Giá trị của phương pháp siêu âm speckle Tracking trong dự đoán tắc động mạch vành cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số tống máu bảo tồn

Mục tiêu: Đánh giá giá trị của phương pháp siêu âm speckle tracking trong dự đoán tắc động mạch vành (ĐMV) cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số tống máu bảo tồn (có đối chiếu với phương pháp chụp động mạch vành chọn lọc).

Đối tượng và phương pháp: 91 bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng vành cấp (HCVC) không ST chênh lên có phân số tống máu ≥50% nằm điều trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2014 được làm siêu âm Doppler tim và đánh giá sức căng cơ tim bằng phương pháp speckle tracking. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp động mạch vành chọn lọc qua da.

pdf 11 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của phương pháp siêu âm speckle Tracking trong dự đoán tắc động mạch vành cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số tống máu bảo tồn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của phương pháp siêu âm speckle Tracking trong dự đoán tắc động mạch vành cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số tống máu bảo tồn

Giá trị của phương pháp siêu âm speckle Tracking trong dự đoán tắc động mạch vành cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số tống máu bảo tồn
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201598
TÓm TẮT
Mục tiêu: Đánh giá giá trị của phương pháp 
siêu âm speckle tracking trong dự đoán tắc động 
mạch vành (ĐMV) cấp ở các bệnh nhân hội 
chứng vành cấp không ST chênh lên có phân số 
tống máu bảo tồn (có đối chiếu với phương pháp 
chụp động mạch vành chọn lọc).
Đối tượng và phương pháp: 91 bệnh nhân 
được chẩn đoán hội chứng vành cấp (HCVC) 
không ST chênh lên có phân số tống máu ≥50% 
nằm điều trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt Nam 
từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2014 được làm 
siêu âm Doppler tim và đánh giá sức căng cơ tim 
bằng phương pháp speckle tracking. Tất cả các 
bệnh nhân đều được chụp động mạch vành chọn 
lọc qua da.
Kết quả: Từ tháng 3/2014 đến tháng 
11/2014, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 
91 bệnh nhân hội chứng vành cấp không ST 
chênh lên, tuổi trung bình 65,22 ± 9,63, gồm 60 
bệnh nhân nam (65,93%) và 31 bệnh nhân nữ 
(34,07%). Có 33 bệnh nhân (36,26%) bị đau thắt 
ngực không ổn định (ĐTNKÔĐ), 58 bệnh nhân 
(63,74%) bị nhồi máu cơ tim (NMCT) không ST 
chênh lên. Có 30 bệnh nhân bị tắc ĐMV (33,0%).
 Các bệnh nhân NMCT không ST chênh 
lên có số vùng giảm sức căng nhiều hơn so với 
các bệnh nhân ĐTNKÔĐ (5,93±3,89 vùng so 
với 2,39±2,28 vùng, p<0,001) và có sức căng 
toàn bộ giảm hơn rõ rệt so với nhóm ĐTNKÔĐ 
(-16,19±3,04 % so với -19,46±1,91%, p<0,001). 
Nhóm tắc động mạch vành có số vùng giảm sức 
căng nhiều hơn so với nhóm không tắc động 
mạch vành (7,33±3,79 vùng so với 3,32±3,04 
vùng, p<0,001) và có sức căng toàn bộ giảm hơn 
rõ rệt so với nhóm không tắc động mạch vành 
(-15,35±3,32% so với -18,38±2,47%, p<0,001). 
Sức căng cơ tim toàn bộ (GS) ≥ -15,9% và số 
vùng giảm sức căng ≥ 4 vùng có giá trị dự đoán 
tắc động mạch vành cấp với độ nhạy lần lượt là 
66,67% và 93,3%, độ đặc hiệu lần lượt là 85,2% và 
72,83%, cho diện tích dưới đường cong ROC lần 
lượt là 0,79 và 0,81. Trong khi đó độ nhạy của chỉ 
số vận động thành và số vùng RLVĐ trên siêu âm 
siêu âm 2D chỉ lần lượt là 46,7% và 53,2%, độ đặc 
hiệu đều là 85,1%, cho diện tích dưới đường cong 
thấp, hơn lần lượt là 0,70 và 0,71.
Nguy cơ tắc động mạch vành ở nhóm GS 
≥ -15,9 cao hơn nhóm GS < -15,9 gấp 3,07 lần 
(95% CI: 1,39-13,91). Nguy cơ tắc động mạch 
vành ở nhóm có số vùng giảm sức căng ≥ 4 gấp 
11,12 lần nhóm có số vùng giảm sức căng <4, 
(95%CI: 1,96-62,95). 
Sức căng vùng tưới máu của động mạch liên 
thất trước (ĐMLTT) ≥ -17,9%, sức căng vùng 
tưới máu của động mạch mũ (ĐM mũ)≥ -15%, 
giá trị của phương pháp siêu âm speckle Tracking
trong dự đoán tắc động mạch vành cấp 
ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp không sT 
chênh lên có phân số tống máu bảo tồn
Nguyễn Thị Thu Hoài, Phùng Thị Lý, Nguyễn Thị Hải Yến, Đỗ Doãn Lợi
Viện Tim mạch Việt Nam
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 99
sức căng vùng tưới máu của động mạch vành phải 
(ĐMVP) ≥ -15% có giá trị dự đoán tắc động mạch 
liên thất trước, động mạch mũ, động mạch vành 
phải với độ nhạy lần lượt là 75%, 83,3%, 91,7%, 
độ đặc hiệu lần lượt là 64,6%, 57,6%, 60,8%, cho 
diện tích dưới đường cong ROC lần lượt là 0,79, 
0,76, 0,74. Trong khi đó chỉ số vận động vùng 
tưới máu động mạch liên thất trước (VĐVLTT)≥ 
1,29, chỉ số vận động vùng tưới máu của ĐM mũ 
(VĐVM)≥ 1,33, chỉ số vận động vùng tưới máu 
của ĐMVP (VĐVVP)≥1,33 cho độ nhạy chỉ lần 
lượt là 58,3%, 66,7%, 66,7%, độ đặc hiệu lần lượt 
là 74,7%, 75,3%, 86,7%, cho diện tích dưới đường 
cong lần lượt là 0,72, 0,55, 0,67.
Kết luận: Ở các bệnh nhân HCVC không ST 
chênh lên có phân số tống máu bảo tồn, những 
bệnh nhân có tắc ĐMV có sức căng toàn bộ thất 
trái giảm hơn và số vùng giảm sức căng nhiều hơn 
so với các bệnh nhân không có tắc ĐMV. Sức căng 
cơ tim (toàn bộ và từng vùng) có giá trị dự báo 
tắc động mạch vành, giúp phát hiện những bệnh 
nhân có nguy cơ cao cần được can thiệp tái tưới 
máu ĐMV sớm. 
ĐẶT VẤn ĐỀ 
Điện tâm đồ (ĐTĐ) là một trong những yếu 
tố quyết định để phân tầng nguy cơ sớm ở những 
bệnh nhân có cơn đau thắt ngực. Đoạn ST chênh 
lên dự đoán tắc ĐMV cấp với độ đặc hiệu cao. Tuy 
nhiên, khoảng 30% bệnh nhân có tắc ĐMV cấp 
không có ST chênh lên trên điện tâm đồ(5). Ở bệnh 
nhân HCV cấp không có ST chênh lên, nếu chức 
năng tâm thu thất trái trên siêu âm còn được bảo 
tồn, việc chẩn đoán sớm gặp khó khăn do thiếu 
các dấu hiệu trên điện tâm đồ và trên siêu âm tim 
2D, nhất là trong một số giờ đầu tiên khi các men 
tim chưa tăng cao. Siêu âm speckle tracking là một 
phương pháp mới được đưa vào ứng dụng trong 
đánh giá vận động cơ tim dựa trên sức căng cơ 
tim(1,2,3). Năm 2008, nghiên cứu của Wang và cộng 
sự đã cho thấy sức căng dọc cơ tim giảm rất sớm ở 
các bệnh nhân suy tim với phân số tống máu bảo 
tồn(14). Trong một nghiên cứu khác về ảnh hưởng 
của NMCT đối với sức căng cơ tim, tác giả Chan 
đã thấy rằng sức căng dọc cơ tim giảm ở cả những 
bệnh nhân NMCT xuyên thành và NMCT dưới 
nội mạc, trong khi sức căng theo chiều bán kính 
và theo chiều chu vi vẫn bảo tồn ở các bệnh nhân 
NMCT dưới nội mạc(5). Các kết quả nghiên cứu 
trên thế giới cho thấy sức căng dọc cơ tim thay đổi 
sớm nhất khi chức năng thất trái mới bị rối loạn, 
ngay từ khi khi chưa có những thay đổi có thể quan 
sát được trên siêu âm tim 2D. 
mỤc TiÊu
Đánh giá giá trị của phương pháp siêu âm 
speckle tracking trong dự đoán tắc động mạch 
vành cấp ở các bệnh nhân hội chứng vành cấp 
không ST chênh lên có phân số tống máu bảo 
tồn (có đối chiếu với phương pháp chụp động 
mạch vành chọn lọc).
 Đối TƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn cứu
Đối tượng nghiên cứu
 Bao gồm 91 bệnh nhân được chẩn đoán 
HCVC không ST chênh lên theo tiêu chuẩn của 
Hội Tim Mạch Châu Âu năm 2007(4), nằm điều 
trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 
3/2014 đến tháng 11/2014, có chỉ định chụp và 
can thiệp động mạch vành qua da tại Viện Tim 
mạch, Bệnh viện Bạch Mai. 
Tiêu chuẩn loại trừ
 Chúng tôi không lấy vào nghiên cứu những 
bệnh nhân có tiền sử NMCT, bệnh nhân có các 
biến đổi đặc hiệu trên ĐTĐ: ST chênh ≥ 1 mm 
ở ít nhất hai chuyển đạo ngoại biên hoặc ≥ 2 mm 
ở hai chuyển đạo trước tim liên tiếp, block nhánh 
trái hoàn toàn mới xuất hiện hoặc có sóng Q bệnh 
lý theo mã Minnesota, bệnh nhân có hội chứng 
WPW, bệnh nhân có block nhĩ thất các mức độ II 
và III, bệnh nhân có đặt máy tạo nhịp, bệnh nhân 
có tổn thương màng ngoài tim (tràn dịch màng 
ngoài tim mức độ vừa-nhiều hoặc viêm dày dính 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015100
ảnh động, bác sỹ siêu âm sẽ tiến hành phân tích 
dựa trên hình ảnh rõ nhất. Chọn thời gian mở van 
ĐMC dựa trên dòng chảy ở đường ra thất trái. Máy 
sẽ yêu cầu chọn một điểm ở mỏm tim và hai điểm 
ở vòng van hai lá. Máy sẽ tự động vẽ theo viền của 
nội mạc. Tuy nhiên bác sỹ siêu âm cần phải có 
những hiệu chỉnh để có hình ảnh chính xác nhất. 
Sau đó máy sẽ tự động phân tích để tìm ra đỉnh sức 
căng dọc toàn bộ thất trái (GS) và đỉnh sức căng 
của từng vùng trong thì tâm thu. Hình ảnh cuối 
cùng thu được gọi là hình ảnh bull’s eye. Toàn bộ 
thất trái được chia thành 17 vùng theo khuyến cáo 
của Hiệp hội Siêu Âm Tim Hoa Kỳ(11,12). 
Để xác định vùng giảm sức căng, nghiên cứu 
trước đó của Glesdal tìm ra sức căng >-13% (so 
sánh với chụp cộng hưởng từ độ tương phản cao), 
Dựa trên kết quả này chúng tôi định nghĩa vùng 
giảm sức căng khi sức căng của vùng đó ≥ 14%.
Tổng điểm sức căng dọc toàn bộ thất trái (GS) 
được tính toán tự động bằng phần mềm trên máy 
siêu âm, chúng tôi gọi là sức căng toàn bộ.
Hình 1. Sức căng toàn bộ thất trái
 Phân chia theo vị trí tưới máu ĐMV trên 17 
vùng thành tim
Vùng đáy gồm các vùng 1 (trước đáy), 2 
(vách trước đáy), 3 (vách dưới đáy), 4 (dưới 
đáy), 5 (dưới bên đáy), 6 (trước bên đáy); 
vùng giữa gồm các vùng 7 (trước giữa), 8 
(trước vách giữa), 9 (dưới vách giữa), 10 (dưới 
màng ngoài tim), bệnh nhân có bệnh van tim mức 
độ vừa và nhiều, bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật 
tim, các bệnh nhân có rung nhĩ, bệnh nhân bị 
bệnh cơ tim phì đại, bệnh nhân trên siêu âm tim 
2D sàng lọc có phân số tống máu thất trái theo 
phương pháp Simpson <50%, bệnh nhân có hình 
ảnh siêu âm mờ không đánh giá chính xác được 
các thông số siêu âm, các bệnh nhân không đồng 
ý tham gia vào nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Các bước tiến hành nghiên cứu
 Tất cả các bệnh nhân được giải thích về 
nghiên cứu và ký cam đoan tham gia nghiên cứu, 
được hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng và 
làm bệnh án theo mẫu, làm một số thăm dò và xét 
nghiệm sinh hoá và men tim, chụp Xquang tim 
phổi thẳng, làm ĐTĐ 12 chuyển đạo, làm siêu âm 
Doppler tim và đánh giá sức căng dọc cơ tim bằng 
phương pháp speckle tracking. Tất cả các bệnh 
nhân đều được chụp động mạch vành chọn lọc.
Quy trình làm siêu âm Doppler tim: Địa điểm
 Tại phòng siêu âm tim, Viện Tim Mạch- Bệnh 
Viện Bạch Mai . Chúng tôi sử dụng máy siêu âm 
Vivid E9 của hãng GE sản xuất tại Hoa Kỳ với đầu 
dò 3,5MHz có thể thăm dò: siêu âm tim TM, 2D, 
Doppler xung, Doppler liên tục, Doppler màu, 
Doppler mô cơ tim. Máy được trang bị phần 
mềm đánh giá sức căng cơ tim bằng phương pháp 
speckle tracking. Trên máy có đường ghi điện tim 
đồng thời với hình ảnh siêu âm. Các BN đều được 
làm siêu âm theo quy trình chuẩn của Hội Siêu 
Âm Tim Hoa Kỳ (11,12). Máy có bộ phận vi xử lý và 
bộ phận lưu trữ hình ảnh, có thể lưu dữ liệu trên 
đĩa CD hoặc DVD.
Đánh giá sức căng cơ tim bằng phương pháp 
speckle tracking
- Bước 1: Ghi hình động theo thứ tự mặt cắt 3 
buồng, 4 buồng, 2 buồng trục dọc trong ít nhất 3 
chu kì với tốc độ quét 60- 100 ảnh/giây. 
- Bước 2: Phân tích hình ảnh động bằng phần 
mềm AFI có sẵn trên máy siêu âm. Sau khi có hình 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 101
giữa), 11 (dưới bên giữa), 12 (trước bên giữa); 
vùng mỏm gồm các vùng 13 (trước mỏm), 14 
(vách mỏm), 15(dưới mỏm), 16 (bên mỏm), 
17 (mỏm)
 Tổng sức căng trung bình vùng tưới máu của 
ĐM liên thất trước (ĐMLTT) gồm các vùng 1, 2, 
7, 8, 12, 13, 14, 16 ,17.
Tổng sức căng trung bình vùng tưới máu của 
động mạch mũ (ĐM mũ) gồm các vùng 1, 5, 6, 
11, 12, 16.
Tổng sức căng trung bình vùng tưới máu của 
động mạch vành phải (ĐMVP) gồm các vùng 3, 
4, 10.
 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng các 
thuật toán thống kê y học trên máy vi tính bằng 
phần mềm STATA 16.0.
KẾT quẢ
Đặc điểm chung của các đối tượng 
nghiên cứu: 
Từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2014, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu trên 91 bệnh nhân 
hội chứng vành cấp không ST chênh lên tuổi 
trung bình 65,22 ± 9,63 gồm 60 bệnh nhân nam 
(65,93%) và 31 bệnh nhân nữ (34,07%). Có 33 
bệnh nhân (36,26%) bị đau thắt ngực không ổn 
định (ĐTNKÔĐ), 58 bệnh nhân (63,74%) bị 
nhồi máu cơ tim (NMCT) không ST chênh lên. 
Có 30 bệnh nhân bị tắc ĐMV (33,0%).
Bảng 1. Một số đặc điểm về lâm sàng và cận lâm sàng của các bệnh nhân HCVC không ST chênh lên
 Nhóm
Đặc điểm
Có tắc ĐMV(n=30)
hoặc n (%)
Không tắc ĐMV(n=61)
hoặc n (%)
p
Thời gian từ khi nhập viện đến khi làm 
siêu âm speckle tracking (ngày)
1,10±1,09 1,38±1,37 >0,05
Thời gian từ khi nhập viện đến khi 
chụp ĐMV qua da (ngày)
2,13±1,20 2,87±1,83 <0,05
Có hình ảnh thiếu máu trên điện tâm 
đồ
21 (70,00) 28 (45,90) <0,05
Tổng biên độ ST chênh lên ở các 
chuyển đạo (mm)
0,54±0,75 0,51±0,60 >0,05
Nồng độ đỉnh Troponin T (ng/ml) 1,20±1,95 0,29±0,59 <0,001
 Troponin T dương tính 30 (100,00) 28 (45,90) <0,001
Nhận xét: Nhóm có tắc động mạch vành có thời gian từ khi nhập viện đến khi chụp động mạch 
vành qua da ngắn hơn (2,13±1,20 ngày) so với (2,87±1,83 ngày), p<0,05, có tỷ lệ bệnh nhân có hình 
ảnh thiếu máu trên điện tâm đồ cao hơn (70% so với 45,9%, p< 0,05), có nồng độ đỉnh Troponin T cao 
hơn (1,20±1,95 so với 0,29 ± 0,59 ng/ml, p< 0,001), có tỷ lệ bệnh nhân có Troponin T dương tính cao 
hơn (100% so với 45,9%, p<0,001).
Giá trị của phương pháp siêu âm speckle tracking trong dự báo tắc động mạch vành cấp ở các 
bệnh nhân HCVC không ST chênh lên:
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015102
Bảng 2. Sức căng cơ tim và số vùng giảm sức căng ở các bệnh nhân ĐTNKÔĐ và NMCT không ST chênh lên
ĐTNKÔĐ và NMCT không ST chênh lên
Thông số
Nhóm ĐTNKÔĐ (n=33) NMCT không ST chênh lên(n=58)
p
GS -19,46±1,91 -16,19±3,04 <0,001
Số vùng giảm 
sức căng
2,39±2,28 5,93±3,89 <0,001
Nhận xét: Nhóm NMCT không ST chênh lên có số vùng giảm sức căng nhiều hơn so với nhóm 
ĐTNKÔĐ (5,93±3,89 vùng so với 2,39±2,28 vùng, p<0,001) và có sức căng toàn bộ giảm hơn rõ rệt so 
với nhóm ĐTNKÔĐ (16,19±3,04 % so với -19,46±1,91%, p<0,001).
Bảng 3. Một số thông số siêu âm 2D và speckle tracking ở bệnh nhân có tắc và không tắc ĐMV
 Nhóm
Thông số 
Tắc ĐMV (n=30)
Không tắc ĐMV 
(n= 61) p
EF (Simpson)(%) 55,40±5,68 62,15±6,51 <0,001
Chỉ số vận động thành (CSVĐT) 1,14±0,20 1,02±0,11 <0,001
Sức căng toàn bộ (GS) -15,35±3,32 -18,38±2,47 <0,001
Số vùng RLVĐ trên siêu âm 2D 2,03±2,66 0,20±0,95 <0,001
Số vùng giảm sức căng 7,33±3,79 3,33±3,04 <0,001
Nhận xét: Phân số tống máu EF, sức căng cơ tim toàn bộ trong nhóm có tắc động mạch vành giảm 
hơn so với nhóm không tắc động mạch vành. Chỉ số vận động thành, số vùng RLVĐ trên siêu âm 2D, số 
vùng giảm sức căng lớn hơn rõ rệt ở nhóm tắc động mạch vành so với nhóm không tắc động mạch vành. 
Các sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Hình 2. Đường cong ROC trong dự đoán bệnh nhân có tắc ĐMV cấp của số vùng giảm sức căng, số vùng rối 
loạn vận động trên siêu âm 2D, CSVĐT, sức căng toàn bộ (GS), phân số tống máu EF.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 103
Nhận xét: Đường cong ROC ở hình 2 cho thấy sức căng toàn bộ (GS), số vùng giảm sức căng, số 
vùng rối loạn vận động trên siêu âm 2D, CSVĐT, phân số tống máu EF, tất cả các điểm tham chiếu nằm 
trên đường 45 độ. Số vùng giảm sức căng có diện tích dưới đường cong là lớn nhất.
Bảng 4. Giá trị dự đoán tắc ĐMV của một số thông số siêu âm tim
 Giá trị
Thông số
Điểm cắt
Độ nhạy
(%)
Độ đặc hiệu
(%)
AuC
NPV
(%)
PPV
(%)
Chỉ số vận động thành ≥1,125 46,7 85,1 0,70 78,4 65,0
Sức căng toàn bộ
≥-15,9 66,67 85,2 0,79 83,9 69
Số vùng RLVĐ trên SA 2D ≥ 2 53,2 85,1 0,71 78,4 75
Số vùng giảm sức căng ≥4 93,3 72,3 0,81 95 54,9
Nhận xét: Số vùng giảm sức căng≥ 4 có giá trị dự đoán tắc ĐMV với độ nhạy: 93,3%, độ đặc hiệu: 
72,3, giá trị dự đoán dương tính: 54,9%, giá trị dự đoán âm tính: 95%, diện tích dưới đường cong ROC-
AUC là 0,81. Khi so sánh với các chỉ số khác, ta thấy số vùng giảm sức căng là có giá trị nhất trong chẩn 
đoán tắc động mạch vành.
Bảng 5. Mô hình hồi quy logistic thể hiện mối liên quan giữa tắc động mạch vành với sức căng toàn bộ GS và 
số vùng giảm sức căng
Thông số OR
95% Ci
pGiới hạn dưới của 
95% khoảng tin cậy
Giới hạn dưới của 
95% khoảng tin cậy
GS ≥ -15,9 3,07 1,39 13,91 <0,05
Số vùng giảm sức căng ≥ 4 11,12 1,96 62,95 <0,05
Chỉ số vận động thành 0,07 0,00 129,78 >0,05
Số vùng RLVĐ trên SA 2D 1,91 0,91 3,99 >0,05
P<0,0001; Pseudo R2=0,38
Nhận xét: Nguy cơ tắc động mạch vành ở nhóm GS ≥ -15,9 cao hơn nhóm GS < -15,9 gấp 3,07 lần 
(95% CI: 1,39 - 13,91)
Nguy cơ tắc động mạch vành ở nhóm có số vùng giảm sức căng ≥ 4 cao hơn nhóm có số 
vùng giảm sức căng <4 gấp 11,12 lần (95%CI: 1,96 - 62,95)
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015104
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
Se
ns
iti
vi
ty
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1-Specificity
sltt ROC area: 0.7933v dvltt ROC area: 0.7156
Reference
Hình 3. Đường cong ROC trong dự đoán tắc ĐMLTT
Nhận xét: Sức căng vùng tưới máu của ĐMLTT có diện tích dưới đường cong lớn hơn so với chỉ 
số vận động vùng (0,7933 so với 0,7156). Tất cả các điểm tham chiếu đều nằm phía trên đường 45 độ.
Hình 4. Đường cong ROC trong dự đoán tắc ĐMVP
Nhận xét: Sức căng vùng tưới máu của ĐMVP có diện tích dưới đường cong lớn hơn so với chỉ số 
vận động vùng (0,7437 so với 0,6725). Tất cả các điểm tham chiếu đều nằm phía trên đường 45 độ.
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
S
en
si
tiv
ity
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1-Specificity
svp ROC area: 0.7437 vdvvp ROC area: 0.6725
Reference
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 105
Bàn luẬn
Siêu âm speckle tracking là một biện pháp 
chẩn đoán không xâm nhập, có thể tiến hành ngay 
tại giường bệnh cho bệnh nhân. Ở các bệnh nhân 
HCVC không ST chênh lên có phân số tống máu 
bảo tồn, khi các biểu hiện trên điện tâm đồ không 
rõ ràng, chức năng thất trái trên siêu âm chưa có 
thay đổi nặng nề, việc phát hiện sớm những bệnh 
nhân tắc động mạch vành để đưa ra chỉ định can 
thiệp tái tưới máu kịp thời còn gặp khó khăn, nhất 
là trong một số giờ đầu khi men tim chưa tăng 
rõ rệt. Nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu giá trị 
của siêu âm speckle tracking trong phát hiện sớm 
những bệnh nhân tắc ĐMV, đây chính là ý nghĩa 
lâm sàng của nghiên cứu.
Các kết quả thu được trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy sức căng toàn bộ thất trái (GS) 
và số vùng giảm sức căng có giá trị dự đoán tắc 
động mạch vành cấp. Trong đó, dự đoán tắc động 
mạch vành cấp với số vùng giảm sức căng là có giá 
trị nhất. Nếu có ít nhất 4 vùng giảm sức căng với 
điểm cắt -14% giúp nhận định được bệnh nhân 
có tắc động mạch vành cấp với độ nhạy 93,3% và 
độ đặc hiệu 72,3%. Giá trị dự đoán âm tính của số 
vùng giảm sức căng ≥4 và sức căng cơ tim toàn bộ 
≥-15,9% tương ứng là 95% và 83,9% cũng tương 
tự với nghiên cứu của C.Eek là 94% và 87%(8). Ở 
những bệnh nhân có số vùng rối loạn vận động < 
4 vùng thì loại trừ được 95% khả năng tắc động 
mạch vành cấp. Kết quả này cũng tương tự với kết 
quả của tác giả Dahlslett(7).
Khi phân tích hồi quy logistic thể hiện ở bảng 
5, chúng tôi thấy nguy cơ tắc động mạch vành ở 
nhóm GS ≥ -15,9 cao hơn nhóm có GS < -15,9 là 
3,07 lần, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê. Nguy 
cơ tắc động mạch vành cấp ở nhóm có số vùng 
giảm sức căng ≥ 4 vùng gấp 11,12 lần nhóm có 
số vùng rối loạn vận động < 4 vùng, sự khác biệt 
là có ý nghĩa thống kê. Khi phân tích các yếu tố 
nguy cơ này trên nhóm tổn thương động mạch 
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
Se
ns
iti
vi
ty
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1-Specificity
smu ROC area: 0.7651 vdvmu ROC area: 0.5482
Reference
Hình 5. Đường cong ROC trong dự đoán tắc ĐM mũ.
Nhận xét: Sức căng vùng tưới máu của ĐM mũ có diện tích dưới đường cong lớn hơn so với chỉ 
số vận động vùng (0,7651 so với 0,5482).Tất cả các điểm tham chiếu đều nằm phía trên đường 45 độ.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015106
vành, tác giả T.Sai cũng thu được kết quả tại điểm 
cắt GS ≥ -19% nguy cơ mắc bệnh động mạch vành 
cao gấp 4,2 lần nhóm GS < -19, số vùng giảm sức 
căng ≥ 4 vùng cao gấp 4,66 lần nhóm < 4 vùng(13). 
Điều này càng cho thấy siêu âm speckle tracking 
là một phương pháp có giá trị trong dự đoán động 
mạch vành bị tắc. Theo tác giả Graham Cole, các 
bệnh nhân nhồi máu cơ tim đến sớm trong một số 
giờ đầu chưa có biểu hiện hoại tử cơ tim trên xét 
nghiệm máu (Troponin T chưa tăng) thì biến đổi 
sức căng cơ tim trong những giờ đầu rất có giá trị 
giúp phát hiện sớm những bệnh nhân có khả năng 
tắc động mạch vành(9).
 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
sức căng vùng tưới máu của ĐMLTT, sức căng 
vùng tưới máu của ĐM mũ và sức căng vùng tưới 
máu của ĐMVP với điểm cắt lần lượt là ≥-17,6%, 
≥-15%, ≥-15% có giá trị chấp nhận được 
trong phân biệt tắc động mạch liên thất trước, 
động mạch mũ, động mạch vành phải với diện 
tích dưới đường cong lần lượt là 0,79, 0,76, 0,74. 
Sức căng vùng tưới máu của ĐMVP có độ nhạy 
cao nhất trong dự đoán tắc động mạch vành phải 
(91,7%) sau đó đến động mạch mũ và động mạch 
liên thất trước là 83,3% và 75%. Sức căng vùng 
tưới máu của ĐM mũ và ĐMVP có giá trị dự 
báo âm tính rất cao là 98% rồi đến sức căng vùng 
tưới máu của ĐMLTT có giá trị dự báo âm tính là 
94%. Có sự khác biệt này có thể là do vùng tưới 
máu của động mạch liên thất trước nhiều nhất (9 
vùng), động mạch mũ 6 vùng, động mạch vành 
phải ít nhất (3 vùng). Khi xem xét chỉ số vận động 
vùng tưới máu của từng nhánh động mạch vành 
trên siêu âm 2D, diện tích dưới đường cong đều 
nhỏ hơn đánh giá bằng sức căng cơ tim. Vận động 
vùng tưới máu của động mạch liên thất trước 
(VĐVLTT) ≥ 1,29, vận động vùng tưới máu của 
động mạch mũ (VĐVM) ≥ 1,33, vận động vùng 
tưới máu của động mạch vành phải (VĐVVP) 
≥ 1,33 cho độ nhạy chỉ lần lượt là 58,3%, 66,7%, 
66,7%, độ đặc hiệu lần lượt là 74,7%, 75,3%, 
86,7%, cho diện tích dưới đường cong lần lượt là 
0,72, 0,55, 0,67.
KẾT luẬn
Ở các bệnh nhân HCVC không ST chênh lên 
có phân số tống máu bảo tồn, những bệnh nhân có 
tắc ĐMV có sức căng toàn bộ thất trái giảm hơn và 
số vùng giảm sức căng nhiều hơn so với các bệnh 
nhân không có tắc ĐMV. Sức căng cơ tim (toàn 
bộ và từng vùng) có giá trị dự báo tắc động mạch 
vành, giúp phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ 
cao cần được can thiệp tái tưới máu ĐMV sớm. 
SuMMARy
Speckle tracking echocardiography predicts acute coronary occlusion in patients with non-ST-
segment elevation acute coronary syndrome and preserved left ventricular ejection fraction.
Nguyen Thi Thu Hoai, Phung Thi Ly, Nguyen Thi Hai yen, Do Doan Loi
Vietnam National Heart Institute.
BACKGROuND: Patients with acute coronary occlusion and preserved left ventricular ejection 
fraction may lack typical signs of myocardial infarction in the electrocardiogram and echocardiography. 
AiMS: We study the ability of different echocardiographic modalities to identify coronary occlusion 
by quantifying myocardial dysfunction in patients with non-ST-elevation acute coronary syndrom 
(NSTE-ACS). 
METHODS AND RESuLTS: Ninety-one patients with first NSTE-ACS and preserved left 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 107
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Đỗ Doãn Lợi, Nguyễn Lân Việt (2012). Siêu âm Doppler tim. Nhà xuất bản Y học.
2. Phạm Nguyên Sơn, Đỗ Văn chiến, Lương Hải Đăng (2013). Giá trị của siêu âm đánh dấu mô với phần 
mềm đánh giá chức năng tự động (AFI) trong chẩn đoán bệnh động mạch vành. Kỷ yếu các bài báo cáo tại 
hội nghị tim mạch học miền Trung năm 2013. 
3. Nguyễn Thị Thu Hoài, Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn Thị Bạch yến, Đỗ Doãn 
Lợi, Nguyễn Lân Việt (2014), “Mối liên quan giữa sức căng cơ tim với các thông số chức năng thất trái 
trên siêu âm tim ở các bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp được can thiệp động mạch vành” Tạp chí Tim Mạch 
học Việt nam số 65:70-79. 
4. Vũ Đình Hải (1995). “Một số tiêu chuẩn bệnh lý điện tim theo mã Minnesota”. Tạp chí tim mạch học số 
5: 35-37. 
5. Bassand JP., Hamm CW, Ardissino D., et al (2007). Guidelines for the diagnosis and treatment of non-
ST-segment elevation acute coronary syndromes. Eur Heart J 2007; 28: 1598-660.
6. Chan J, Hanekom L, Wong C, Leano R, Cho Gy, Marwick TH (2006) Differentiation of subendocardial 
and transmural infarction using 2D strain rate imaging to assess short-axix and long-axix myocardial 
function. J Am Coll Cardiol 2006; 48: 2026-33.
7. Dahlslett et al (2014) Early assessement of strain echocardiography can accurately exclude significant 
coronary artery stenosis in suspected non-ST elevation acute coronary syndrome. J Am Society of E 2014; 
27: 512-518.
8. Eeket C. et al (2010). Strain echocardiography predicts acute coronary occlusion in patients with non-ST-
segment elevation acute coronary syndrome, EuropeanJournal of Echocardiography (2010).11: 501–508.
9. Graham Cole et al (2010). Diagnosing coronary artery occlusion in NSTEACS with strain 
echocardiography. Heart October 2010, 96(19), 1516 - 1517.
10. Glesdal O HE, Vardal T, Lunde K, Helle- Valle T et al (2007). Global longitudinal strain 
measured by two dimentional speckle tracking echocardiography is closely related to myocardial size in 
chronic ishemic heart disease. Clin Sci 113
11. Members of the Chamber Quantification Writing Group: Roberto M. Lang, Michelle Bierig, Richard B. 
Devereux, Frank A. Flachskampf, Elyse Foster, Patricia A. Pellikka, Michael H. Picard, Mary J. Roman, 
ventricular ejection fraction were examined by echocardiography immediately prior to coronary 
angiography. Thirty patients had acute coronary occlusion (33,0%). Regional myocardial function was 
assessed by two methods: longitudinal strain by speckle tracking echocardiography and wall motion 
score (WMS) by visual assessments. Global strain ≥ -15,9% (OR 3,07; 95% CI: 1,39-13,91) and an area 
of 4 adjacent dysfunction segments with strain≥-14% (OR: 11,12; 95% CI: 1,96-62,95) predicted acute 
coronary occlusion with sensitivity of 66,67% and 93,3%, respectively, specificity of 85,2% and 72,83%, 
respectively. WMS demonstrated slightly less accuracy than strain. Speckle tracking echocardiography 
had the sensitivity in predicting occlusion of LAD artery, and circumflex artery and RCA of 75%, 83,3%, 
91,7%, respectively, and the specificity of 64,6%, 57,6%, 60,8%, respectively. 
CONCLuSiON: In patients with NSTE-ACS and preserved left ventricular ejection fraction, 
speckle tracking echocardiography identifies patients with acute coronary occlusion, who may benefit 
from urgent reperfusion therapy.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015108
James Seward, Jack S. Shanewise, Scott D. Solomon, Kirk T. Spencer, MD, Martin St John Sutton, and 
William J. Stewart. “Recommendations for Chamber Quantification: A Report from the American 
Society of Echocardiography’s Guidelines and Standards Committee and the Chamber Quantification 
Writing Group, Developed in Conjunction with the European Association of Echocardiography, a Branch 
of the European Society of Cardiology” J Am Soc Echocardiogr 2005;18:1440-1463
12. Victor Mor-Avi, Roberto M. Lang, Luigi P. Badano, et al (2011) “Current and Evolving 
Echocardiographic Techniques for the Quantitative Evaluation of Cardiac Mechanics: ASE/
EAE Consensus Statement on Methodology and Indications. Endorsed by the Japanese Society of 
Echocardiography” J Am Soc Echocardiogr;24:277-313.
13. Wei Chuan Tsai yWL, yao yi Huang et al (2010) Diagnostic value of segmental longitudinal 
strain by automated function imaging in coronary artery disease without left ventricular dysfunction. J Am 
SocEchocardiography. 23: 1183-1189.
14. Wang J, Khoury DS., yue y, Torre-Amione G., Nagueh SF (2008). Preserved left ventricular twist and 
circumferenial deformation, but depressed longitudinal and radial deformation in patients with diastolic 
heart failure.Eur Heart J 2008; 29: 1283 - 9.

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_cua_phuong_phap_sieu_am_speckle_tracking_trong_du_do.pdf