Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối
Mục tiêu: Cửa xuyên vách sau khớp gối giúp cải thiện tầm nhìn nội soi tại những
vùng vù ở khoang sau khớp gối. Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ và vị trí vùng
quan sát được qua nội soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, điểm
bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa
sau bên (trong, ngoài), cửa sau xuyên vách, và so sánh khả năng quan sát của cửa
xuyên vách với các cửa còn lại.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt case, tiến hành trên 14 mẫu khớp gối của
xác tươi tại bôn môn Giải Phẫu trường ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của cửa xuyên vách qua nội soi trong xóa điểm mù khoang sau khớp gối
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 137 Đỗ Phước Hùng *, Nguyễn Hoàng Trung** *Trưởng bộ môn CTCH & PHCN- Đại học Y Dược tp HCM. ** Bộ môn CTCH & PHCN- Đại học Y Dược tp HCM. Sđt: 0974234135, email: dr.nguyenhoangtrung@ gmail.com GIÁ TRỊ CỦA CỬA XUYÊN VÁCH QUA NỘI SOI TRONG XÓA ĐIỂM MÙ KHOANG SAU KHỚP GỐI THE ARTHROSCOPIC VALUATION OF POSTERIOR TRANS-SEPTAL PORTAL FOR CLEARING BLIND SPOT AT POSTERIOR COMPARTMENT OF KNEE JOINT. TÓM TẮT Mục tiêu: Cửa xuyên vách sau khớp gối giúp cải thiện tầm nhìn nội soi tại những vùng vù ở khoang sau khớp gối. Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ và vị trí vùng quan sát được qua nội soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, điểm bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa sau bên (trong, ngoài), cửa sau xuyên vách, và so sánh khả năng quan sát của cửa xuyên vách với các cửa còn lại. Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt case, tiến hành trên 14 mẫu khớp gối của xác tươi tại bôn môn Giải Phẫu trường ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh. Kết quả: đối với sừng sau Sụn chêm ngoài: vùng quan sát của cửa xuyên vách chiếm tỉ lệ 92,1%, vị trí vùng mù là 1/4 sau, cửa xuyên khuyết gian lồi cầu là 35,79%, vùng mù là 1/4 giữa-sau (p1gs.tb=56,76%), 1/4 giữa-trước, 1/4 trước , cửa sau ngoài quan sát được là 63,09%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p3s. tb=89,64%),1/4 trước (p3t.tb=49,1%), tỉ lệ quan sát của cửa sau trong là 0%. Đối với sừng sau Sụn chêm trong: vùng quan sát của cửa xuyên vách có tỉ lệ 79,5%, có 2 vị trí vùng mù là 1/4 sau (p4s.tb=28,6%),1/4 trước (p4t.tb=53,7%), cửa xuyên khuyết gian lồi cầu là 12,06%, vùng mù gần như toàn bộ 3/4 trước, tại vị trí 1/4 sau vùng mù có tỉ lệ p1s.tb=55%, cửa sau trong quan sát được 52,5%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p2s.tb=71,96%), 1/4 trước, và 1 phần nhỏ tại vị trí 1/4 giữa-trước (p2gt.tb=21,7%), cửa sau ngoài hoàn toàn không quan sát được. Cửa xuyên vách quan sát được toàn bộ diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau, cửa xuyên khuyết gian lồi cầu không quan sát được, cửa sau bên (trong, ngoài) quan sát được 1 phần. Cửa xuyên vách có tỉ lệ vùng quan sát lớn hơn so với các cửa còn lại (p<0,05). Ngoài ra,với cửa xuyên vách chúng tôi còn quan sát được gân cơ khoeo đoạn trong khớp. Kết luận: nghiên cứu cho kết quả định lượng về kích thước, tỉ lệ vùng quan sát của các cửa nội soi, và vị trí cụ thể các vùng mù. Từ đó cho thấy cửa xuyên vách có khả năng quan sát vượt trội so với các cửa nội soi còn lại, xóa bỏ phần lớn các vùng mù ở khoang sau khớp gối. Do Phuoc Hung *, Nguyen Hoang Trung** ABSTRACT Background and aims: posterior trans-septal portal improved the visualization, and clearing blind spot at posterior compartment of knee joint. This study was TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 138 undertaken to determine the arthroscopic prevalence and position of visualization at medial, lateral meniscus, tibial insertion of posterior cruciate ligament (PCL) by trans-notch view, posteromedial portal, posterolateral portal and posterior tran-septal portal. Compairing posterior tran-septal portal with other portals. Method: Case series study design was used. Fourteen fresh frozen human cadevic knees were assessed arthroscopically via trans-notch view, posteromedial portal, posterolateral portal and posterior tran-septal portal. After that, they were arthrotomy to define visual zone. Result: for lateral meniscus: visual prevalence averaged 92,1% with posterior trans-septal portal versus 35,79% with trans-notch view, 63,09% with posterolateral portal, and 0% with posteromedial portal. Position of blind zone was 1/4 posterior with posterior trans-septal portal versus 1/4 medial-posterior (p1gs. tb=56,76%), 1/4 medial-anterior, 1/4 anterior with trans-notch view, 1/4 posterior (p3s.tb=89,64%),1/4 anterior (p3t.tb=49,1%) with posterolateral portal. For medial meniscus visual prevalence averaged 79,5% with posterior trans-septal portal versus 12,06% with trans-notch view, 52,5% with posteromedial portal, and posterolateral can not visualize. Position of blind zone was 1/4 posterior (p4s. tb=28,6%), 1/4 anterior (p4t.tb=53,7%) with posterior trans-septal portal versus 3/4 anterior, 1/4 posterior (p1s.tb=55%) with trans-notch view, 1/4 posterior (p2s. tb=71,96%), 1/4 anterior, 1/4 medial-anterior (p2gt.tb=21,7%) with posteromedial portal. Tibial insertion of PCL could be visualized totally by posterior trans-septal portal, but other portals could not. The visualization of posterior trans-septal portal was the best, the difference was statistic significant (p<0,05). In addition, popliteus tendon could be visualized by posterior trans-septal portal. Conclusion: this study shows the quantitative results of size and prevalence of arthroscopic visualization, position of blind zones. So that, the posterior trans- septal portal has the best visualization, clearing almost blind zones of posterior compartment. ĐẶT VẤN ĐỀ: Phẫu thuật nội soi khoang sau khớp gối có nhiều ứng dụng: tái tạo dây chằng chéo sau, đính lại chỗ bám dây chằng chéo sau, khâu sừng sau sụn chêm, lấy chuột khớp hoặc cắt hoạt mạc viêm ở khoang sau khớp gối. Quan sát các thành phần ở khoang sau khớp gối còn nhiều hạn chế, và thường bỏ sót tổn thương (29). Để thấy được khoang sau khớp gối qua nội soi, nhiều cửa vào đã được mô tả. Với phương pháp nhìn qua hố gian lồi cầu vùng mù của sừng sau sụn chêm trong trung bình là 21.5% (Theo Morin và Steadman). Khi thành lập cửa nội soi phía sau trong cũng chỉ làm giảm vùng mù ở khoang sau trong khớp gối từ 21.5% xuống còn 8.4%, mà không làm tăng thêm khoảng không gian thao tác ở khoang sau khớp gối và kèm theo đó là nguy cơ tổn thương bó mạch thần kinh hiển (29). Cửa xuyên vách xóa được phần lớn các vùng mù, làm rộng khoảng thao tác ở khoang sau khớp gối (4). Nhiều kĩ thuật tạo của xuyên vách đã chứng minh được tính an toàn, hiệu quả (1),(10),(34). Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá cụ thể về giá trị của cửa xuyên vách sau khớp gối trong việc cải tiến tầm nhìn nội soi đối với những vùng mù của khoang sau. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 1) Xác định tỉ lệ và vị trí vùng quan sát được qua nội soi của sừng sau sụn chêm trong, sụn chêm ngoài, điểm bám mâm chày của dây chằng chéo sau bằng cửa xuyên khuyết gian lồi cầu, cửa sau bên (trong, ngoài), cửa sau xuyên vách. 2) So sánh vùng quan sát của cửa xuyên vách với các cửa còn lại. Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 139 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thiết kế nghiên cứu mô tả loạt case. Nghiên cứu tiến hành trên 14 mẫu khớp gối của xác tươi bảo quản tại bộ môn Giải Phẫu ĐH Y Dược Tp Hồ Chí Minh. Mẫu được chọn là những khớp gối trên xác tươi, được kiểm tra độ vững với các test Lachman, ngăn kéo trước, sau, và test dạng, khép. Loại bỏ những mẫu khớp gối có bằng chứng chấn thương, gãy xương vùng gối, những khớp gối có u, bướu làm thay đổi cấu trúc, hay các khớp gối thoái hóa nặng, có lệch trục trên lâm sàng. Với các mẫu đã chọn, chúng tôi tiến hành nội soi quan sát sụn chêm trong, ngoài, diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau và đánh dấu vùng quan sát được của các cửa nội soi (xuyên khuyết gian lồi cầu, sau trong, sau ngoài, xuyên vách) bằng các kim màu khác nhau qui ước cho từng của. Sau đó, chúng tôi tiến hành phẫu tích, xác định và đo đạc vùng quan sát của các của nội soi dựa vào vị trí các kim màu đánh dấu. KẾT QUẢ: Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 14 mẫu khớp gối trên xác tươi, gồm 4 nam, 3 nữ, tuổi trung bình 69,3 tuổi. Kết quả thu được như sau: Hình 1: Khoang sau khớp gối được phẫu tích sau khi nội soi quan sát, đánh dấu Hình 2: Sơ đồ vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm ngoài. Màu xanh: phẫu trường của cửa xuyên khuyết gian lồi cầu Màu vàng: phẫu trường của cửa sau ngoài Màu đỏ: phẫu trường của cửa xuyên vách nhìn từ trong ra Vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm ngoài: vùng quan sát của cửa xuyên vách chiếm tỉ lệ 92,1%, vị trí vùng mù là 1/4 sau, cửa xuyên khuyết gian lồi cầu là 35,79%, vùng mù là 1/4 giữa-sau (p1gs. tb=56,76%), 1/4 giữa-trước, 1/4 trước , cửa sau ngoài quan sát được là 63,09%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p3s. tb=89,64%),1/4 trước (p3t.tb=49,1%), tỉ lệ quan sát của cửa sau trong là 0%. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 140 Vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm trong: vùng quan sát của cửa xuyên vách có tỉ lệ 79,5%, có 2 vị trí vùng mù là 1/4 sau (p4s.tb=28,6%),1/4 trước (p4t.tb=53,7%), cửa xuyên khuyết gian lồi cầu là 12,06%, vùng mù gần như toàn bộ 3/4 trước, tại vị trí 1/4 sau vùng mù có tỉ lệ p1s.tb=55%, cửa sau trong quan sát được 52,5%, vùng mù tại vị trí 1/4 sau (p2s. tb=71,96%), 1/4 trước, và 1 phần nhỏ tại vị trí 1/4 giữa- trước (p2gt.tb=21,7%), cửa sau ngoài hoàn toàn không quan sát được. Hình 2: Sơ đồ vùng quan sát của các cửa nội soi đối với sụn chêm trong. Màu vàng: phẫu trường của cửa xuyên khuyết gian lồi cầu Màu đỏ: phẫu trường của cửa sau trong Màu xanh: phẫu trường của cửa xuyên vách nhìn từ trong ra Hình 3: Gân cơ khoeo (*) được quan sát qua cửa xuyên vách nhìn từ trong ra Diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau: cửa xuyên khuyết gian lồi cầu không quan sát được, cửa sau bên (trong, ngoài) quan sát được 1 phần diện bám này. Với cửa xuyên vách, ta có thể quan sát toàn bộ diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau. Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi khi sử dụng cửa xuyên vách ta còn quan sát được gân cơ khoeo đoạn trong khớp. Đây là 1 phát hiện mới này của đề tài BÀN LUẬN: Năm 2000, tác giả Ahn và cộng sự lần đầu mô tả kĩ thuật thành lập cửa xuyên vách an toàn và hiệu quả(10). Kĩ thuật tạo cửa xuyên vách đã có nhiều cải tiến (1),(34), và được ứng dụng rộng rãi (4),(11),(19),(25),(27),(33). Các tác giả đều nhận thấy khả năng cải thiện tầm nhìn nội soi rất tốt của cửa xuyên vách đối với các thành phần ở khoang sau khớp gối, xóa bỏ hầu hết cá vùng mù. Tuy nhiên, kết quả trong các nghiên cứu này là kết quả định tính. Với 14 mấu khớp gối tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã cho thấy kết quả định lượng về kích thước, tỉ lệ vùng quan sát của các cửa nội soi, đồng thời chỉ ra vị trí vùng mù của các cửa nội soi này với các thành phần ở khoang sau khớp gối. Với các kết quả thu được cho thấy Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 141 cửa xuyên vách có khả năng quan sát tốt hơn các cửa còn lại. Vùng quan sát của cửa xuyên vách là 92,1% (đối với sụn chêm ngoài), 79,5% (đối với sụn chêm trong), trong khi vùng quan sát của các cửa còn lại đều chiếm tỉ lệ thấp hơn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết quả này phù hợp với các tác giả Ahn, Ha, Yip, Hamula, Ohishi (10),(11),(19),(25),(27),(33). Với kết quả này, chúng tôi nhận thấy với mỗi cửa nội soi đều tồn tại vùng mù, và ngay cả với cửa xuyên vách cũng vậy, đây cũng là hạn chế của cửa xuyên vách mà các nghiên cứu trước chưa nói tới. Nghiên cứu còn chỉ ra được cụ thể vị trí vùng mù của từng cửa nội soi đối với các thành phần khảo sát ở khoang sau khớp gối. Nhờ vậy, chúng tôi nhận thấy rằng sự phối hợp các cửa nội soi là cần thiết để có được sự quan sát tốt nhất đối với khoang sau khớp gối. Cửa xuyên vách cho phép ta quan sát toàn bộ diện bám mâm chày của dây chằng chéo sau, với cửa xuyên khuyết gian lồi cầu ta không quan sát được, hay với các cửa sau bên cũng chỉ quan sát được 1 phần. Điều này do đặc điểm giải phẫu của diện bám này nằm thấp dưới bờ mặt khớp của mâm chày và bị che phủ phía trên bới vách sau khớp gối (1),(2),(8). Phát hiện mới của đề tài chính là kả năng qua sát và tiếp cận gân cơ khoeo đoạn trong khớp của cửa xuyên vách. Gân cơ khoeo là thành phần quan trọng của góc sau ngoài, tổn thương gân cơ khoeo trong chấn thương thể thao ngày càng phổ biến và cần điều trị, và việc điều trị tổn thương này qua nội soi là 1 bước phát triển mới (3),(18),(23),(28). Cửa xuyên vách hứa hẹn có thể sử dụng trong điều trị tổn thương gân cơ khoeo qua nội soi. KẾT LUẬN: Nghiên cứu cho kết quả định lượng về kích thước, tỉ lệ vùng quan sát của các cửa nội soi, và vị trí cụ thể các vùng mù. Từ đó cho thấy cửa xuyên vách có khả năng quan sát vượt trội so với các cửa nội soi còn lại, xóa bỏ phần lớn các vùng mù ở khoang sau khớp gối. Tài liệu tham khảo TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT [1] Lê Viết Cẩn, (2013), “Bước đầu nghiên cứu giải phẫu ứng dụng vách sau khớp gối”. [2] Trần Bình Dương, (2010), “ Bước đầu nghiên cứu giải phẫu học dây chằng chéo sau ở người Việt Nam”. [3] Lê Hoàng Trúc Phương, (2014), “Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng góc sau ngoài khớp gối”. TÀI LIỆU TIẾNG ANH [4] Ahn.J.H. L. Y. S., và Ha.H.C. (2008), “Arthroscopic management of the postero-medial or postero-lateral capsule tear in the knee joint”, Knee Surg Sports Traumatol Arthroscopy. số 16, pp. trang 24 - 28. [5] Brian P.Mckeon J. V. B., và John C.Richmond, “knee arthroscopy”, pp. trang 4 - 7. [6] Burke.D.L A. A. M. v. (1983), “ Invitro measurement of static pressure distribution in synovial joint”, Journal of Biomechanical Engineering. số 105, pp. trang 216 - 225. [7] Charalampos.A.M. A. D. G., Papageorgiou.C.D., và Soucacos.N.P (2000), “Posterior cruciate ligament architecture: evaluation under microsurgical dissection”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 16, pp. trang 627 - 632. [8] Drez.D. R. J. v. (1994), “Posterior cruciate ligament tibial attachement anatomy and radiographic landmarks for tibial tunnel placement in PCL reconstruction”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 10, pp. trang 546 - 549. [9] Gillquist P. P. M. I. v. J. (1981), “The Blind Spots in Arthroscopic Approaches,An Anatomical Study”, Internationale Orthopaedics (SICOT). số 5, pp. trang 257 - 263. [10] Ha.C.W A. J. H. v. (2000), “Posterior trans-septal portal for arthroscopic surgery of the knee joint”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 16, pp. trang 774 - 779. [11] Hamula.M. S. A. E., và Kelly.J.D (2012), “Arthroscopis trans-septal portal to treat extension deficits from arthrofibrosis”, he University of Pensylvania Orthopaedic Journal. số 22, pp. trang 21 - 25. [12] Inderster.A. B. K. P., Klestil.T., và Caber.O (1995), “Fiber orientation of posterior cruciate ligament: an experimental morphological and functional study”, Clinical Anatomy. số 8, pp. trang 315 - 322. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 142 [13] Iriuchishima.T T. G. v. (2009), “Morphology of the tibial insertion of posterior cruciate ligament”, The Journal of Bone and Joint Surgery. số 91, pp. trang 859 - 866. [14] J. Gillquist* G. H., và N. Oretorp (1979), “Arthroscopic Examination of the Posteromedial Compartment of the Knee Joint”, International Orthopaedics (SICOT). số 3, pp. trang 13 - 18. [15] JL W. L. v. M. (1979), “The supporting structures and layers of the medial side of the knee”, J Bone Joint Surg. số 61A, pp. trang 56 -62. [16] Kim.S.J. S. H. T., Moon.H.K., Chun.Y.M., và Chang.W.H. (2011), “The safe establishment of a transseptal portal in the posterior knee”, Knee Surg SportsTraumatol Artroscopy. số 19, pp. trang 1320 - 1325. [17] Kramer.D.E. B. M. S., Cosgarea.A.J., và Casio.B.M. (2006), “Posterior knee arthroscopy, anatomy, technique, application”, The Journal of Bone and Joint Surgery. số 88, pp. trang 110 - 121. [18] LaPrade RF M P., Ly TV, MD, Wentorf FA, MS, and, Engebretsen M, PhD (2003), “The Posterolateral Attachments of the Knee. A Qualitative and Quantitative Morphologic Analysis of the Fibular Collateral Ligament, Popliteus Tendon, Popliteofibular Ligament, and Lateral Gastrocnemius Tendon”, THE AMERICAN JOURNAL OF SPORTS MEDICINE. 31(6), pp. trang 856-859. [19] Lee.Y.S. A. J. H., và Min.B.H. (2011), “Arthroscopic loose body removal and cyst decompression using a posterior trans-septal portal in the blind spot during knee arthroscopy”, The knee. số 18, pp. trang 55 - 58. [20] Leonardo Addêo Ramos P. D. M. D., M.D. Diego Astur, João Victor Novaretti, B.S.Leandro Masini Ribeiro, M.D. B.S.Rogério Teixeira de Carvalho, M.D. Moisés Cohen, M.D. M.S. Ph.D. Sheila J. McNeill Ingham, và M.D. René Jorge Abdalla, Ph.D, “An Anatomic Study of the Posterior Septum of the Knee.”. [21] Leonardo Addêo Ramos R. T. d. C., Ph.D. Moisés Cohen, và Ph.D. Rene Jorge Abdalla, “Anatomic Relation Between the Posterior Cruciate Ligament and the Joint Capsule.”. [22] Lubowitz JH R. M., Baker BS, và Guttmann D (2004), “Arthroscopic visualization of the posterior compartments of the knee”, Arthroscopy. số 20, pp. trang 675 - 680. [23] Lunden P D., SCS1 • Bzdusek, PT, ATR2 • Monson, PT, CSCS, MalcoMson P, • LaPrade M, PhD5 (2010), “Current Concepts in the Recognition and Treatment of Posterolateral Corner Injuries of the Knee”, journal of orthopaedic & sports physical therapy. 40, pp. trang 502-503. [24] M.D. David L. Gold B. S. P. J. S., và M.D. Alexander A. Sapega, “The Posteromedial Portal in Knee Arthroscopy: An Analysis of Diagnostic and Surgical Utility”. [25] M.D. Jin Hwan Ahn M. D. Y. S. C., và M.D. Irvin Oh, “Arthroscopic Posterior Cruciate Ligament Reconstruction Using the Posterior Trans-septal Portal.”. [26] M.D. Stephane Louisia M. D. O. C., và M.D. Philippe Beaufils “Posterior “Back and Forth” Approach in Arthroscopic Surgery on the Posterior Knee Compartments”, Technical Note. [27] Ohishi T. (2014), “Arthroscopic Debridement of the Posterior Compartment of the Knee after Total Knee Arthroplasty”, Case Reports in Orthopedics. Volume 2014 (2014), pp. Article ID 568417, 568416 pages. [28] Salzler MJ M. S. (2012), “All-arthroscopic anatomic repair of an avulsed popliteus tendon in a multiple ligament-injured knee.”, Orthopedics. 35(6). [29] Sapega.S.S. T. B. S. v. (1993), “ Arthroscopic visual field mapping at the periphery of the medial meniscus: a comparison of different portal approaches”, Arthroscopy. số 19, pp. trang 321 - 325. [30] Shep.M.D. O. D., và Fernhout.M. (2005), “The anatomic characteristics of the tibial insertion of the posterior cruciate ligament”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 21, pp. trang 820 - 825. [31] Shinya.N. Y. K., và Ohkoshi.Y. (2006), “The incidence and cross- sectional area of meniscofemoral ligament”, he American Journal of Sports Medecine. số 34, pp. trang 1345 - 1351. [32] Steadman.J.R M. W. D. v. (1993), “Arthroscopic assessment of the posterior compartments of the knee via the intercondylar notch”, Arthroscopy. số 9, pp. trang 284- 290. [33] Yip.D.K. W. J. W., và Chien E.P. (2003), “Arthroscopic surgery in the posterior compartment of the knee: suture fixation of anterior and posterior ligament avulsions”, The Journal of Arthroscopic and Related Surgery. số 19, pp. trang 1 - 4. [34] Stephane Louisia M. D. et al., “Posterior “Back and Forth” Approach in Arthroscopic Surgery on the Posterior Knee Compartments”, Technical Note.
File đính kèm:
gia_tri_cua_cua_xuyen_vach_qua_noi_soi_trong_xoa_diem_mu_kho.pdf

