Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối

Mục tiêu: Cửa xuyên vách sau khớp gối giúp cải thiện tầm nhìn nội soi tại những

vùng vù ở khoang sau khớp gối. Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ và vị trí vùng

quan sát được qua nội soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, điểm

bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa

sau bên (trong, ngoài), cửa sau xuyên vách, và so sánh khả năng quan sát của cửa

xuyên vách với các cửa còn lại.

Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt case, tiến hành trên 14 mẫu khớp gối của

xác tươi tại bôn môn Giải Phẫu trường ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối

Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
137
Đỗ Phước Hùng *, 
Nguyễn Hoàng Trung**
*Trưởng bộ môn CTCH 
& PHCN- Đại học Y Dược 
tp HCM. 
** Bộ môn CTCH & 
PHCN- Đại học Y Dược 
tp HCM. 
Sđt: 0974234135, email: 
dr.nguyenhoangtrung@
gmail.com
GIÁ TRỊ CỦA CỬA XUYÊN VÁCH QUA NỘI SOI 
TRONG XÓA ĐIỂM MÙ KHOANG SAU KHỚP GỐI
THE ARTHROSCOPIC VALUATION OF 
POSTERIOR TRANS-SEPTAL PORTAL FOR 
CLEARING BLIND SPOT AT POSTERIOR 
COMPARTMENT OF KNEE JOINT.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Cửa xuyên vách sau khớp gối giúp cải thiện tầm nhìn nội soi tại những 
vùng vù ở khoang sau khớp gối. Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ và vị trí vùng 
quan sát được qua nội soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, điểm 
bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa 
sau bên (trong, ngoài), cửa sau xuyên vách, và so sánh khả năng quan sát của cửa 
xuyên vách với các cửa còn lại.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt case, tiến hành trên 14 mẫu khớp gối của 
xác tươi tại bôn môn Giải Phẫu trường ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh.
Kết quả: đối với sừng sau Sụn chêm ngoài: vùng quan sát của cửa xuyên 
vách chiếm tỉ lệ 92,1%, vị trí vùng mù là 1/4 sau, cửa xuyên khuyết gian lồi 
cầu là 35,79%, vùng mù là 1/4 giữa-sau (p1gs.tb=56,76%), 1/4 giữa-trước, 1/4 
trước , cửa sau ngoài quan sát được là 63,09%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p3s.
tb=89,64%),1/4 trước (p3t.tb=49,1%), tỉ lệ quan sát của cửa sau trong là 0%. 
Đối với sừng sau Sụn chêm trong: vùng quan sát của cửa xuyên vách có tỉ lệ 
79,5%, có 2 vị trí vùng mù là 1/4 sau (p4s.tb=28,6%),1/4 trước (p4t.tb=53,7%), 
cửa xuyên khuyết gian lồi cầu là 12,06%, vùng mù gần như toàn bộ 3/4 trước, tại 
vị trí 1/4 sau vùng mù có tỉ lệ p1s.tb=55%, cửa sau trong quan sát được 52,5%, 
vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p2s.tb=71,96%), 1/4 trước, và 1 phần nhỏ tại vị trí 1/4 
giữa-trước (p2gt.tb=21,7%), cửa sau ngoài hoàn toàn không quan sát được. Cửa 
xuyên vách quan sát được toàn bộ diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau, 
cửa xuyên khuyết gian lồi cầu không quan sát được, cửa sau bên (trong, ngoài) 
quan sát được 1 phần. Cửa xuyên vách có tỉ lệ vùng quan sát lớn hơn so với các 
cửa còn lại (p<0,05). Ngoài ra,với cửa xuyên vách chúng tôi còn quan sát được 
gân cơ khoeo đoạn trong khớp.
Kết luận: nghiên cứu cho kết quả định lượng về kích thước, tỉ lệ vùng quan sát 
của các cửa nội soi, và vị trí cụ thể các vùng mù. Từ đó cho thấy cửa xuyên vách 
có khả năng quan sát vượt trội so với các cửa nội soi còn lại, xóa bỏ phần lớn các 
vùng mù ở khoang sau khớp gối.
Do Phuoc Hung *, 
Nguyen Hoang Trung**
ABSTRACT
Background and aims: posterior trans-septal portal improved the visualization, 
and clearing blind spot at posterior compartment of knee joint. This study was 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
138
undertaken to determine the arthroscopic prevalence and position of visualization 
at medial, lateral meniscus, tibial insertion of posterior cruciate ligament (PCL) 
by trans-notch view, posteromedial portal, posterolateral portal and posterior 
tran-septal portal. Compairing posterior tran-septal portal with other portals.
Method: Case series study design was used. Fourteen fresh frozen human cadevic 
knees were assessed arthroscopically via trans-notch view, posteromedial portal, 
posterolateral portal and posterior tran-septal portal. After that, they were 
arthrotomy to define visual zone.
Result: for lateral meniscus: visual prevalence averaged 92,1% with posterior 
trans-septal portal versus 35,79% with trans-notch view, 63,09% with 
posterolateral portal, and 0% with posteromedial portal. Position of blind zone was 
1/4 posterior with posterior trans-septal portal versus 1/4 medial-posterior (p1gs.
tb=56,76%), 1/4 medial-anterior, 1/4 anterior with trans-notch view, 1/4 posterior 
(p3s.tb=89,64%),1/4 anterior (p3t.tb=49,1%) with posterolateral portal. For 
medial meniscus visual prevalence averaged 79,5% with posterior trans-septal 
portal versus 12,06% with trans-notch view, 52,5% with posteromedial portal, 
and posterolateral can not visualize. Position of blind zone was 1/4 posterior (p4s.
tb=28,6%), 1/4 anterior (p4t.tb=53,7%) with posterior trans-septal portal versus 
3/4 anterior, 1/4 posterior (p1s.tb=55%) with trans-notch view, 1/4 posterior (p2s.
tb=71,96%), 1/4 anterior, 1/4 medial-anterior (p2gt.tb=21,7%) with posteromedial 
portal. Tibial insertion of PCL could be visualized totally by posterior trans-septal 
portal, but other portals could not. The visualization of posterior trans-septal 
portal was the best, the difference was statistic significant (p<0,05). In addition, 
popliteus tendon could be visualized by posterior trans-septal portal.
Conclusion: this study shows the quantitative results of size and prevalence of 
arthroscopic visualization, position of blind zones. So that, the posterior trans-
septal portal has the best visualization, clearing almost blind zones of posterior 
compartment.
ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Phẫu thuật nội soi khoang sau khớp gối có nhiều ứng 
dụng: tái tạo dây chằng chéo sau, đính lại chỗ bám dây 
chằng chéo sau, khâu sừng sau sụn chêm, lấy chuột khớp 
hoặc cắt hoạt mạc viêm ở khoang sau khớp gối. Quan 
sát các thành phần ở khoang sau khớp gối còn nhiều hạn 
chế, và thường bỏ sót tổn thương (29). Để thấy được 
khoang sau khớp gối qua nội soi, nhiều cửa vào đã được 
mô tả. Với phương pháp nhìn qua hố gian lồi cầu vùng 
mù của sừng sau sụn chêm trong trung bình là 21.5% 
(Theo Morin và Steadman). Khi thành lập cửa nội soi 
phía sau trong cũng chỉ làm giảm vùng mù ở khoang 
sau trong khớp gối từ 21.5% xuống còn 8.4%, mà không 
làm tăng thêm khoảng không gian thao tác ở khoang sau 
khớp gối và kèm theo đó là nguy cơ tổn thương bó mạch 
thần kinh hiển (29). Cửa xuyên vách xóa được phần 
lớn các vùng mù, làm rộng khoảng thao tác ở khoang 
sau khớp gối (4). Nhiều kĩ thuật tạo của xuyên vách đã 
chứng minh được tính an toàn, hiệu quả (1),(10),(34). 
Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá cụ thể về giá trị 
của cửa xuyên vách sau khớp gối trong việc cải tiến tầm 
nhìn nội soi đối với những vùng mù của khoang sau.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 
1) Xác định tỉ lệ và vị trí vùng quan sát được qua nội 
soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, 
điểm bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng 
cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa sau bên (trong, 
ngoài), cửa sau xuyên vách. 
2) So sánh vùng quan sát của cửa xuyên vách với các 
cửa còn lại.
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
139
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
Thiết kế nghiên cứu mô tả loạt case. Nghiên cứu tiến 
hành trên 14 mẫu khớp gối của xác tươi bảo quản tại 
bộ môn Giải Phẫu ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh. Mẫu 
được chọn là những khớp gối trên xác tươi, được kiểm 
tra độ vững với các test Lachman, ngăn kéo trước, sau, 
và test dạng, khép. Loại bỏ những mẫu khớp gối có bằng 
chứng chấn thương, gãy xương vùng gối, những khớp 
gối có u, bướu làm thay đổi cấu trúc, hay các khớp gối 
thoái hóa nặng, có lệch trục trên lâm sàng. Với các mẫu 
đã chọn, chúng tôi tiến hành nội soi quan sát sụn chêm 
trong, ngoài, diện bám mâm chày của dây chằng chéo 
sau và đánh dấu vùng quan sát được của các cửa nội soi 
(xuyên khuyết gian lồi cầu, sau trong, sau ngoài, xuyên 
vách) bằng các kim màu khác nhau qui ước cho từng 
của. Sau đó, chúng tôi tiến hành phẫu tích, xác định và 
đo đạc vùng quan sát của các của nội soi dựa vào vị trí 
các kim màu đánh dấu.
KẾT QUẢ: 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 14 mẫu 
khớp gối trên xác tươi, gồm 4 nam, 3 nữ, tuổi trung bình 
69,3 tuổi. Kết quả thu được như sau:
Hình 1: Khoang sau khớp gối được phẫu tích sau khi nội soi quan sát, đánh dấu
Hình 2: Sơ đồ vùng quan sát của các cửa nội soi 
đối với sụn chêm ngoài.
 Màu xanh: phẫu trường của cửa xuyên 
khuyết gian lồi cầu
 Màu vàng: phẫu trường của cửa sau ngoài
 Màu đỏ: phẫu trường của cửa xuyên vách 
nhìn từ trong ra
Vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm 
ngoài: vùng quan sát của cửa xuyên vách chiếm tỉ lệ 
92,1%, vị trí vùng mù là 1/4 sau, cửa xuyên khuyết 
gian lồi cầu là 35,79%, vùng mù là 1/4 giữa-sau (p1gs.
tb=56,76%), 1/4 giữa-trước, 1/4 trước , cửa sau ngoài 
quan sát được là 63,09%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p3s.
tb=89,64%),1/4 trước (p3t.tb=49,1%), tỉ lệ quan sát của 
cửa sau trong là 0%.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
140
Vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm 
trong: vùng quan sát của cửa xuyên vách có tỉ lệ 79,5%, 
có 2 vị trí vùng mù là 1/4 sau (p4s.tb=28,6%),1/4 
trước (p4t.tb=53,7%), cửa xuyên khuyết gian lồi cầu 
là 12,06%, vùng mù gần như toàn bộ 3/4 trước, tại vị 
trí 1/4 sau vùng mù có tỉ lệ p1s.tb=55%, cửa sau trong 
quan sát được 52,5%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p2s.
tb=71,96%), 1/4 trước, và 1 phần nhỏ tại vị trí 1/4 giữa-
trước (p2gt.tb=21,7%), cửa sau ngoài hoàn toàn không 
quan sát được.
Hình 2: Sơ đồ vùng quan sát của các cửa nội soi 
đối với sụn chêm trong.
 Màu vàng: phẫu trường của cửa xuyên 
khuyết gian lồi cầu
 Màu đỏ: phẫu trường của cửa sau trong
 Màu xanh: phẫu trường của cửa xuyên vách 
nhìn từ trong ra
Hình 3: Gân cơ khoeo (*) được quan sát qua cửa xuyên vách nhìn từ trong ra 
Diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau: cửa 
xuyên khuyết gian lồi cầu không quan sát được, cửa sau 
bên (trong, ngoài) quan sát được 1 phần diện bám này. 
Với cửa xuyên vách, ta có thể quan sát toàn bộ diện bám 
mâm chày của dây chằng chéo sau.
 Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi khi sử 
dụng cửa xuyên vách ta còn quan sát được gân cơ khoeo 
đoạn trong khớp. Đây là 1 phát hiện mới này của đề tài
BÀN LUẬN: 
Năm 2000, tác giả Ahn và cộng sự lần đầu mô tả kĩ 
thuật thành lập cửa xuyên vách an toàn và hiệu quả(10).
Kĩ thuật tạo cửa xuyên vách đã có nhiều cải tiến (1),(34), 
và được ứng dụng rộng rãi (4),(11),(19),(25),(27),(33). 
Các tác giả đều nhận thấy khả năng cải thiện tầm nhìn 
nội soi rất tốt của cửa xuyên vách đối với các thành phần 
ở khoang sau khớp gối, xóa bỏ hầu hết cá vùng mù. Tuy 
nhiên, kết quả trong các nghiên cứu này là kết quả định 
tính. Với 14 mấu khớp gối tiến hành nghiên cứu, chúng 
tôi đã cho thấy kết quả định lượng về kích thước, tỉ lệ 
vùng quan sát của các cửa nội soi, đồng thời chỉ ra vị trí 
vùng mù của các cửa nội soi này với các thành phần ở 
khoang sau khớp gối. Với các kết quả thu được cho thấy 
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
141
cửa xuyên vách có khả năng quan sát tốt hơn các cửa 
còn lại. Vùng quan sát của cửa xuyên vách là 92,1% (đối 
với sụn chêm ngoài), 79,5% (đối với sụn chêm trong), 
trong khi vùng quan sát của các cửa còn lại đều chiếm 
tỉ lệ thấp hơn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với 
p<0,05. Kết quả này phù hợp với các tác giả Ahn, Ha, 
Yip, Hamula, Ohishi (10),(11),(19),(25),(27),(33). Với 
kết quả này, chúng tôi nhận thấy với mỗi cửa nội soi đều 
tồn tại vùng mù, và ngay cả với cửa xuyên vách cũng 
vậy, đây cũng là hạn chế của cửa xuyên vách mà các 
nghiên cứu trước chưa nói tới. Nghiên cứu còn chỉ ra 
được cụ thể vị trí vùng mù của từng cửa nội soi đối với 
các thành phần khảo sát ở khoang sau khớp gối. Nhờ vậy, 
chúng tôi nhận thấy rằng sự phối hợp các cửa nội soi là 
cần thiết để có được sự quan sát tốt nhất đối với khoang 
sau khớp gối. Cửa xuyên vách cho phép ta quan sát toàn 
bộ diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau, với cửa 
xuyên khuyết gian lồi cầu ta không quan sát được, hay 
với các cửa sau bên cũng chỉ quan sát được 1 phần. Điều 
này do đặc điểm giải phẫu của diện bám này nằm thấp 
dưới bờ mặt khớp của mâm chày và bị che phủ phía trên 
bới vách sau khớp gối (1),(2),(8). Phát hiện mới của đề 
tài chính là kả năng qua sát và tiếp cận gân cơ khoeo 
đoạn trong khớp của cửa xuyên vách. Gân cơ khoeo là 
thành phần quan trọng của góc sau ngoài, tổn thương 
gân cơ khoeo trong chấn thương thể thao ngày càng phổ 
biến và cần điều trị, và việc điều trị tổn thương này qua 
nội soi là 1 bước phát triển mới (3),(18),(23),(28). Cửa 
xuyên vách hứa hẹn có thể sử dụng trong điều trị tổn 
thương gân cơ khoeo qua nội soi.
KẾT LUẬN: 
Nghiên cứu cho kết quả định lượng về kích thước, tỉ 
lệ vùng quan sát của các cửa nội soi, và vị trí cụ thể các 
vùng mù. Từ đó cho thấy cửa xuyên vách có khả năng 
quan sát vượt trội so với các cửa nội soi còn lại, xóa bỏ 
phần lớn các vùng mù ở khoang sau khớp gối.
Tài liệu tham khảo
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
[1] Lê Viết Cẩn, (2013), “Bước đầu nghiên cứu giải phẫu ứng 
dụng vách sau khớp gối”.
[2] Trần Bình Dương, (2010), “ Bước đầu nghiên cứu giải phẫu 
học dây chằng chéo sau ở người Việt Nam”.
[3] Lê Hoàng Trúc Phương, (2014), “Nghiên cứu giải phẫu 
ứng dụng góc sau ngoài khớp gối”.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
[4] Ahn.J.H. L. Y. S., và Ha.H.C. (2008), “Arthroscopic 
management of the postero-medial or postero-lateral 
capsule tear in the knee joint”, Knee Surg Sports Traumatol 
Arthroscopy. số 16, pp. trang 24 - 28.
[5] Brian P.Mckeon J. V. B., và John C.Richmond, “knee 
arthroscopy”, pp. trang 4 - 7.
[6] Burke.D.L A. A. M. v. (1983), “ Invitro measurement of 
static pressure distribution in synovial joint”, Journal of 
Biomechanical Engineering. số 105, pp. trang 216 - 225.
[7] Charalampos.A.M. A. D. G., Papageorgiou.C.D., và 
Soucacos.N.P (2000), “Posterior cruciate ligament 
architecture: evaluation under microsurgical dissection”, 
The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 16, pp. 
trang 627 - 632.
[8] Drez.D. R. J. v. (1994), “Posterior cruciate ligament tibial 
attachement anatomy and radiographic landmarks for tibial 
tunnel placement in PCL reconstruction”, The Journal of 
Arthroscopic and Related Surgery. số 10, pp. trang 546 - 549.
[9] Gillquist P. P. M. I. v. J. (1981), “The Blind Spots 
in Arthroscopic Approaches,An Anatomical Study”, 
Internationale Orthopaedics (SICOT). số 5, pp. trang 
257 - 263.
[10] Ha.C.W A. J. H. v. (2000), “Posterior trans-septal portal 
for arthroscopic surgery of the knee joint”, The Journal of 
Arthroscopic and Related Surgery. số 16, pp. trang 774 - 
779.
[11] Hamula.M. S. A. E., và Kelly.J.D (2012), “Arthroscopis 
trans-septal portal to treat extension deficits from 
arthrofibrosis”, he University of Pensylvania Orthopaedic 
Journal. số 22, pp. trang 21 - 25.
[12] Inderster.A. B. K. P., Klestil.T., và Caber.O (1995), “Fiber 
orientation of posterior cruciate ligament: an experimental 
morphological and functional study”, Clinical Anatomy. số 8, 
pp. trang 315 - 322.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
142
[13] Iriuchishima.T T. G. v. (2009), “Morphology of the tibial 
insertion of posterior cruciate ligament”, The Journal of Bone 
and Joint Surgery. số 91, pp. trang 859 - 866.
[14] J. Gillquist* G. H., và N. Oretorp (1979), “Arthroscopic 
Examination of the Posteromedial Compartment of the Knee 
Joint”, International Orthopaedics (SICOT). số 3, pp. trang 
13 - 18.
[15] JL W. L. v. M. (1979), “The supporting structures and layers 
of the medial side of the knee”, J Bone Joint Surg. số 61A, 
pp. trang 56 -62.
[16] Kim.S.J. S. H. T., Moon.H.K., Chun.Y.M., và Chang.W.H. 
(2011), “The safe establishment of a transseptal portal in the 
posterior knee”, Knee Surg SportsTraumatol Artroscopy. số 
19, pp. trang 1320 - 1325.
[17] Kramer.D.E. B. M. S., Cosgarea.A.J., và Casio.B.M. 
(2006), “Posterior knee arthroscopy, anatomy, technique, 
application”, The Journal of Bone and Joint Surgery. số 88, 
pp. trang 110 - 121.
[18] LaPrade RF M P., Ly TV, MD, Wentorf FA, MS, and, 
Engebretsen M, PhD (2003), “The Posterolateral 
Attachments of the Knee. A Qualitative and Quantitative 
Morphologic Analysis of the Fibular Collateral Ligament, 
Popliteus Tendon, Popliteofibular Ligament, and Lateral 
Gastrocnemius Tendon”, THE AMERICAN JOURNAL OF 
SPORTS MEDICINE. 31(6), pp. trang 856-859.
[19] Lee.Y.S. A. J. H., và Min.B.H. (2011), “Arthroscopic loose 
body removal and cyst decompression using a posterior 
trans-septal portal in the blind spot during knee arthroscopy”, 
The knee. số 18, pp. trang 55 - 58.
[20] Leonardo Addêo Ramos P. D. M. D., M.D. Diego Astur, 
João Victor Novaretti, B.S.Leandro Masini Ribeiro, M.D. 
B.S.Rogério Teixeira de Carvalho, M.D. Moisés Cohen, 
M.D. M.S. Ph.D. Sheila J. McNeill Ingham, và M.D. René 
Jorge Abdalla, Ph.D, “An Anatomic Study of the Posterior 
Septum of the Knee.”.
[21] Leonardo Addêo Ramos R. T. d. C., Ph.D. Moisés Cohen, 
và Ph.D. Rene Jorge Abdalla, “Anatomic Relation Between 
the Posterior Cruciate Ligament and the Joint Capsule.”.
[22] Lubowitz JH R. M., Baker BS, và Guttmann D (2004), 
“Arthroscopic visualization of the posterior compartments of 
the knee”, Arthroscopy. số 20, pp. trang 675 - 680.
[23] Lunden P D., SCS1 • Bzdusek, PT, ATR2 • Monson, PT, 
CSCS, MalcoMson P, • LaPrade M, PhD5 (2010), “Current 
Concepts in the Recognition and Treatment of Posterolateral 
Corner Injuries of the Knee”, journal of orthopaedic & sports 
physical therapy. 40, pp. trang 502-503.
[24] M.D. David L. Gold B. S. P. J. S., và M.D. Alexander A. 
Sapega, “The Posteromedial Portal in Knee Arthroscopy: 
An Analysis of Diagnostic and Surgical Utility”.
[25] M.D. Jin Hwan Ahn M. D. Y. S. C., và M.D. Irvin Oh, 
“Arthroscopic Posterior Cruciate Ligament Reconstruction 
Using the Posterior Trans-septal Portal.”.
[26] M.D. Stephane Louisia M. D. O. C., và M.D. Philippe 
Beaufils “Posterior “Back and Forth” Approach in 
Arthroscopic Surgery on the Posterior Knee Compartments”, 
Technical Note.
[27] Ohishi T. (2014), “Arthroscopic Debridement of the Posterior 
Compartment of the Knee after Total Knee Arthroplasty”, 
Case Reports in Orthopedics. Volume 2014 (2014), pp. 
Article ID 568417, 568416 pages.
[28] Salzler MJ M. S. (2012), “All-arthroscopic anatomic repair 
of an avulsed popliteus tendon in a multiple ligament-injured 
knee.”, Orthopedics. 35(6).
[29] Sapega.S.S. T. B. S. v. (1993), “ Arthroscopic visual 
field mapping at the periphery of the medial meniscus: a 
comparison of different portal approaches”, Arthroscopy. số 
19, pp. trang 321 - 325.
[30] Shep.M.D. O. D., và Fernhout.M. (2005), “The anatomic 
characteristics of the tibial insertion of the posterior cruciate 
ligament”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. 
số 21, pp. trang 820 - 825.
[31] Shinya.N. Y. K., và Ohkoshi.Y. (2006), “The incidence 
and cross- sectional area of meniscofemoral ligament”, he 
American Journal of Sports Medecine. số 34, pp. trang 1345 
- 1351.
[32] Steadman.J.R M. W. D. v. (1993), “Arthroscopic 
assessment of the posterior compartments of the knee via 
the intercondylar notch”, Arthroscopy. số 9, pp. trang 284-
290.
[33] Yip.D.K. W. J. W., và Chien E.P. (2003), “Arthroscopic 
surgery in the posterior compartment of the knee: suture 
fixation of anterior and posterior ligament avulsions”, The 
Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 19, pp. 
trang 1 - 4.
[34] Stephane Louisia M. D. et al., “Posterior “Back and Forth” 
Approach in Arthroscopic Surgery on the Posterior Knee 
Compartments”, Technical Note.

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_cua_cua_xuyen_vach_qua_noi_soi_trong_xoa_diem_mu_kho.pdf