ sơ bệnh án và hình ảnh đều được chúng 
tôi bảo mật.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Trong thời gian từ tháng 5/2019 đến tháng 
2/2020, có 80 bệnh nhân với 93 tổn thương 
đạt đủ các tiêu chí chọn mẫu, với các đặc điểm 
sau: tuổi trung bình: 53,39 ± 12 (23 - 77), 59 
bệnh nhân nam (73,8%) và 21 bệnh nhân nữ 
(26,2%). Đa số bệnh nhân mang virus viêm gan 
B (92,5%), 15 bệnh nhân có xơ gan (18,8%), 
có 2 bệnh nhân mang virus viêm gan C (2,5%). 
Hầu hết chỉ có 1 tổn thương (85%). 
Kích thước trung bình của các tổn thương 
là 51,17 ± 34,78 mm (6 – 150 mm), trong đó có 
76 tổn thương kích thước ≥ 20mm (81,7%), 15 
tổn thương kích thước từ 10-19mm (16,1%) và 
2 tổn thương kích thước <10mm (2,2%).
2. Đặc điểm kết quả giải phẫu bệnh 
75 tổn thương ác tính (80,6%), bao gồm 
66 tổn thương ung thư biểu mô tế bào gan , 4 
tổn thương ung thư biểu mô đường mật, 4 tổn 
thương ung thư biểu mô thể hỗn hợp tế bào 
gan và đường mật và 1 tổn thương di căn. 
18 tổn thương lành tính gồm 7 tổn thương 
u máu, 5 tổn thương tăng sản thể nốt khu trú, 
1 tổn thương u tuyến tế bào gan, 1 tổn thương 
nang, 1 tổn thương nốt gan tái tạo, 1 tổn thương 
áp xe do kí sinh trùng, 1 tổn thương mô đệm 
giàu xơ và 1 tổn thương viêm mạn tính. 
3. Phân loại LI-RADS đối chiếu với kết quả 
giải phẫu bệnh
Phân loại LI-RADS của 93 tổn thương đối 
chiếu với kết quả giải phẫu bệnh được trình 
bày trong bảng 1. Tất cả tổn thương được 
phân loại LR1 và LR2 đều lành tính. Có 12 tổn 
thương được phân loại LR3, trong đó có 50% 
là lành tính. Trong nhóm phân loại LR4, tổn 
thương ung thư biểu mô tế bào gan chiếm đa 
số (77,8%), ngoài ra còn 2 tổn thương ác tính 
khác và 2 tổn thương lành tính. Phân loại LR5 
có hầu hết các tổn thương là ung thư biểu mô 
tế bào gan (93%), có 1 tổn thương lành tính là 
u tuyến tế bào gan. Các tổn thương LRM chủ 
yếu là tổn thương ác tính khác (80%), chỉ có 1 
tổn thương là ung thư biểu mô tế bào gan. Tất 
cả tổn thương phân loại LRTIV đều là ung thư 
biểu mô tế bào gan.
Tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan trong 
từng nhóm phân loại LI-RADS chính là giá trị 
dự đoán dương tính của từng phân loại trong 
chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan. Từ LR1 
đến LR5 giá trị này tăng dần lần lượt là 0%, 0%, 
41,7%, 77,8% và 93%. Đối với LRM là nhóm 
tổn thương ác tính nhưng không đặc hiệu là 
ung thư biểu mô tế bào gan , giá trị dự đoán 
ung thư biểu mô tế bào gan là 20%. Phân loại 
LRTIV chỉ phản ánh tình trạng có u trong tĩnh 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
112 TCNCYH 126 (2) - 2020
mạch mà không phản ánh bản chất u nên không đánh giá giá trị dự đoán ung thư biểu mô tế bào 
gan của phân loại này.
Bảng 1. Phân loại LI-RADS đối chiếu với kết quả giải phẫu bệnh
LI-RADS
Tổng số 
tổn thương (n)
Giải phẫu bệnh
UTBMTBG Ác tính khác Lành tính
LR1 6 0 0 6 (100%)
LR2 3 0 0 3 (100%)
LR3 12 5 (41,7%) 1 (8,3%) 6 (50%)
LR4 18 14 (77,8%) 2 (11,1%) 2 (11,1%)
LR5 43 40 (93%) 2 (4,7%) 1(2,3%)
LRM 5 1 (20%) 4 (80%) 0
LRTIV 6 6 (100%) 0 0
4. Giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan của phân loại LI-RADS 
Bảng 2. Giá trị phân loại LI-RADS khi tính riêng LR5 trong 
chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan 
LI-RADS
Giải phẫu bệnh
UTBMTBG Không phải UTBMTBG
UTBMTBG (LR5) 40 3
Không phải UTBMTBG 20 24
Nếu chỉ xếp riêng LR5 vào nhóm ung thư biểu mô tế bào gan (Bảng 2), độ nhạy, độ đặc hiệu, giá 
trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính của phân loại LI-RADS trong chẩn đoán ung thư biểu 
mô tế bào gan lần lượt là 66,7%; 88,9%; 93% và 54,5%.
Bảng 3. Giá trị phân loại LI-RADS khi kết hợp LR4 và LR5 trong 
chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan
LI-RADS
Giải phẫu bệnh
UTBMTBG Không phải UTBMTBG
UTBMTBG (LR4+LR5) 54 7
Không phải UTBMTBG 6 20
Nếu xếp cả LR4+LR5 vào nhóm HCC (Bảng 3), độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, 
giá trị dự đoán âm tính của phân loại LI-RADS trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan lần lượt 
là 90%; 74,1%; 88,5% và 76,9%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
113TCNCYH 126 (2) - 2020
 IV. BÀN LUẬN
Bảng phân loại LI-RADS các tổn thương 
gan khu trú ở những bệnh nhân có nguy cơ cao 
của ung thư biểu mô tế bào gan do Hiệp hội 
CĐHA Hoa Kỳ công bố từ năm 2011, sau đó 
được cập nhật qua các năm 2013, 2014, 2017, 
2018 để ngày càng phù hợp và áp dụng phổ 
biến trên toàn thế giới. Giá trị của bảng phân 
loại này là cung cấp một hệ thống phân loại 
chuẩn để chuẩn hóa các kĩ thuật thăm khám 
hình ảnh, thuật ngữ tổn thương gan khu trú, 
giúp cho tất cả các bác sĩ dù ở chuyên khoa lâm 
sàng hay cận lâm sàng cũng có cùng giải thích, 
nhận định về kết quả và có hướng xử trí thống 
nhất, đồng thời dự đoán khả năng tổn thương 
là ung thư biểu mô tế bào gan trên những bệnh 
nhân có nguy cơ cao.3 
Theo LI-RADS 201810, tổn thương LR1 là 
tổn thương chắc chắn lành tính với tỷ lệ ung 
thư biểu mô tế bào gan là 0%, nghiên cứu 
của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự. Các 
nghiên cứu khác cũng đều chỉ ra tổn thương 
LR1 là 100% lành tính và không cần làm thêm 
các phương pháp chẩn đoán khác.5-7 Các tổn 
thương LR2 là tổn thương có khả năng lành 
tính cao với tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan là 
16%,10 tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng 
tôi chỉ có 3 tổn thương LR2 và đều lành tính. 
Điều này tương tự như trong nghiên cứu của 
Ronot⁶ với 61 tổn thương phân loại LR1 và LR2 
đều lành tính. Nghiên cứu của Liu⁵ và cộng sự 
chỉ ra 2/25 (8%) tổn thương LR2 là ung thư biểu 
mô tế bào gan. Darnell⁷ cũng chỉ ra 3/12 (25%) 
tổn thương LR2 là ung thư biểu mô tế bào gan. 
LI-RADS 2018 khuyến cáo các tổn thương LR2 
có khả năng cao là lành tính và cần được theo 
dõi tầm soát định kỳ 6 tháng mà không cần làm 
thêm các phương pháp chẩn đoán khác10. 
Tuy nhiên, tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan 
của nhóm LR2 dao động lớn ( từ 0 - 25%) giữa 
các nghiên cứu, vì vậy chúng tôi cho rằng cần 
làm thêm một số phương pháp khác như xét 
nghiệm chất chỉ điểm ung thư αFP đối với tổn 
thương LR2 để làm giảm khả năng bỏ sót ung 
thư biểu mô tế bào gan.
Choi và cộng sự11 trong một nghiên cứu hồi 
cứu các tổn thương gan khu trú cho thấy chỉ 
6% các tổn thương LR3 là ung thư biểu mô tế 
bào gan và đề nghị chỉ cần theo dõi định kỳ 
đối với các tổn thương này. Ngược lại, trong 
nghiên cứu khác của Darnell7 thì tỷ lệ ung thư 
biểu mô tế bào gan ở nhóm tổn thương LR3 lại 
cao hơn (69%) và tác giả khuyến cáo cần làm 
thêm các phương pháp khác để chẩn đoán ung 
thư biểu mô tế bào gan. Giá trị dự báo dương 
tính trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào 
gan của phân loại LR3 trong nghiên cứu của 
chúng tôi nằm ở giữa hai tỷ lệ này, với 41,7%, 
tương tự với nghiên cứu của Ronot⁶ (41%) và 
ACR10 (37%). Tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan 
thấp của nhóm LR3 trong nghiên cứu của Choi 
có thể là do sai số lựa chọn của thiết kế nghiên 
cứu hồi cứu, đồng thời nghiên cứu này cũng 
không đối chiếu kết quả giải phẫu bệnh làm tiêu 
chuẩn vàng. Nghiên cứu của Darnell có tỷ lệ 
ung thư biểu mô tế bào gan trong nhóm LR3 
cao hơn có thể được lý giải bởi nghiên cứu thực 
hiện trên các bệnh nhân xơ gan có tổn thương 
đã được phát hiện qua sàng lọc bằng siêu âm 
nên khả năng tổn thương là ung thư biểu mô 
tế bào gan sẽ cao hơn so với các tổn thương 
được phát hiện lần đầu. Nhìn chung, với các 
tổn thương LR3 chúng tôi khuyến nghị nên làm 
thêm các phương pháp chẩn đoán khác như 
xét nghiệm αFP, đánh giá mức độ xơ gan bằng 
siêu âm đàn hồi hoặc Fibroscan, chụp cộng 
hưởng từ gan mật có tiêm thuốc đối quang từ 
để chẩn đoán sớm ung thư biểu mô tế bào gan 
cho bệnh nhân.
Tổn thương LR4 có giá trị dự báo ung thư 
biểu mô tế bào gan là 74% theo ACR,10 trong 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
114 TCNCYH 126 (2) - 2020
nghiên cứu của chúng tôi giá trị này là 77,8%. 
Tuy nhiên, nghiên cứu của Ronot6 cũng như 
của Liu và cộng sự⁵ thì tỷ lệ ung thư biểu mô tế 
bào gan trong nhóm LR4 thấp hơn hẳn nghiên 
cứu của chúng tôi, tương ứng là 55% và 64%. 
Điều này có thể là do nhóm bệnh nhân trong các 
nghiên cứu này có tỷ lệ mang virus viêm gan C 
cao (38% và 72%).5,6 Li và cộng sự12 đã chứng 
minh rằng bệnh nhân mang virus viêm gan C có 
xu hướng xuất hiện các nốt xơ gan không điển 
hình với đặc điểm bắt thuốc thì động mạch, dẫn 
đến phân loại tổn thương vào nhóm LI-RADS 
cao hơn. Do đó, tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào 
gan trong nhóm tổn thương LR4 ở các nghiên 
cứu nêu trên thấp hơn. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân mang virus viêm gan 
C chỉ chiếm 2,5% và có 92,5% nhiễm viêm gan 
B. Chúng tôi cho rằng cần có các nghiên cứu 
với cỡ mẫu lớn trong tương lai để xác định sự 
khác biệt về độ đặc hiệu của LR4 trong chẩn 
đoán ung thư biểu mô tế bào gan ở bệnh nhân 
viêm gan virus B và C và sự cần thiết phải chia 
nhỏ phân loại LR4 để có độ dự báo ung thư 
biểu mô tế bào gan chính xác hơn.
Tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan trong nhóm 
tổn thương LR5 là 95% theo ACR.10 Theo các 
nghiên cứu của Liu,⁵ M. Abd13 và Ronot,6 tỷ lệ 
này lần lượt là 97%, 96% và 95%. Nghiên cứu 
của chúng tôi có 40 trong 43 tổn thương LR5 
(93%) là ung thư biểu mô tế bào gan, ngoài ra 
có 2 tổn thương là ung thư biểu mô thể hỗn 
hợp tế bào gan – đường mật và 1 tổn thương 
lành tính là u tuyến tế bào gan. Nhìn chung các 
nghiên cứu đều chỉ ra rằng LR5 có giá trị dự 
báo dương tính cao trên 90% trong chẩn đoán 
ung thư biểu mô tế bào gan.5,6,11,14 Đối với LRM, 
khả năng dự báo ung thư biểu mô tế bào gan 
có sự khác nhau nhiều giữa các nghiên cứu, 
bởi đây là nhóm tổn thương ác tính khác không 
đặc hiệu ung thư biểu mô tế bào gan nên mô 
hình bệnh tật giữa các quần thể nghiên cứu 
khác nhau sẽ dẫn đến tỷ lệ khác nhau. Trong 
nghiên cứu này, tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào 
gan trong nhóm LRM là 20%, thấp hơn nhiều 
so với nghiên cứu của M.Abd13 (50%), hay 
nghiên cứu của Van der pol và công sự14 là 
36%, và gần tương đương với nghiên cứu của 
Liu5 (25%). Các tổn thương ác tính khác nhau 
có các đặc điểm hình ảnh, điều trị và tiên lượng 
khác nhau, do đó việc chẩn đoán chính xác tổn 
thương là điều cần thiết. Vì vậy, chúng tôi cho 
rằng phân loại LI-RADS cần có các đặc điểm 
bổ sung trong các bản cập nhật tiếp theo để 
làm rõ hơn các tổn thương phân loại LRM.
 Phân loại LI-RADS có độ nhạy, độ đặc hiệu, 
giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính 
trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan 
trong nghiên cứu của chúng tôi khi kết hợp cả 
LR4 và LR5 lần lượt là 90%; 74,1%; 88,5% và 
76,9%. Tuy nhiên, nếu chỉ tính riêng LR5 vào 
nhóm ung thư biểu mô tế bào gan thì độ nhạy 
giảm xuống 66,7% nhưng độ đặc hiệu tăng lên 
88,9%. Điều này dễ dàng lý giải bởi các tổn 
thương LR5 gần như chắc chắn là ung thư biểu 
mô tế bào gan nên độ đặc hiệu sẽ tăng lên và 
độ nhạy giảm đi. Theo nghiên cứu của Liu5, khi 
kết hợp LR4 và LR5 vào nhóm ung thư biểu mô 
tế bào gan, LI-RADS có độ nhạy là 93,8%, độ 
đặc hiệu là 88,2%, giá trị dự báo dương tính là 
92,3% và giá trị dự báo âm tính là 90,5%; cao 
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể là 
do nghiên cứu này có số lượng mẫu lớn hơn 
với 297 tổn thương. Một nghiên cứu khác của 
M. Abd13 lại cho thấy độ nhạy của LI-RADS thấp 
hơn nghiên cứu của chúng tôi (72,7% với 90%) 
nhưng độ đặc hiệu cao hơn (90% với 74,1%). 
Sự khác biệt này do nghiên cứu của M. Abd 
thực hiện trên các bệnh nhân có tổn thương 
được phát hiện qua sàng lọc bằng siêu âm nên 
tổn thương có khả năng là ung thư biểu mô tế 
bào gan cao hơn so với tổn thương được phát 
hiện lần đầu như trong nghiên cứu của chúng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
115TCNCYH 126 (2) - 2020
tôi. Nhìn chung, các tác giả đều kết hợp cả LR4 
và LR5 vào nhóm tổn thương ung thư biểu mô 
tế bào gan để làm tăng khả năng chẩn đoán 
sớm cũng như hạn chế bỏ sót tổn thương ung 
thư biểu mô tế bào gan của LI-RADS.8,13,14 
Nghiên cứu của chúng tôi còn có một số 
hạn chế. Một là, nghiên cứu mới chỉ thực hiện 
tại một trung tâm, thời gian nghiên cứu và số 
lượng bệnh nhân chưa đủ lớn. Hai là, kết quả 
mô tả tổn thương và phân loại LI-RADS mới 
được thực hiện bởi một bác sĩ CĐHA, do đó 
chưa có sự đối chiếu so sánh sự khác biệt giữa 
các bác sĩ CĐHA trong mô tả và phân loại tổn 
thương. 
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy phân 
loại LI-RADS 2018 trên cắt lớp vi tính có độ 
nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán tổn 
thương ung thư biểu mô tế bào gan. Việc đánh 
giá các tổn thương gan khu trú theo phân loại 
này có giá trị dự đoán khả năng ung thư biểu 
mô tế bào gan tăng dần từ phân loại LR1 đến 
LR5 ở các bệnh nhân có nguy cơ cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bruix J, Reig M, Rimola J, et al. Clinical 
decision making and research in hepatocellular 
carcinoma: pivotal role of imaging techniques. 
Hepatol Baltim Md. 2011;54(6):2238-2244. 
doi:10.1002/hep.24670
2. Torre LA, Bray F, Siegel RL, Ferlay J, Lortet-
Tieulent J, Jemal A. Global cancer statistics, 
2012. CA Cancer J Clin. 2015;65(2):87-108. 
doi:10.3322/caac.21262
3. Tang A, Singal AG, Mitchell DG, et al. 
Introduction to the Liver Imaging Reporting and 
Data System for Hepatocellular Carcinoma. 
Clin Gastroenterol Hepatol. 2019;17(7):1228-
1238. doi:10.1016/j.cgh.2018.10.014
4. Elsayes KM, Kielar AZ, Chernyak V, et al. 
LI-RADS: a conceptual and historical review 
from its beginning to its recent integration into 
AASLD clinical practice guidance. J Hepatocell 
Carcinoma. 2019;6:49-69. doi:10.2147/JHC.
S186239
5. Liu W, Qin J, Guo R, et al. Accuracy of 
the diagnostic evaluation of hepatocellular 
carcinoma with LI-RADS. Acta Radiol 
Stockh Swed 1987. 2018;59(2):140-146. 
doi:10.1177/0284185117716700
6. Ronot M, Fouque O, Esvan M, Lebigot J, 
Aubé C, Vilgrain V. Comparison of the accuracy 
of AASLD and LI-RADS criteria for the non-
invasive diagnosis of HCC smaller than 3 cm. 
J Hepatol. 2018;68(4):715-723. doi:10.1016/j.
jhep.2017.12.014
7. Darnell A, Forner A, Rimola J, et al. Liver 
Imaging Reporting and Data System with MR 
Imaging: Evaluation in Nodules 20 mm or 
Smaller Detected in Cirrhosis at Screening US. 
Radiology. 2015;275(3):698-707. doi:10.1148/
radiol.15141132
8. Ludwig DR, Fraum TJ, Cannella R, et al. 
Hepatocellular carcinoma (HCC) versus non-
HCC: accuracy and reliability of Liver Imaging 
Reporting and Data System v2018. Abdom 
Radiol. February 2019. doi:10.1007/s00261-
019-01948-x
9. American College of Radiology. CT/MRI 
LI-RADS v2018. https://www.acr.org/Clinical-
Resources/Reporting-and-Data-Systems/LI-
RADS/CT-MRI-LI-RADS-v2018. Published July 
2018. Accessed April 1, 2020.
10. American College of Radiology. Liver 
imaging reporting and data system version 
2018. https://www.acr.org/Clinical-Resources/
Report ing-and-Data-Systems/LI-RADS. 
Published July 2018. Accessed March 17, 2020.
11. Choi J-Y, Cho HC, Sun M, Kim HC, Sirlin 
CB. Indeterminate observations (liver imaging 
reporting and data system category 3) on MRI in 
the cirrhotic liver: fate and clinical implications. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
116 TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
VALUES OF LI-RADS WITH COMPUTED TOMOGRAPHIC 
IMAGING IN THE DIAGNOSIS OF HEPATOCELLULAR 
CARCINOMA
Purpose: This study aims to evaluate the value of LI-RADS 2018 with computed tomographic 
(CT) imaging in the diagnosis of hepatocellular carcinoma (HCC). Material and Methods: The 
prospective study was conducted on 80 patients with 93 lesions detected on 64-slice CT imaging 
at the Viet Duc Hospital from May 2019 to February 2020. On imaging, the lesions were described 
and classified in terms of LI-RADS 2018, then compared with the histopathology findings. The 
positive predictive values of each LI-RADS category and the sensitivity, specificity, positive and 
negative predictive values of LI-RADS in the diagnosis of HCC were calculated. Results: 93 
lesions consisted of 75 malignant and 18 benign lesions. The positive predictive values of each 
LI-RADS categories from LR1 to LR5 and LRM were 0%; 0%; 41.7%; 77.8%; 93% and 20%, 
respectively. The sensitivity, specificity, positive and negative predictive values of LI-RADS when 
considering only the lesions classified as LR5 were 66.7%; 88.9%; 93% và 54.5%, respectively. For 
the combination of LR4 and LR5 lesions, these measures were 90%, 71.4%, 88.5%, and 76.9%, 
respectively. Conclusion: LI-RADS 2018 with CT imaging showed high values for HCC diagnosis. 
Keywords: Liver, hepatocellular carcinoma, chronic liver disease, LI-RADS
AJR Am J Roentgenol. 2013;201(5):993-1001. 
doi:10.2214/AJR.12.10007
12. Li Q, Li H, Qin Y, Wang PP, Hao X. 
Comparison of surgical outcomes for small 
hepatocellular carcinoma in patients with 
hepatitis B versus hepatitis C: A Chinese 
experience. J Gastroenterol Hepatol. 
2007;22(11):1936-1941. doi:10.1111/j.1440-
1746.2006.04619.x
13. Abd Alkhalik Basha M, Abd El Aziz El 
Sammak D, El Sammak AA. Diagnostic efficacy 
of the Liver Imaging-Reporting and Data System 
(LI-RADS) with CT imaging in categorising small 
nodules (10–20 mm) detected in the cirrhotic 
liver at screening ultrasound. Clin Radiol. 
2017;72(10):901.e1-901.e11. doi:10.1016/j.
crad.2017.05.019
14. Van der Pol CB, Lim CS, Sirlin CB, et al. 
Accuracy of the Liver Imaging Reporting and Data 
System in Computed Tomography and Magnetic 
Resonance Image Analysis of Hepatocellular 
Carcinoma or Overall Malignancy-A Systematic 
Review. Gastroenterology. 2019;156(4):976-
986. doi:10.1053/j.gastro.2018.11.020

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_phan_loai_li_rads_tren_cat_lop_vi_tinh_trong_chan_do.pdf