Giá trị nội dung của kịch bản tuồng Nam bộ trước 1945
Đã tồn tại ở Nam Bộ từ lâu đời, trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn trong nhiều thế kỷ, để lại hàng
chục kịch bản có giá trị văn chương, nhưng tuồng đang dần dần mất vị thế của mình bởi nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nghiên cứu những giá trị nội dung của kịch bản tuồng sẽ
góp phần giúp chúng ta cảm nhận được cái hay, cái đẹp để hiểu và quan tâm hơn về loại hình nghệ
thuật này. Giá trị nội dung của tuồng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tuy vậy các tác giả
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tuồng Việt Nam nói chung hoặc là nghiên cứu cụ thể ở một số tác
phẩm như Kim Thạch kỳ duyên, Sơn hậu Các nhà nghiên cứu chưa tập trung khai thác những vấn
đề của kịch bản tuồng ở Nam Bộ một cách khái quát. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi muốn có
một cái nhìn tổng quan về những giá trị về nội dung của tuồng ở khu vực này. Giá trị nội dung của
kịch bản Tuồng Nam Bộ trước 1945 được chúng tôi phân chia thành ba nhóm như sau: Đề cao giá
trị trung, hiếu, tiết, nghĩa; Phê phán đạo đức suy thoái trong xã hội; Ca ngợi tình yêu thủy chung
trong thời loạn lạc. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt tư liệu cho nên chúng tôi chỉ nghiên cứu
khái quát nội dung của tuồng dựa trên những văn bản tuồng hiện còn vì vậy bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị nội dung của kịch bản tuồng Nam bộ trước 1945

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(1):261-268 Open Access Full Text Article Bài Tổng quan Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM Liên hệ Nguyễn Thị Huyền Trang, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM Email: trangnguyen.hsht@gmail.com Lịch sử Ngày nhận: 17/12/2019 Ngày chấp nhận: 18/02/2020 Ngày đăng: 31/3/2020 DOI : 10.32508/stdjssh.v4i1.537 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Giá trị nội dung của kịch bản tuồng Nam bộ trước 1945 Nguyễn Thị Huyền Trang* Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Đã tồn tại ở Nam Bộ từ lâu đời, trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn trong nhiều thế kỷ, để lại hàng chục kịch bản có giá trị văn chương, nhưng tuồng đang dần dần mất vị thế của mình bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nghiên cứu những giá trị nội dung của kịch bản tuồng sẽ góp phần giúp chúng ta cảmnhận được cái hay, cái đẹp để hiểu và quan tâmhơn về loại hình nghệ thuật này. Giá trị nội dung của tuồng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tuy vậy các tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tuồng Việt Nam nói chung hoặc là nghiên cứu cụ thể ở một số tác phẩm như KimThạch kỳ duyên, Sơn hậuCác nhà nghiên cứu chưa tập trung khai thác những vấn đề của kịch bản tuồng ở Nam Bộ một cách khái quát. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi muốn có một cái nhìn tổng quan về những giá trị về nội dung của tuồng ở khu vực này. Giá trị nội dung của kịch bản Tuồng Nam Bộ trước 1945 được chúng tôi phân chia thành ba nhóm như sau: Đề cao giá trị trung, hiếu, tiết, nghĩa; Phê phán đạo đức suy thoái trong xã hội; Ca ngợi tình yêu thủy chung trong thời loạn lạc. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt tư liệu cho nên chúng tôi chỉ nghiên cứu khái quát nội dung của tuồng dựa trên những văn bản tuồng hiện còn vì vậy bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Từ khoá: tuồng, tuồng Nam Bộ, nội dung tuồng, kịch bản tuồng ĐẶT VẤNĐỀ Tuồng đã tồn tại hàng trăm năm ở vùng đất Nam Bộ, trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn, với nhiều kịch bản có giá trị, tuy nhiên việc nghiên cứu về nó vẫn còn bị bỏ ngõ. Vì vậy, trong bài viết ngắn này, chúng tôi tập trung đi vào nghiên cứu những cái hay, cái đẹp về nội dung của kịch bản tuồng, giúp chúng ta có cơ hội đưa kho tàng kịch bản Nam bộ đến với người đọc để họ hiểu hơn về những giá trị của nó. Đã có nhiều ý kiến quan tâm, đánh giá về nội dung của tuồng. Xuân Yến cho rằng “tuồng tập trung vào hai đề tài chủ yếu là đề tài quân quốc và đề tài thế sự” [ 1, tr.9]; Nguyễn Lộc nhận định tuồng đề cao đạo lý trung quân, đề cao chữ hiếu, đề cao “những người mẹ già cả yêu con rất mực, sẵn sàng hy sinh thân mình để cho con hoàn thành việc lớn” [ 2, tr.598] và “Tuồng thế kỷ XVIII không thuần túy trang nghiêm, mà thường xen những màn có tính chất hài hước, gây cười. Nội dung của những màn này cũng góp phần vạch trần cái xấu của bọn gian nịnh và đề cao cái tốt, cái chính nghĩa....” [2, tr.599]; Hoàng Châu Ký, Xuân Yến và Bùi Duy Tân viết “nội dung đi vào đề tài quân quốc”, “trung quân là ái quốc”, “tư tưởng chủ đề quán xuyến toàn bộ các vở tuồng này là “phò vua diệt nịnh” [ 3, tr.10]; Đinh Bằng Phi viết: “hát bội ra đời giữa lúc Nho giáo đang thời thịnh đạt, lại được các triều vua trực tiếp chăm sóc, nên cốt truyện có khuynh hướng phụng sự thuyết tôn quân của Nho giáo” [4, tr.32]; Hữu Ngọc & Lady Borton cho rằng “đề cao đạo đức Khổng giáo; chính trực, công bằng, hiếu nghĩa, và trung với vua. Lòng trung quân - hết lòng vì vua và trừng phạt bọn phản loạn” [5, tr.20-21]. Ngoài ra, các tác giả còn cho rằng tuồng còn có “một dạng khác có từ thế kỷ 19 là tuồng đồ, phổ thông hơn và gần với hài kịch hơn. Nó khai thác những thói hư tật xấu của tầng lớp thượng lưu và chế giễu sự trung thực đáng ngờ của những kẻ quyền thế” [5, tr.24]. Qua đó, chúng ta thấy đa phần các nhà nghiên cứu cho rằng nội dung tuồng chủ yếu tập trung vào vấn đề trung quân, ái quốc theo tư tưởng Nho gia và các vấn đề thế sự, khai thác những thói hư tật xấu của nhiều tầng lớp người để từ đó nêu ra những bài học đạo lý làm người trong xã hội. Từ những ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, dựa vào nội dung của chính các văn bản tuồng Nam bộ hiện còn, chúng tôi nhận thấy, nội dung của nó chủ yếu thể hiện qua ba chủ đề như sau: • Đề cao giá trị trung, hiếu, tiết, nghĩa • Đề cập đến các vấn đề thế sự, sự suy thoái đạo đức của nhiều tầng lớp người trong xã hội, nêu ra những bài học làm người; • Ca ngợi vẻ đẹp tình yêu thủy chung của một số nhân vật trong tuồng. Trích dẫn bài báo này: Trang N T H.Giá trị nội dung của kịch bản tuồngNambộ trước 1945. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(1):261-268. 261 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(1):261-268 NỘI DUNG Đề cao giá trị trung, hiếu, tiết Xã hội phong kiến là một xã hội đầy rẫy xung đột, mâu thuẫn, biến động, phức tạp với các cuộc chiến giữa các vương triều phong kiến và những cuộc tranh giành quyền lực, lật đổ của các phe cánh trong chính nội bộ của vương triều phong kiến. Nhiều tác phẩm tuồng quốc sự tập trung khai thác các sự kiện liên quan đến chiến tranh có thể kể đến Kim Long Xích Phụng, Long Lân Quy Phụng, Nhạc Hoa Linh, Đinh Lưu Tú,Võ Thành Lân,Phong thần Bá Ấp Khảo, Lục Văn Long, Tống TừMinh. Không chỉ khai thác những cuộc chiến tranh giữa các vương triềumà xã hội trong tuồng còn là xã hội của các cuộc tranh giành, âmmưu lật đổ, chém giết, truy đuổi giữa chính các phe phái trong triều đình, giữa những vị quan trung thần và thế lực muốn bảo vệ dòng dõi vua chính thống với những thế lực phản động, âm mưu tiếm ngôi như trong các vở San hậu, Lý Thiên Luông, Kim Long Xích Phụng, Long Lân Quy Phụng, Nhạc Hoa Linh, Đinh Lưu Tú, VõThànhLân,KimThạch kỳ duyênTuynhiên, cũng có tác phẩm nói về cuộc khởi nghĩa nông dân như Lê Ngụy Khôi truyện. Thông qua những vấn đề xã hội đó, tác giả tuồng muốn làm nổi bật lên những hình mẫu lý tưởng về trung, hiếu, tiết, nghĩa. Mỗi một nhân vật trong các tác phẩm tuồng trở thành hình mẫu lý tưởng cho tư tưởng đạo đức Nho gia, được các vua chúa nhà Nguyễn dùng nhằm phục vụ cho mục đích giáo huấn của mình nên đề tài của tuồng thường được viết theo khuynh hướng ca ngợi triều đình phong kiến, tôn vinh những người anh hùng chiến đấu hi sinh vì vương triều. Nhân vật trong các vở tuồng phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nhờ lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và tài giỏi cuối cùng họ trở về trong chiến thắng. Chính vì vậy, nhân vật kép chính trong tuồng thườngđược khắc họa với hình ảnh một chàng trai con nhà trung lưu, tài giỏi, từ giã cha mẹ hay thầy lên đường đi thi, đỗ đạt và phụng sự cho triều đình. Tư tưởng trung quân có lẽ được thể hiện rõ nhất trong vở tuồng Sơn hậu, thái độ và hành động của của các nhân vật được tác giả miêu tả rõ nét, đi sâu hơn các vở tuồng khác, trở thành vở tuồng mẫu mực cho những vở viết về vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa. Vì trung với vua, căm ghét TạThiên Lăng phản nghịch, bày yến tiệc khi vua không còn khỏe, Triệu Khắc Thường đã khảng khái giảng dạy đạo vua tôi cho hắn, chấp nhận cái chết. Phàn Định Công mấy lần thổ huyết vẫn không chịu dừng binh, “nguyện bắt sống nhai gan” kẻ phản nghịch. Khương Linh Tá bị Tạ Ôn Đình chém đứt đầu, vẫn xách đầu chiến đấu tiếp, khiến choTạÔnĐình thất kinh, sởn gai ốc. KhiĐổng Kim Lân bị lạc đường, hồn Khương Linh Tá hiện dẫn đường cho bạn. Đổng Mẫu bị Tạ Ôn Đình bắt, cận kề trước cái chết nhưng bà vẫn bình tĩnh, phân tích đạo trung, đạo hiếu cho con. Các nhân vật trong tuồng không chỉ là hình mẫu lý tưởng cho chữ “trung” mà ở họ còn là những tấm gương sáng ngời cho tấm lòng hiếu thuận với cha mẹ. Nhiều nhân vật tuồng cổ sẵn sàng hi sinh thân mình vì chữ “hiếu” như Bá ẤpKhảo trong Phong thần Bá Ấp Khảo, khi Văn Vương (cha Bá Ấp Khảo), bị Trụ Vương bắt giam tại ngục Dữu Lý, chàng quyết từ bỏ vương triều cho các em, tìm đến triều đình Trụ Vương, xin chuộc tội cho cha, Bá Ấp Khảo đã phải trả giá bằng cả tínhmạng củamình. Nhân vật KimNgọc, VôHà,ThạchHữuQuang (KimThạch kỳ duyên) cũng là những nhân vật đã thể hiện vẹn toàn chữ hiếu, họ sẵn sàng hi sinhmình để cứu chamẹ thoát nạn. Thạch Vô Hà nữ nhi liễu yếu đào tơ bán thân mình làm con ở để lấy tiền chuộc cha. Thạch Hữu Quang tìm đủ mọi cách để chuộc cha ra khỏi vòng lao lý mà quên cả bản thân. Lòng hiếu thảo còn được tác giả của tác phẩm Lâm Sanh Xuân Nương biểu hiện qua nhân vật Xuân Nương, Lâm Sanh. Lâm Sanh tuy biết mẹ làm sai khi giết vợmìnhnhưng vì luônnghĩ đến việcmẹđã một thân nuôimình khôn, nay phải nhận án tử, chàng sẵn sàng thế mạng cho người mẹ già, mạo hiểm cướp pháp trường để cứu mẹ. Tình cảm của chàng đã làm thay đổi trái tim vốn dĩ độc ác, tham lam, lạnh lùng của ngườimẹ. Tuymẹ chàng xứng đáng phải nhận cái chết nhưng khi nghe những câu than thở, khóc lóc của chàng, người đọc không khỏi ngậm ngùi thương xót cho hoàn cảnh của Lâm Sanh. Nhân vật Đổng Kim Lân trong Sơn hậu, vốn là một anh hùng dũng cảm, không sợ cái chết, hùng dũng, uy nghi trước kẻ thù, sẵn sàng nhận cái chết vì sự nghiệp phục quốc nhưng khi nhìn thấy mẹ cận kề với cái chết, nước mắt dâng trào, mất nhuệ khí chiến đấu. Bên cạnh đó, tuồng cũng dành nhiều sự quan tâm đến các nhân vật nữ. Họ không chỉ dũng cảm trên chiến trường mà còn có những phẩm chất cao quý, luôn giữ tấm lòng trinh tiết, thủy chung vẹn toàn. Có thể nói đỉnh cao của chữ tiết được Bùi Hữu Nghĩa biểu hiện trong vở Kim Thạch kỳ duyên, thông qua nhân vật Giải Thị, là đáng bàn nhất. Giải Thị cùng chồng là Tiết Đình Quý đi thăm thú để biết đời sống của nhân dân, chẳngmay gặp tên cướp hung hãn Tiêu Hóa Long. Tên cướp này giết chết chồng nàng, khiến trái timnàng như vỡ ra hàng trămmảnh “Chung thiên bão hận!/ Phủ địa trường hô!/ Khởi khả sự nhị phu?/ Quyết tự nương nhất tử!” (Cho đến ngày tận thế ta ôm mãi mối hận này, cúi đầu úp mặt xuống đất, ta kêu một tiếng cho dài, có thể nào ta thờ hai chồng 262 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(1):261-268 cho được, ta quyết cam đànhmột chết) [ 6, tr.51]. Tìm đến cái chết nhưng bị Tiêu Hóa Long ngăn cản, nàng đau đớn, khóc than thảm thiết: “Thề hẹn ấy nước non khôn cải/ Gian nan này trời đất có hay?/ Lá sương, chi quản tấm thân này/ Hột huyết cònmang hònmáu đó/ Như ta: Ngộ biến đã mang lấy hổ/ Tùng quyền còn kể chi mình/ Lấp cơn sầu, hồn dõi dòng xanh,/ Lau giọt thảm, máu rơi nước bích/ Giọt thảm máu rơi nước bích/ Thương phận mình giá sạch ra nhơ./ Dây oan khéo vấn sờ sờ,/ Vì ai chẳng trọn một thờ với ai?/ Gặp khi sóng gió giữa vời,/ Thương vì khí huyết đổi dời non sông [ 6, tr.52]. Nhưng rồi, nghĩ đến đứa con trong bụng, nàng đành đau đớn chấp nhận làm vợ của kẻ đã giết chồng mình. Được Tiêu Hóa Long tin tưởng, hết mực tin yêu nhưng chưa bao giờ nàng nguôi nỗi nhớ chồng và không bao giờ tha thứ cho sự thất tiết của mình. Mấy chục năm sau khi trả được mối thù cho chồng, là lúc được hưởng vinh hoa, phú quý cùng con nhưng nàng lại từ chối, tìm đến cái chết để linh hồn được đến với chồng, “giải oan” cho sự thất tiết mấy chục năm qua. Bên cạnh nhân vật Giải Thị còn có nhiều nhân vật khác như ThạchVôHà (KimThạch kỳ duyên), Ngọc Xuân (Đinh Lưu Tú), Kiều Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên)... cũng là những đại diện tiêu biểu cho hình ảnh những người phụ nữ nết na, chung thủy, tận tụy với người mình yêu. Họ còn là những trang liệt nữ anh hùng, luôn sẵn sàng cùng chồng chiến đấu, bỏ cả vương quốc để về quê hương chồng, cùng chồng dẹp loạn như Nữ chúaThiên Nhiên (Nhạc Hoa Linh) Nhân vật trong tuồng không chỉ có trung, có hiếu, mà còn có tình. Đó là tình bạn, tình thầy trò, tình giữa người và người. Đổng Kim Lân, Khương Linh Tá muôn đời vẫn là hình ảnh của một tình bạn lý tưởng, vào sinh ra tử, hoạn nạn có nhau. Khi đối mặt với Tạ Thiên Lăng, mặc dù biết nguy hiểm nhưng Khương Linh Tá vẫn khuyên Kim Lân đưa Thứ phi và Hoàng tử chạy trốn, để một mình Linh Tá ở lại. Mặc cho Kim Lân ngăn cản Khương Linh Tá vẫn khảng khái: “Chết mà ngại a?/ Sức này dù sua gã./ Theo anh cũng xa đường./ Miếu trung thần còn tạc nhường gương,/ Dù sống thác theo cùng nhà gã” [7, tr.192]. Linh Tá chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, khi kiệt sức ông bị Ôn Đình chém đứt đầu, nhưng vẫn không chịu thua, ông hốt máumình vãi vàomặt của kẻ thù, ba lần chắp tay chạy theo bạn. Rồi trong đêm tối, Kim Lân bị lạc giữa khu rừng rậm, bốn bề giặc bủa vây, Linh Tá hiện hồn lên làm đuốc dẫn đường cho Kim Lân qua khỏi nơi nguy hiểm. Người đọc xúc động với hình ảnh một Đinh Lưu Tú khóc than, cho người tìm kiếm ngày đêm khi bạn thânHắc Lâm rơi xuống sông trong vở tuồng Đinh Lưu Tú. Nghĩa tình trong vở tuồng KimThạch kỳ duyên đã giúp con người vượt qua mọi khó khăn của cuộc sống. Đó là nghĩa thầy trò giữa Lý Thiệu Cơ và Thạch Hữu Quang. Lý Thiệu Cơ không có quan hệ ruột rà gì với Thạch Đạo Toàn nhưng khi biết cha của học trò Hữu Quang gặp nạn, ông đã ra sức giúp đỡ, đưa cho học trò 10 lượng trong khi gia cảnh của mình cũng túng quẫn. Dũ Đức, một kẻ đầy tớ thấy Kim Ngọc gặp nạn đã tìm mọi cách để cứu sống chủ của mình, mặc bao gian nan, vất vả. Tình cảm của Kim Tố Thành với Ngạn Yêm (Kim Thạch kỳ duyên), thể hiện một tình bạn chân thành, khăng khít. Kim Tố Thành vì nghĩa tình bạn bè với Ngạn Yêmmàkhông chêKimNgọc bị bệnh phongngược lại còn động viên Kim Ngọc ở lại và đứng ra lo việc hôn sự cho Kim Ngọc. Bao trùm lên vở tuồng KimThạch kỳ duyên là nghĩa tình giữa người và người, Giải Thị khi thấy Ngạn Yêm gặp nạn đã ra tay cứu giúp, Vô Hà không quên ơn của vợ chồng Lâm Vượng, chấp nhận nhường chồng cho chủ cũ củamình, phụng dưỡng vợ chồng Lâm Vượng khi gặp khó khăn. Tuy nhiên, để xây dựng những nhân vật hoàn hảo, các tác giả tuồng luôn đặt nhân vật vào những hoàn cảnh đau khổ, trớ trêu. Những cuộc chiến tranh liên miên hết năm này qua năm khác đã khiến bao gia đình phải chịu cảnh chia ly, con xa cha mẹ, chồng xa vợ, cha xa con không phải chỉ một ngàymà từ năm này qua năm khác như chàng ChâuNgọc Long trong Long LânQuy Phụng, Nhạc Hoa Linh, Tống Lục Văn Long. Tống Văn Long là tiêu biểu cho bi kịch của những người dũng cảm đã hi sinh vì chữ “trung”. Tào Ninh và Lục Văn Long, vốn là gốc nhà Tống nhưng cha của Tào Ninh, một kẻ phản bội nhà Tống theo nhà Phiên. Lớn lên, Tào Ninh hết sức, hết lòng trung thành, phục vụ cho nhà Phiên nhưng khi biết sự thật Tào Ninh đã đau khổ, xót xa không ngờ cha mình là một người “bán nước cầu vinh”, nhận lộc nước nhưng không biết đền ơn. Tào Ninh giết cha để giữ chữ trung, và tự vẫn để giữ chữ hiếu. Còn Lục Văn Long vốn là con trai của Lục Đăng, một tướng tài của nhà Tống bị Ngột Truật giết, khi đó Văn Long mới lên ba. Văn Long bị Ngột Truật bắt về nước Phiên, nuôi dưỡng, lớn lên trở thành người thân tín của nhà vua, là tướng tài ba, trung thành của chính kẻ đã giết cha mình. Bi kịch xảy ra khi chàng biết sự thật, kẻ giết cha mình lại nuôi dưỡngmình, đượ ... bói láo thiên láo địa”; Trần Bồ - tên phú hộ “già tham gái má hồng”, mơ “cưới một gái non non, kiếm chút con muộn muộn”, “đầu đã phơi tóc bạc, dạ còn chứng máu dê” trong tác phẩm Trần Bồ; đó là nhân vật Thằng Lãnh - một tên bán heo, giả làm thần thánh để lừa tình một cô gái đẹp trongThằng Lãnh bán heo; một bà mẹ chồng giết con dâu rồi hối lộ quan phủmong tránh tội trong Lâm Sanh Xuân Nương từ quan Lợi Đồ, thôn trưởng chính, trưởng ấp đến những tên lại mục, tay sai gác cổng trong Kim Thạch kỳ duyên. Ngay cả bọn lâu la của chúng cũng thừa cơ vơ vét, bắt nạt dân nghèo, “ai muốn gửi vào ra/ Ta kiếm chơi nhiều ít” [6, tr.207]. Nhà chùa là nơi tập trung những người có tấm lòng thanh cao, nhân hậu, biết giúp đỡ người khác ấy vậy mà trong tác phẩm tuồng KimThạch kỳ duyên lại đầy rẫy những kẻ biến chất. Họ tàn nhẫn từ chối giúp đỡ Kim Ngọc với những lời chua chát “Thằng kia! Mi đem đi đâu thì đem/ Cái thằng làm sao/ Đã đem bỏ thây ma/ Khéo kiếm lời nói quỷ” [ 6, tr.87]. Nhân vật Đạo Chuối: “Sớm lân la CáiMuối/ Chiều thơ thẩn Gò Dưa/ Nhớ Bến Nghé ngày xưa/ Thèm thịt trâu nhiểu dãi” [6, tr.98] hay tên Đạo Oản: “Bớ chú Chuối! khéo đánh phách làm người bộ giỏi,/ Chẳng xét thân như chuối chín cây/ Như anh em ta: cũng một đoàn trốn thuế, làm thầy/ Không biết phận lại ngồi nói tướng/ Phải không kiên nghiệp chướng/ Đéo hỏa thử! Tao: Toan nhất thiết cúng dường [ 6, tr.99-100]. Còn hòa thượng Hư Vô: “Nương cửa Phật, dối màu tăng,/Lần chuỗi bồ đề dễ kiếm ăn./ Đôi mắt lim dim, lòng tưởng nhớ,/ Mở kinh thí thực tụng lăng nhăng [ 6, tr.100]. Hay trong vở tuồng Trương Ngáo, tác giả khắc họa nhân vật TrươngNgáo để phê phán, chế giễu nhà chùa lợi dụng Phật, lợi dụng những kẻ ngốc, không biết phân biệt để thu của thập phương, đồng thời đả kích tâm lýmộ đạo vì lợi củamột bộ phận dân chúng. Một vị hòa thượng đáng ra sẽ ăn nói đàng hoàng, lịch sự thì lại dùng những từ coi thường như “thằng ở đâu rất chướng./Nó giống đứa điên khùng. Nó đà lui khỏi am tiềm, Ta kíp sắm sửa vô mà thỉnh Phật” [9, tr.28]. Trong quan niệm của Nho giáo, người phụ nữ phải giữ trọn đạo Tam tòng, Tứ đức, bổn phận và trách nhiệm của người phụ nữ được Nho giáo nhấn mạnh là “phu xướng phụ tùy”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, phải theo chồng, ứng xử với chồng phải “tương kính như tân”. Trong văn học tuồng Nam bộ cũng không hiếm nhân vật nữ lấy tiết hạnh làm đầu, thế nhưng trong tuồng Nam bộ hình ảnhngười phụnữhiện lên còn là những bàChánhhậu xấu xa độc ác. Haymột bà Bồ ghen tuông, la hét, đánh người và một Liễu Cơ thích làm vợ lẽ (Trần Bồ), một Ba Bành chê chồng, đánh chồng, cướp chồng người, đánh bài đánh bạc cho khuynh gia bại sản. Tiêu biểu cho sự suy thoái đạo đức của người phụ nữ được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm KimThạch kỳ duyên. Bùi Hữu Nghĩa đã xây dựng một ả Ái Châu bội ước, bài bạc, âmmưu cướp chồng người, làm đĩ. Ngay cả, tình hiếu tử là thứ tình cảm thêng liêng đáng trân trọng nhất thì ả lại dẫmđạp lên chínhngười đã sinh ramình, khinh thường cha mẹ nghèo không xứng đáng vào cổng nhà giàu như mình. Những mâu thuẫn, tranh giành vị trí trong chính các bà vợ của các vua quan đã cho thấy một một xã hội lộn xộn, không có thứ bậc, quy cũ đã trở thành hiện 265 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(1):261-268 tượng phổ biến thời bấy giờ từ cung vua tới phủ chúa và quan lại. Trong cung vua các chánh hậu ra sức củng cố phe phái, tiêu diệt các thứ hậu đangmang thai hay các hoàng tử nhỏ, gây ra những cuộc tranh giành, đấu đá hàng chục năm trời như trong Sơn hậu, Đinh Lưu Tú, Nhạc Hoa Linh, Kim Long Xích Phụng Bên trong nhà quan Lợi Đồ (Kim Thạch kỳ duyên), hình ảnh hai bà vợ ăn chơi, ghen ghét lẫn nhau được Bùi Hữu Nghĩa miêu tả khá rõ. Tất cả những hình ảnh trên là dấu hiệu cho thấy sự suy đồi, xuống cấp của các giá trị đạo đức trong xã hội, các chuẩn mực đạo đức của Nho gia, của chế độ phong kiến đang dần dần bị tan rã thay vào đó là một xã hội với đầy rẫy những thị phi, tính toán, chém giết, đĩ điếm, cướpbóc. Xã hội trong tuồngđã bắt đầuđược hiện thực hóa thay cho mô hình hóa theo kiểu trung, hiếu, tiết, nghĩa như trong nhiều vở tuồng quân quốc. Cangợi tình yêu thủy chung trong thời loạn lạc Kịch bản tuồng Nam bộ, còn đề cao những chuyện tình yêu đa sắc màu, không theo một motif, không cần “môn đăng hộ đối”, vượt qua mọi khoảng cách không gian, thời gian để sống hạnh phúc với nhau. Đó là câu chuyện tình đầy nhân duyên, lãngmạn giữa một chàng trai tài hoa Đinh Lưu Tú với Ngọc Xuân. Mối lương duyên giữa KimNgọc vàThạchVôHà, đến với nhau không phải vì tình yêu mà do hoàn cảnh ép buộc, theo kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, chấp nhận lấy một kẻ bệnh tật để gánh nạn thay cho chủ nhưng kết quả của mối lương duyên lại là một tình yêu đẹp, lãng mạn. Vô Hà biết Kim Ngọc mang bạo bệnh, nàng không những không xa lánh hắt hủi, mà còn cùng cha chữa trị cho chồng. KimNgọc đỗ Trạng Nguyên, gặp nhiều cám dỗ vẫn một mực chung tình với nàng Vô Hà thùy mị, nết na. Bên cạnh mối lương duyên theo sự sắp đặt của Kim Ngọc và Vô Hà, còn là mối tình của những cô gái tiểu thư nhà giàu nhưng đi ngược lại với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, đại diện tiêu biểu có thể kể đến như Phùng Lan Hương (Long Lân Quy Phụng) hay XuânNgọc (Tống TừMinh). Phùng LanHương là con gái của Thái sư Phùng Ngộ, một vị quan có chức sắc trong triều, gia đình danh giá, đến tuổi kén chồng nàng gieo tú cầu để tìm chồng. Trái tú cầu rơi trúng Châu Ngọc Long, một chàng học trò nghèo. Thái sư Phùng Ngộ ra sức ngăn cản nhưng Lan Hương vẫn không nghe lời, coi đó là mối lương duyên của mình và quyết lấy cho bằng được chàng thư sinh nghèo. Nàng XuânNgọc trongTống TừMinh tương tư chàng người ở nghèo Tống Từ Huệ đến sinh bệnh, không được cha mẹ đồng ý nhưng cũng quyết lấy cho bằng được. Chuyện tình yêu trong tuồng còn được các tác giả thể hiện ở những mối tình vượt qua mọi khoảng cách thời gian, không gian, vượt qua mọi giới hạn của sự hận thù để đến với nhau. Tình yêu của họ không chỉ là tình yêu của những người giàu với người nghèo mà còn là tình yêu của những người ở hai đầu chiến tuyến, họ là kẻ thù của nhau, nể tài nhau mà yêu nhau. Tình yêu của họ không chỉ hóa giải hận thù mà còn hỗ trợ nhau để chống lại những thế lực đen tối, âm mưu tiếm ngôi, cùng nhau vượt qua mọi thử thách, mọi nguy biến. Chúa quốc Thiên Nhiên cảm tài Trạng nguyên Tư Trực, đã đem lòng yêu mến. Để được sánh duyên với chàng,Thiên Nhiên choThái nữ nêu ba điều có lợi cho cả hai nước khi Tư Trực chịu kết duyên cùng. Biết rõ tấm lòng của Thiên Nhiên, Tư Trực đã nhận lời. Từ đó, quan hệ bang giao hai nước ngày càng tốt đẹp. Khi nhận được thư của Nhạc Hoa Linh báo mọi chuyện trong nước, Tư Trực buồn. Thương chồng, Thiên Nhiên giao quyền lại cho em là ThiênThặng rồi cùng TưTrực về nướcHàn, giải quyết êm xuôi mọi chuyện. Câu chuyện tình yêu giữa Võ Châu Long với công chúa nước Phiên, Xuân Hương (Võ Thành Lân), cũng là một điển hình cho tình yêu giữa những người ở hai đầu chiến tuyến. Trong số các câu chuyện tình yêu của tuồng Nam bộ, chuyện tình nàng Xuân Nương và chàng Lâm Sanh là câu chuyện tình đầy sóng gió và đau khổ nhất, thậm chí phải mất cả tính mạng của mình. Vì mẹ của Lâm Sanh tham vinh hoa, phú quý nên ép chàng học hành thi cử không được gặp vợ, khiến cho đôi vợ chồng trẻ như cá với chim, gần nhaumàphải xa cách đằng đẵng: “Đêm năm canh dựa màn bướm chực phòng không,/ Còn, ngày sáu khắc luống tin ong ngơ mùi lạnh” [ 10, tr.7]. Tình yêu của họ bị chia cắt, Lâm Sanh lên đường vào kinh để thi, chàng đậu Trạng nguyên, rồi vì cứu mẹ bị giam trong ngục, để lấy công chuộc tội chàng phải ra chiến trường. Đất nước hòa bình, nhà vua muốn gả công chúa cho chàng nhưng vì tình yêu với Xuân Nương chàng đã từ chối: “Dạ, cúi tâu qua lịnh thánh,/ Cho tỏ dạ ngu thần./ Trước kết duyên Xuân thị châu trần,/ Vì cai mẫu hiền thê tử hĩ” [10, tr.75] . Nhà vua hiểu rõ được tấm lòng chung tình của chàng nên thuyết phục chàng: “Phò mã nghe trẫm phán/ Xuân Nương trước Xuân Nương là chị,/ Còn như, công chúa sau công chúa ấy em./ Có hề chi phò mã phòng ngại” [10, tr. 75]. Rõ ràng qua đó chúng ta thấy nghĩa tình của chàng dành cho vợ thật sâu nặng, trong lòng chàng tình yêu dành cho Xuân Nương không có gì có thể thay thế được. Vinh hoa phú quý không làm chàng quên được người vợ thửa xưa. Trên đường về quê, chàng gặp lại nhạc phụ và nhạc mẫu, nhớ về người vợ quá cố, chàng khóc lóc, đau khổ. Khi Lão ông nói: “Chừ vợ con nó vô phước nó chết rồi nên 266 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(1):261-268 bây giờ cha đem emnó là LiễuHoa cha thế cho con đó ma”, nhưng Lâm Sanh nhất định không đồng ý. Ông Lão tiếp tục đưa “Vàng bạc cho phần rể mấy vò/ Ngọc ngà lại phần con mấy tráp./ Cha cho con hết thảy”, rồi để Liễu Hoa ở lại nhưng Lâm Sanh vẫn tiếp tục từ chối, chàng nói với Liễu Hoa: “Hiền muội,/ Hiền muội sao còn ở,/ Chẳng về với song thân./ Như ta là: Vốn là người quân tử chi nhân,/ Đâu có phải cuồng phu chi loại./ Như vợ qua nó vô phước nó thác rồi thì thôi,/ Dầu chẳng đặng sánh đôi kim cải,/ Là bởi nơi con tạo khiến vay./ Hiền muội ôi là,/ Tại trời xui bậu đứt chơn tay,/ Bởi đất khiến qua phân chồng vợ nữa thì thôi đừng làm vậy mà không nên” [ 10, tr. 80]. Trải qua muôn vàn khổ ải, ly biệt, thử thách nhưng cuối cùng chàng Lâm và vợ cũng được đoàn tụ với nhau. Tình yêu của chàng Lâm cũng khiến cho chúng ta phải ngưỡng mộ bởi dù nhiều cám dỗ, ngăn cách nhưng nghĩa tình mà chàng dành cho người vợ của mình thật đáng khâm phục. Những câu chuyện tình yêu trong tuồng không mang một sắc màu chungmà tỏa sáng với nhiềumàu, nhiều kiểu. Tác giả không tập trung khắc họa về những diễn biến của tình yêu mà chỉ lồng ghép vào những diễn biến, những sự kiện lịch sử nhưng thông qua đó chúng ta thấy được tình cảm chân thành mà họ dành cho nhau sâu sắc, mãnh liệt như Lâm Sanh, KimNgọc từ chối hết mọi cơ hội khác chỉ để giữ trọn vẹn tình yêu của mình. Tình yêu cũng khiến cho những người phụ nữ mạnh mẽ hơn, cùng chồng giải quyết những việc quốc gia đại sự như chúa quốcThiênNhiên, công chúa Xuân Hương. KẾT LUẬN Tuồng xây dựng lên một xã hội với nhiều mâu thuẫn xung đột, đặc biệt xung đột giữa các vương triều phong kiến và các cuộc tranh giành trong chính nội bộ của triều đình, thông qua đó nhằm làm nổi bật những hình mẫu lý tưởng cho đạo đức Nho gia, ca ngợi những con người mang vẻ đẹp trung, hiếu, tiết, nghĩa. Xã hội trong tuồng không chỉ là xã hội của các vương triều với những nhân vật như vua, thứ hậu, thứ phi, hoàng tử, công chúa, trung thần, nịnh thần mà tác giả tuồng bắt đầu chú ý đến đời sống cụ thể của từng nhân vật thuộc nhiều tầng lớp như nhân vật tri phủ, quan huyện, hương thôn, lí trưởng, lính tráng, tên canh cổng, thằng khờ, thằng buôn, những ả đĩ điếm, thầy bói, nhà sư, thằng hầu... Tác giả tuồng phê phán những thói hư tật xấu của đủ mọi hạng người trong xã hội, trên nền xã hội loạn lạc, suy đồi đó nổi bật lên những con người hiền lành, chất phác, thủy chung, hiếu hạnh, đưa ra những bài học đạo đức làm người. Có thể nói tuồng đã không còn là tiếng nói, là phương tiện tuyên truyền của vua quan phong kiến nữa mà đã trở thành một kênh thông tin qua đó ước mơ, tâm tư, tình cảm của nhân dân lao động được phản ánh. XUNGĐỘT LỢI ÍCH Tác giả không có bất kỳ xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Tác giả đã thống kê, phân loại và đưa ra những nhận xét, bình luận khái quát về nội dung của các kịch bản Tuồng. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Yến X. Những vấn đề thẩmmỹ, đạo lý, xã hội trong tuồng cổ. Hà Nội: Nhà xuất bản Sân khấu. 1994;. 2. LộcN. Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 2009;. 3. Ký HC, Yến X, Tân BD. Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 15a). Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 1994;. 4. Phi ĐB. Nhìn về sân khấu hát bội Nam Bộ. TP.HCM. Nhà xuất bản Văn nghệ. 2005;. 5. Ngọc H, Borton L. Tham khảo biên dịch văn hoá Việt Nam: Nghệ thuật tuồng Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới. 2006;. 6. Thắng NQ. Bùi Hữu Nghĩa và Kim Thạch kỳ duyên. Hà Nội: Nhà xuất bản văn học. 1993;. 7. Ký HC. Tuồng cổ. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa. 1978;. 8. Ninh LK, Huề NK, Hoài ND. Tuồng Gia Trường. Sài Gòn: Coudurier & Montégout, Imprimeurs- Éditeurs. 1906;. 9. Sâm NV, Hồ L, Tâm NH, Trang NV. Trương Ngáo tức Người đi đòi nợ Phật;Available from: tgtpham/nvsam/vannom/nvsam-truongngao.pdf. 10. Hanh TX, Sâm NV. Lâm Sanh Xuân Nương. Mĩ: Viện Việt Học Califonia;. 267 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 4(1):261-268 Open Access Full Text Article Review University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM, Vietnam Correspondence Nguyen Thi Huyen Trang, University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM, Vietnam Email: trangnguyen.hsht@gmail.com History Received: 17/12/2019 Accepted: 18/02/2020 Published: 31/3/2020 DOI : 10.32508/stdjssh.v4i1.537 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. The content values of Tuong art performance in the Southern area before 1945 Nguyen Thi Huyen Trang* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Has been existed for a long time in the Southern area of Vietnam, Tuong art performance became the only unique spiritual dish inmany centuries and leaving dozens of scripts of literary value. How- ever, Tuong art performance is gradually losing its position due to many objective and subjective reasons. By studying the content values of classical drama, we can feel the beauty of Tuong art performance and understand more about this type of art. The content values of Tuong art per- formance have been interested in many researchers; however, they only stopped at studying Viet- namese Tuong generally or specific in some works such as Kim Thach ky duyen, Son hau The researchers haven't been a focus on exploiting the issues of the content values of Tuong art per- formance in the Southern area in general. So in this article, we want to have a general view of the content values of Tuong art performance in this area. The content values of Tuong art performance in the Southern area before 1945 was divided into three following parts: Elevating the values of loyalty, filial piety, virtuous wife, benevolence and righteousness; Criticizing the moral degeneracy of people in the society; Prasing the loyal love in the troubled times. But, because of material limi- tations, we just studied the content of Tuong in general based on existing documents, this article can not avoid shortcomings and limitations. Key words: Tuong art performance, Tuong art performance in Southern area, classical content, script Cite this article : Thi Huyen Trang N. The content values of Tuong art performance in the Southern area before 1945. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(1):261-268. 268
File đính kèm:
gia_tri_noi_dung_cua_kich_ban_tuong_nam_bo_truoc_1945.pdf