Giá trị của chụp cắt lớp vi tính trong phân biệt dày thành túi mật do ung thư với các nguyên nhân lành tính khác

Đặt vấn đề: Ung thư túi mật là bệnh hiếm gặp tuy nhiên có tiên lượng xấu, thường được phát hiện muộn.

Dày thành túi mật là một dấu hiệu thường gặp trên hình ảnh học, dấu hiệu này gặp trong gần 1/3 các trường

hợp ung thư túi mật và trong rất nhiều bệnh lý lành tính khác của túi mật. Việc chẩn đoán chính xác trước phẫu

thuật giữa hai nhóm bệnh này rất quan trọng.

Mục tiêu: Xác định các đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp vi tính có giá trị trong phân biệt ung thư túi mật với

các bệnh lý lành tính khác của túi mật trên bệnh nhân có dày thành túi mật.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của chụp cắt lớp vi tính trong phân biệt dày thành túi mật do ung thư với các nguyên nhân lành tính khác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của chụp cắt lớp vi tính trong phân biệt dày thành túi mật do ung thư với các nguyên nhân lành tính khác

Giá trị của chụp cắt lớp vi tính trong phân biệt dày thành túi mật do ung thư với các nguyên nhân lành tính khác
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 85
GIÁ TRỊ CỦA CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 
TRONG PHÂN BIỆT DÀY THÀNH TÚI MẬT 
DO UNG THƯ VỚI CÁC NGUYÊN NHÂN LÀNH TÍNH KHÁC 
Đỗ Đỗ Như1, Đỗ Hải Thanh Anh1, Trần Thị Mai Thùy1, Đặng Nguyễn Trung An1, 
Lâm Thanh Ngọc1, Phạm Ngọc Hoa2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Ung thư túi mật là bệnh hiếm gặp tuy nhiên có tiên lượng xấu, thường được phát hiện muộn. 
Dày thành túi mật là một dấu hiệu thường gặp trên hình ảnh học, dấu hiệu này gặp trong gần 1/3 các trường 
hợp ung thư túi mật và trong rất nhiều bệnh lý lành tính khác của túi mật. Việc chẩn đoán chính xác trước phẫu 
thuật giữa hai nhóm bệnh này rất quan trọng. 
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp vi tính có giá trị trong phân biệt ung thư túi mật với 
các bệnh lý lành tính khác của túi mật trên bệnh nhân có dày thành túi mật. 
Đối tượng và phương pháp: Hình ảnh cắt lớp vi tính bụng chậu của 28 bệnh nhân ung thư túi mật và 47 
bệnh nhân mắc các bệnh lý lành tính của túi mật (dựa trên kết quả giải phẫu bệnh) được thu nhận trong khoảng 
thời gian từ 1/2016 đến 6/2020, tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích đặc điểm hình 
ảnh trên cắt lớp vi tính bao gồm các dấu hiệu trực tiếp của thành túi mật, các dấu hiệu tổn thương gián tiếp và 
đặc điểm tăng quang của thành túi mật sau tiêm thuốc tương phản để tìm ra các dấu hiệu có giá trị giúp phân 
biệt hai nhóm bệnh nhân. 
Kết quả: Trong các dấu hiệu tổn thương trực tiếp của thành túi mật thì dày thành không đều, dày khu trú 
và mất liên tục lớp niêm mạc là các dấu hiệu gợi ý ung thư túi mật hơn là các bệnh lý lành tính. Tất cả các dấu 
hiệu gián tiếp đều có sự khác biệt giữa hai nhóm bệnh. Tăng quang dạng một lớp, không đồng nhất (type 1) là 
kiểu tăng quang chính của ung thư túi mật (71%). Khi chọn kiểu tăng quang type 1 để dự đoán ác tính thì độ 
nhạy, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương tương ứng là 71%, 96% và 91%. 
Kết luận: Cắt lớp vi tính là một phương tiện đáng tin cậy trong đánh giá một tổn thương dạng dày thành 
của túi mật là lành tính hay ác tính. Trong đó dày thành túi mật không đều, dày khu trú hay mất liên tục lớp 
niêm mạc là các dấu hiệu gợi ý ung thư túi mật cao nhất. Ngoài ra đặc điểm tăng quang dạng một lớp không 
đồng nhất (type 1) của thành túi mật cũng là một dấu hiệu hữu ích giúp gợi ý tổn thương ác tính. 
Từ khóa: ung thư túi mật, dày thành túi mật 
ABSTRACT 
THE VALUE OF CT SCAN IN DIFFERENTIATION 
BETWEEN MALIGNANT AND BENIGN GALLBLADDER WALL THICKENING 
Do Do Nhu, Do Hai Thanh Anh, Tran Thi Mai Thuy, Dang Nguyen Trung An, Lam Thanh Ngoc, 
Pham Ngoc Hoa * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 85-91 
Background: Gallbladder carcinoma is a rare disease with a late diagnosis and poor prognosis. Gallbladder 
wall thickening is one of the most common finding on radiologic examination, this finding is seen in 
approximately one-third of gallbladder carcinomas and in many other benign conditions. An accurate 
differentiation between these two groups is very important for treatment planning. 
1Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh, Đại học Y dược TP. HCM 2Hội Chẩn đoán Hình ảnh TP. HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Đỗ Như ĐT: 0365835868 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 86
Objective: To evaluate the value of CT findings in differentiation gallbladder carcinomas from other benign 
conditions in patients with thickened gallbladder wall. 
Method: CT scan images of 75 patients including 28 gallbladder carcinomas and 47 other benign conditions 
were recorded from 1/2016 to 6/2020, at University Medical Center HCMC. The CT features including direct, 
indirect findings and the wall enhancement pattern were analyzed. Differences in CT findings between benign 
and malignancy were evaluated and calculated. 
Results: Among the direct CT findings, irregular, focal wall thickening and discontinuous mucosal 
enhancement offer the highest values for predicting malignancy. All the indirect CT findings showed statistical 
significant differences between benignity and malignancy. Most of gallbladder carcinomas in the present series 
manifested as type 1 enhancement pattern (71%). By using type 1 enhancement pattern as the predictor for 
malignancy, the sensitivity, specificity, and accuracy of CT scan for detection of malignancy was 71%, 96% and 
91%, respectively. 
Conclusion: MDCT is a reliable diagnostic method for differentiating between benign and malignant 
thickened gallbladder wall. Focal, irregular wall thickening and discontinuous mucosal enhancement are three 
direct signs that most associated with malignancy. Moreover, the one-layer heterogeneous enhancement of 
gallbladder wall is suggestive of malignancy. 
Keywords: gallbladder carcinoma, gallbladder wall thickening 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư túi mật là ung thư phổ biến thứ 
năm liên quan đến đường tiêu hóa và là bệnh ác 
tính phổ biến nhất của đường mật, chiếm 80-
95% ung thư đường mật(1). Với những triệu 
chứng lâm sàng mơ hồ, bệnh thường phát hiện 
trễ và có tiên lượng xấu với tỷ lệ sống 5 năm 
nhìn chung dưới 5% và thời gian sống trung 
bình chỉ hơn 6 tháng. Khi ở giai đoạn tiến triển, 
không được điều trị, thời gian sống sót trung 
bình chỉ từ 2 đến 5 tháng(2). 
Cắt lớp vi tính (CLVT) là một trong những 
công cụ hữu ích nhất trong đánh các tổn thương 
ổ bụng nói chung và túi mật nói riêng, với độ 
phân giải không gian cao, cung cấp chi tiết giải 
phẫu tốt của thành túi mật, từ đó giúp chẩn 
đoán các bệnh lý của túi mật tốt hơn. Ba mô hình 
tổn thương thường gặp của ung thư túi mật trên 
CLVT bao gồm: tổn thương dạng khối choán chỗ 
vị trí túi mật (40-65%), tổn thương dạng polyp 
xuất phát từ niêm mạc túi mật (15-25%) hoặc tổn 
thương túi mật dạng dày thành khu trú hay lan 
tỏa (20-30%)(1). Thật không may, dày thành túi 
mật là một trong những bất thường phổ biến 
nhất được phát hiện trên hình ảnh học. Dấu hiệu 
này là không đặc hiệu và có thể thấy ở nhiều 
bệnh túi mật lành tính, chẳng hạn như viêm túi 
mật cấp tính hay mạn tính, viêm túi mật dạng u 
hạt vàng - xanthogranulomatous, bệnh cơ tuyến 
túi mật - adenomyomatosis. Ngoài ra, thành túi 
mật dày lên cũng có thể là thứ phát do các 
nguyên nhân như viêm gan, suy tim, hạ đường 
huyết và viêm bể thận nặng cấp tính(3,4,5). 
Ung thư túi mật có tiên lượng và hướng điều 
trị khác hoàn toàn với các bệnh lành tính của túi 
mật. Hầu hết các bệnh túi mật lành tính được 
điều trị bởi phẫu thuật cắt túi mật nội soi, cắt túi 
mật đơn giản hoặc điều trị bảo tồn. Ngược lại, 
nội soi cắt túi mật chống chỉ định trong ung thư 
túi mật do nguy cơ gieo rắc(6,7,8). Trong khi các 
phẫu thuật điều trị ung thư biểu mô túi mật 
thường là cắt bỏ triệt để, bao gồm cắt bỏ túi mật, 
cắt bỏ các đoạn gan liền kề và hạch bạch 
huyết(3,9). Do đó, việc phân biệt chính xác trước 
phẫu thuật ung thư biểu mô túi mật với các bệnh 
lành tính khác là rất quan trọng. 
Mục tiêu 
Xác định các đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp 
vi tính có giá trị trong phân biệt ung thư túi mật 
với các bệnh lý lành tính của túi mật trên bệnh 
nhân có dày thành túi mật. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 87
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân có bệnh lý túi mật ác tính và lành 
tính nằm viện và điều trị tại bệnh viện Đại học Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh (BV ĐHYD TP. 
HCM) trong khoảng thời gian từ tháng 01/2016 
đến tháng 6/2020. 
Tiêu chí chọn 
Nhóm bệnh: tất cả bệnh nhân có kết quả giải 
phẫu bệnh (GPB) là ung thư túi mật và có chụp 
CLVT vùng bụng chậu có tiêm thuốc tương 
phản trước phẫu thuật. 
Nhóm chứng: tất cả bệnh nhân có kết quả 
GPB là các bệnh lý lành tính khác của túi mật 
ngoại trừ nhóm viêm túi mật cấp(ᵃ) và có chụp 
CLVT vùng bụng chậu có tiêm thuốc tương 
phản trước phẫu thuật. 
(ᵃ) Do viêm túi mật cấp ở Việt Nam chiếm tỉ 
lệ cao, hơn nữa viêm túi mật có các triệu chứng 
cấp tính, các dấu hiệu đặc hiệu giúp chẩn đoán 
(được đưa vào quy trình chuyên môn khám 
chữa bệnh của Bộ Y Tế năm 2016, dựa trên nền 
tảng Tokyo Guidelines 2013), khả năng nhầm lẫn 
với bệnh lý ác tính của túi mật không cao. 
Tiêu chí loại trừ 
Các trường hợp không còn hình ảnh CLVT 
lưu trữ hoặc hình ảnh giảm chất lượng không 
đảm bảo khảo sát tốt tổn thương. 
Các trường hợp hiện diện tổn thương dạng 
khối thay thế túi mật trên hình CLVT. 
Độ dày thành túi mật tối đa <3 mm. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Kỹ thật chụp cắt lớp vi tính 
Bệnh nhân được chụp CLVT bụng chậu với 
thì không tiêm thuốc và thì tĩnh mạch (khoảng 
60-80s sau khi tiêm thuốc tương phản không ion 
hóa với liều lượng 1,5 ml/kg trọng lượng cơ thể). 
Bệnh nhân sẽ được chụp CLVT trong tư thế nằm 
ngửa, hít vào tối đa và nín thở. Thường trường 
quét từ đáy phổi đến hết đáy chậu. Thực hiện tái 
tạo đa mặt phẳng dựa trên lát cắt mỏng 1mm ở 
thì tĩnh mạch. Các thông số kỹ thuật được cài đặt 
cố định trên máy. 
Biến số nghiên cứu 
Các dấu hiệu tổn thương trực tiếp của thành 
túi mật: dày không đều thành túi mật, bề dày 
thành túi mật tại vị trí dày nhất (mm), dày thành 
túi mật khu trú (khi vùng dày thành <½ chu vi 
thành túi mật), mất liên tục lớp niêm mạc túi 
mật, phù dưới niêm, nang trong thành (các hốc 
với đậm độ dịch bên trong thành túi mật), đóng 
vôi thành, sỏi túi mật, thâm nhiễm mỡ xung 
quanh và tụ dịch quanh túi mật. 
Các dấu hiệu gián tiếp: xâm lấn cơ quan lân 
cận, tắc mật, phì đại hạch vùng (hạch dọc ống 
mật chủ, động mạch gan, tĩnh mạch cửa và ống 
túi mật- theo AJCC 8th), di căn xa (gồm di căn 
phúc mạc, gan, phổi, màng phổi, hạch gian chủ, 
hạch dọc động mạch mạc treo tràng trên và 
động mạch thân tạng- theo AJCC 8th). 
Đặc điểm tăng quang của thành túi mật 
sau tiêm thuốc tương phản: phân loại theo 5 
type dựa trên cách phân lớp, độ dày của lớp 
trong, lớp ngoài cũng như các bắt thuốc tương 
phản của các lớp so với nhu mô gan bình 
thường. Mô hình tăng quang của thành túi mật 
được mô tả lần đầu bởi Kim SJ (2008)(10). Trong 
đó, type 1 - dạng một lớp dày không đồng 
nhất, hoặc không thể phân biệt các lớp, type 2 - 
tăng quang dạng hai lớp với lớp trong dày, 
tăng quang mạnh (≥2,6 mm), lớp ngoài mỏng, 
tăng quang yếu hoặc không tăng quang (≤3,4 
mm), type 3 - lớp trong dày với các hốc dạng 
nang tăng quang viền và lớp ngoài không tăng 
quang, type 4 - tăng quang dạng hai lớp với 
lớp trong mỏng tăng quang yếu và lớp ngoài 
mỏng không tăng quang, type 5 - tăng quang 
dạng hai lớp với lớp trong mỏng tăng quang 
yếu và lớp ngoài dày không tăng quang. 
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
Quản lý và phân tích số liệu bằng phần 
mềm MS Excel 2013, Stata 14.0. Các biến định 
tính được mô tả bằng tần số, tỉ lệ phần trăm. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 88
Các biến định lượng được mô tả bằng số trung 
bình và độ lệch chuẩn. Các tỉ lệ được so sánh 
bằng phép kiểm Chi-Square hoặc phép kiểm 
Fisher. Các giá trị trung bình được so sánh 
bằng phép kiểm t-test hoặc Wilcoxon – Mann – 
Whitney. Các phép kiểm được xem là có ý 
nghĩa thống kê khi p <0,05. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 183/HĐĐĐ, ngày 
6/3/2020. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/2016 đến tháng 8/2020, tại bệnh 
viện Đại học Y Dược TP. HCM, chúng tôi ghi 
nhận có 75 bệnh nhân bệnh nhân phù hợp với 
các tiêu chuẩn lựa chọn mẫu được đưa ra trong 
phương pháp nghiên cứu. Trong đó có 28 bệnh 
nhân có kết quả giải phẫu bệnh là ung thư túi 
mật (gồm 16 nữ, 12 nam, tuổi trung bình 59,39 ± 
10,46) và 47 bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh 
là các bệnh lý lành tính của túi mật (gồm 26 nữ, 
21 nam, tuổi trung bình 53,43 ± 14,47). 
Bề dày trung bình của thành túi mật trong 
nhóm ung thư túi mật (16,36 ± 6,06 mm) lớn hơn 
so với nhóm bệnh lý lành tính của túi mật (7,98 ± 
4,73 mm). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p <0,05, Phép kiểm Wilcoxon). 
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
Đ
ộ
 n
h
ạ
y
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1 - Độ đặc hiệu
AUC = 0.8921
Hình 1: Đường cong ROC biểu thị giá trị của bề dày 
thành túi mật trong phân biệt nhóm ung thư túi mật 
và nhóm bệnh lý lành tính túi mật 
Dựa vào đường cong ROC, chọn giá trị bề 
dày thành túi mật là 10 mm làm điểm cắt để chẩn 
đoán ung thư túi mật, độ nhạy và độ đặc hiệu 
tương ứng là 92,86% và 76,60% (Diện tích dưới 
đường cong AUC = 0,8921, p <0,05) (Hình 1). 
Bảng 1: So sánh các dấu hiệu trực tiếp của tổn thương túi mật trên CLVT giữa hai nhóm ung thư túi mật và 
nhóm bệnh lý lành tính của túi mật 
Ung thư túi mật 
(n=28) 
Bệnh lý túi mật lành tính 
(n=47) 
OR P 
Dày không đều thành túi mật 25 (89,29) 13 (27,66) 21,79 (5,61- 84,70) < 0,001 
Dày khu trú 24 (85,71) 21 (44,68) 7,43 (2,23- 24,78) < 0,001 
Mất liên tục lớp niêm mạc 13 (46,43) 5 (10,64) 7,28 (2,22- 23,88) < 0,001 
Phù dưới niêm 8 (28,57) 11 (23,40) 1,34 (0,45-3,77) 0,619 
Nang trong thành túi mật 1 ( 3,57) 21 ( 44,68) 0.05 (0,01- 0,37) < 0,001 
Đóng vôi thành túi mật 6 (21,43) 3 (6,38) 4 ( 0,91- 17, 53) 0,071 
Tụ dịch quanh túi mật 4 (14,29) 3 (6,38) 2,44 (0,50- 11,84) 0,413 
Thâm nhiễm mỡ quanh túi mật 17 ( 60,71) 5 (10,64) 12,98 (3,92-43,01) <0,001 
Sỏi túi mật 7 (25,00) 25 (53,19) 0,29 (0,10-0,82) 0,017 
Trong các dấu hiệu trực tiếp, dày thành túi 
mật khu trú, không đều, mất liên tục lớp niêm 
mạc và thâm nhiễm mỡ quanh túi mật là các dấu 
hiệu thường gặp trong ung thư túi mật hơn so 
với các bệnh lý lành tính của túi mật (p <0,05). 
Trong khi dấu hiệu nang trong thành và sỏi túi 
mật lại đại diện cho nhóm bệnh lý lành tính hơn 
là ung thư túi mật (p <0,05). Các dấu hiệu còn lại 
bao gồm phù dưới niêm, đóng vôi thành và tụ 
dịch quanh túi mật không cho thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu 
(Bảng 1). 
Tất cả các dấu hiệu gián tiếp nêu trên đều đại 
diện cho tổn thương ác tính của túi mật (p <0,05). 
Trong đó, phì đại hạch vùng là dấu hiệu thường 
gặp nhất (85,71%), tiếp đến là xâm lấn cơ quan 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 89
khác (64,29%), di căn xa (57,14%) và tắc mật do 
tổn thương túi mật xâm lấn hoặc chèn ép 
(32,14%). Như vậy hầu hết các bệnh nhân ung 
thư túi mật được phát hiện ở giai đoạn tiến triển 
(Bảng 2). 
Bảng 2: So sánh các dấu hiệu gián tiếp của tổn thương túi mật trên CLVT giữa hai nhóm ung thư túi mật và 
nhóm bệnh lý lành tính của túi mật. 
Ung thư túi mật 
(n=28) 
Bệnh lý túi mật lành 
tính (n=47) 
OR P 
Xâm lấn cơ quan khác 18 (64,29) 1 (2,13) 82,8 (9,87-694,40) <0,001 
Tắc mật do tổn thương 
túi mật 
9 (32,14) 0 <0,001 
Hạch vùng 24 (85,71) 16 (34,04) 11,63 (3,44-39,31) <0,001 
Di căn xa 16 (57,14) 0 <0,001 
Bảng 3: Đặc điểm tăng quang của thành túi mật. 
 Ung thư túi mật 
(n=28) 
Bệnh lý túi mật lành 
tính (n=47) 
P 
Type 1 
Type 2 
Type 3 
Type 4 
Type 5 
20 (71,43) 
6 (21,43) 
1 (3,57) 
0 
1 (3,57) 
2 (4,26) 
1 (2,13) 
22 (46,81) 
17 (36,17) 
5 (10,64) 
<0,001 
Trong nhóm ung thư túi mật, kiểu tăng 
quang type 1 chiếm tỉ lệ cao nhất (71,43%), tiếp 
đến là kiểu tăng quang type 2 (21,43%), các type 
còn lại chiếm tỉ lệ thấp. Trong nhóm bệnh lý lành 
tính của túi mật, kiểu tăng quang type 3, 4 và 5 
chiếm đại đa số (>90%), trong khi type 1 và 2 
chiếm tỉ lệ thấp (Bảng 3). 
Nếu chọn kiểu tăng quang type 1 đại diện 
cho chẩn đoán ung thư túi mật, ta có: độ nhạy 
71,43%, độ đặc hiệu 95,74%, giá trị tiên đoán 
dương 90,91%, giá trị tiên đoán âm 84,91%. 
BÀN LUẬN 
Đã có nhiều nghiên cứu so sánh các đặc 
điểm hình ảnh cắt lớp vi tính của hai nhóm ung 
thư túi mật và các bệnh lý lành tính của túi mật 
với mục đích tìm ra các dấu hiệu có giá trị giúp 
phân biệt giữa hai nhóm bệnh, từ đó có hướng 
điều trị thích hợp(10,11,12). 
Tương tự như các nghiên cứu trước đây của 
các tác giả Yun EJ (2003)(12) và Tongdee R 
(2011)(11), kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho thấy có sự khác biệt về bề dày thành túi mật 
giữa hai nhóm bệnh (p <0,05). Dựa vào đường 
cong ROC, chúng tôi chọn giá trị bề dày thành 
túi mật là 10 mm làm điểm cắt để chẩn đoán ung 
thư túi mật, độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng 
là 92,86% và 76,60%. 
Trong loạt các dấu hiệu tại chỗ của thành 
túi mật, kết quả của chúng tôi cho thấy dấu 
hiệu dày thành túi mật không đều, dày dạng 
khu trú và mất liên tục lớp niêm mạc là các 
dấu hiệu đại diện cho tổn thương ác tính với tỷ 
số chênh lần lượt là 22, 7 và 7. Kết quả này 
tương đồng với kết quả của các tác giả 
Tongdee R (2011), Kim SJ (2008) và Mathur M 
(2017)(4,11,13). Dấu hiệu nang trong thành túi mật 
và sỏi túi mật lại đại diện cho tổn thương dạng 
lành tính của túi mật. Trong nghiên cứu của 
Tongdee R (2011), tất cả bệnh nhân (n = 15) với 
tổn thương dày thành túi mật kèm nang trong 
thành đều cho kết quả mô bệnh học lành tính, 
bao gồm 4/5 bệnh nhân với bệnh cơ tuyến túi 
mật, 3/45 bệnh nhân bị viêm túi mật phức tạp, 
2/7 bệnh nhân viêm túi mật dạng u hạt vàng 
và 6/50 bệnh nhân bị viêm túi mật mãn tính. 
Không có trường hợp nào trong nhóm ung thư 
túi mật có dấu hiệu này. Về sỏi túi mật, tác giả 
Yun EJ (2003)(12) và Chang BJ (2010)(14) cũng ghi 
nhận sỏi túi mật thường gặp trong các bệnh 
lành tính như viêm túi mật mạn tính và viêm 
túi mật do u hạt vàng hơn so với ung thư túi 
mật (p <0,05). Chúng tôi và các tác giả 
khác(10,11), đều đồng thuận cho rằng các dấu 
hiệu như đóng vôi thành túi mật, tụ dịch 
quanh túi mật không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu, do 
đó các dấu hiệu này không được xem là các 
dấu hiệu giúp chẩn đoán phân biệt giữa ung 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 90
thư túi mật và nhóm bệnh lý lành tính của túi 
mật. Trong mẫu nghiên cứu này chúng tôi ghi 
nhận dấu hiệu thâm nhiễm mỡ quanh túi mật 
chiếm 60,71% trong nhóm ung thư túi mật và 
chiếm 10,64% trong nhóm bệnh lý túi mật lành 
tính (p <0,05). Trong khi tác giả Tongdee R 
(2011) lại ghi nhận không có sự khác biệt về 
dấu hiệu này giữa hai nhóm bệnh. Kết quả này 
có lẽ do cỡ mẫu khác nhau và nhóm bệnh lý 
lành tính của tác giả Tongdee R bao gồm cả 
những bệnh nhân viêm túi mật cấp, trong khi 
thâm nhiễm mỡ quanh túi mật thường do 
phản ứng viêm gây ra, đây là dấu hiệu rất 
thường gặp trong các bệnh lý viêm cấp. 
Ung thư túi mật nổi tiếng là bệnh lý âm 
thầm, bệnh thường được phát hiện muộn ở giai 
đoạn tiến triển và tiên lượng xấu. Do đó các dấu 
hiệu như xâm lấn gan hoặc tạng lân cận, tắc 
nghẽn đường mật do tổn thương túi mật xâm 
lấn hoặc chèn ép, phì đại hạch vùng và di căn xa 
rất thường gặp(1). Nghiên cứu của tác giả Ngô 
Thị Thúy Linh (2014) ghi nhận 42/46 (91%) bệnh 
nhân được phát hiện ở giai đoạn T3 và T4, 39/46 
(85%) bệnh nhân có hạch vùng phì đại và 14/46 
(30%) bệnh nhân có di căn phúc mạc hoặc hạch 
gian chủ(15). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất 
cả các dấu hiệu gián tiếp trên đều đại diện cho 
tổn thương ác tính của túi mật. Trong đó hạch 
vùng là dấu hiệu thường gặp nhất chiếm 86%, 
tiếp đến là dấu hiệu xâm lấn gan hoặc tạng lân 
cận chiếm 64%, di căn xa gặp trong 57% và tắc 
mật gặp trong 32% các trường hợp ung thư túi 
mật. Ngược lại hạch vùng chỉ gặp trong 34% 
bệnh nhân ở nhóm bệnh lý lành tính, 1 bệnh 
nhân có dấu hiệu nghi ngờ xâm lấn đại tràng 
ngang cho kết quả mô bệnh học là bệnh cơ tuyến 
túi mật kèm viêm túi mật mạn tính (Hình 2) và 
không có bệnh nhân nào có dấu hiệu tắc mật và 
di căn xa. 
Hình 2: tổn thương túi mật dạng dày thành lan tỏa, không đều, nghi ngờ xâm lấn đại tràng ngang. Nguồn: bệnh 
nhân N.H.T, nam 61 tuổi, N16-0306271, bệnh viện ĐHYD TPHCM. Hình A: mặt cắt ngang, túi mật dày thành 
lan tỏa, không đều, còn thấy rõ mặt phẳng mỡ giữa túi mật và gan. Hình B: mặt cắt đứng dọc, không thấy ranh 
giới giữa túi mật và đại tràng ngang ở phía sau (mũi tên cam), ngoài ra còn thấy các hốc dạng nang trong thành 
túi mật (mũi tên xanh). Kết quả mô bệnh học sau mổ kết luận bệnh cơ tuyến túi mật kèm viêm mạn tính túi mật 
Về đặc điểm tăng quang của thành túi mật 
sau tiêm, nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả 
tương tự tác giả Kim SJ (2008) khi tăng quang 
type 1 và 2 trong nhóm ung thư túi mật chiếm tỉ 
lệ cao tương ứng với 71% và 21%, trong khi kiểu 
tăng quang type 3, 4, 5 là chiếm đại đa số (>90%) 
trong nhóm các bệnh lý lành tính của túi mật. 
Tuy nhiên khác với tác giả Kim SJ kiểu tăng 
quang type 2 chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm 
ung thư túi mật, trong nghiên cứu của chúng tôi, 
kiểu tăng quang type 1 thường gặp hơn so với 
type 2 trong nhóm ung thư túi mật. Trong loạt 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 91
bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, 
kết quả mô bệnh học đa số đánh giá tổn thương 
ở giai đoạn T2 hoặc T3 (u xâm lấn qua lớp cơ 
đến lớp thanh mạc hoặc xâm lấn gan), do đó gây 
xáo trộn cấu trúc lớp khiến hình ảnh phân lớp 
trên CLVT không còn rõ ràng, do đó kiểu tăng 
quang type 1 trở nên phổ biến hơn. 
Với việc chọn kiểu tăng quang type 1 là một 
dấu hiệu để phân biệt giữa tổn thương túi mật 
lành tính và ác tính, chúng tôi ghi nhận độ nhạy, 
độ đặc hiệu trên CLVT của dấu hiệu này tương 
ứng là 71% và 96%, ngoài ra giá trị tiên đoán 
dương lên đến 91%. Tác giả Tongdee R (2011) 
cũng cho kết quả tương tự đối với kiểu tăng 
quang type 1 (độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 94%, 
giá trị tiên đoán dương 96%). 
KẾT LUẬN 
Cắt lớp vi tính là một phương tiện đáng tin 
cậy trong đánh giá một tổn thương dạng dày 
thành của túi mật là lành tính hay ác tính. Trong 
đó dày thành túi mật không đều, dày khu trú 
hay mất liên tục lớp niêm mạc là các dấu hiệu 
gợi ý ung thư túi mật cao nhất. Ngoài ra đặc 
điểm tăng quang dạng một lớp không đồng nhất 
(type 1) của thành túi mật sau tiêm thuốc tương 
phản cũng là một dấu hiệu hữu ích giúp gợi ý 
tổn thương ác tính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Levy AD, Murakata LA, Rohrmann AJ (2001). Gallbladder 
carcinoma: Radiologic-pathologic correlation. Radiographics, 
21(2):295-314. 
2. Jarnagin WR, Belghiti J, Blumgart LH (2012). Tumors of the 
gallbladder. In: Jarnagin WR. Blumgart's surgery of the liver, 
biliary tract and pancreas, Vol.1, 6th edition: 786-804. Elsevier 
Saunders, Philadelphia. 
3. Grand D, Horton KM, Fishman EJ (2004). CT of the gallbladder: 
Spectrum of disease. American Journal of Roentgenology, 
183(1):163-170. 
4. Kim SJ, Lee JM, Lee JY (2008). Analysis of enhancement pattern 
of flat gallbladder wall thickening on MDCT to differentiate 
gallbladder cancer from cholecystitis. American Journal of 
Roentgenology, 191(3):765-771. 
5. Zissin R, Osadchy A, Shapiro-Feinberg M (2003). CT of a 
thickened-wall gall bladder. British Institute of Radiology, 
76(902):137-143. 
6. Misra MC, Guleria SJ (2006). Management of cancer gallbladder 
found as a surprise on a resected gallbladder specimen. Journal 
of Surgical Oncology, 93(8):690-698. 
7. Reddy YP, Sheridan WG (2000). Port-site metastasis following 
laparoscopic cholecystectomy: A review of the literature and a 
case report. European journal of Surgical Oncology, 26(1):95-98. 
8. Shirai Y, Ohtani T, Hatakeyama K (1998). Laparoscopic 
cholecystectomy may disseminate gallbladder carcinoma. 
Hepato-Gastroenterology, 45(19):81-82. 
9. Zhu AX, Hong TS, Hezel AF (2010). Current management of 
gallbladder carcinoma. Oncologist, 15(2):168-181. 
10. Kim SW, Kim HC, Yang DM (2016). Gallbladder carcinoma: 
Causes of misdiagnosis at CT. Clinical Radilogy, 71(1):e96-e109. 
11. Tongdee R, Maroongroge P, Suthikeree W (2011). The value of 
MDCT scans in differentiation between benign and malignant 
gallbladder wall thickening. Journal of the Medical Association of 
Thailand, 94(5):592-600. 
12. Yun EJ, Cho SG, Park S (2004). Gallbladder carcinoma and 
chronic cholecystitis: Differentiation with two-phase spiral CT. 
Abdominal Imaging, 29(1):102-108. 
13. Mathur M, Singh J, Singh DP (2017). Imaging Evaluation of 
Enhancement Patterns of Flat Gall Bladder Wall Thickening and 
Its Correlation with Clinical and Histopathological Findings. 
Journal of Clinical and Diagnostic Research, 11(4):TC07-TC11. 
14. Chang BJ, Kim SH, Park HY (2010). Distinguishing 
xanthogranulomatous cholecystitis from the wall-thickening 
type of early-stage gallbladder cancer. Gut and Liver, 4(4):518-
523. 
15. Ngô Thị Thúy Linh (2014). "Nghiên cứu giá trị của X quang cắt 
lớp vi tính trong chẩn đoán ung thư túi mật". Luận văn Thạc sỹ Y 
học, chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh, Đại học Y Dược TP Hồ 
Chí Minh. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_cua_chup_cat_lop_vi_tinh_trong_phan_biet_day_thanh_t.pdf