Giá trị của cân bằng dịch dương trong tiên lượng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức tích cực
Đặt vấn đề: Điều trị cân bằng dịch trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết/sốc nhiễm khuẩn(NKH/sốc
NK) vẫn còn nhiều tranh cãi. Khuyến cáo điều trị chưa chỉ rõ thời điểm phù hợp để chuyển từ cân bằng dịch
dương sang âm.
Mục tiêu: Phân tích biến đổi và ảnh hưởng của cân bằng dịch dương theo thời gian đến tử vong ở bệnh
nhân NKH/sốc NK.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiến cứu, thực hiện trên bệnh nhân
NKH/sốc NK điều trị tại khoa Hồi sức tích cực khu D bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020.
Cân nặng, lượng dịch xuất, nhập hằng ngày, diễn tiến lâm sàng và kết cục điều trị được ghi nhận từ lúc nhập
đến khi ra khỏi khoa Hồi sức.
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của cân bằng dịch dương trong tiên lượng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của cân bằng dịch dương trong tiên lượng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức tích cực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 48 GIÁ TRỊ CỦA CÂN BẰNG DỊCH DƯƠNG TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT VÀ SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC Nguyễn Quốc Tuyên1, Phạm Chí Thành2, Trương Dương Tiển3, Nguyễn Ngọc Tú2, Lê Minh Khôi3 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Điều trị cân bằng dịch trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết/sốc nhiễm khuẩn(NKH/sốc NK) vẫn còn nhiều tranh cãi. Khuyến cáo điều trị chưa chỉ rõ thời điểm phù hợp để chuyển từ cân bằng dịch dương sang âm. Mục tiêu: Phân tích biến đổi và ảnh hưởng của cân bằng dịch dương theo thời gian đến tử vong ở bệnh nhân NKH/sốc NK. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiến cứu, thực hiện trên bệnh nhân NKH/sốc NK điều trị tại khoa Hồi sức tích cực khu D bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020. Cân nặng, lượng dịch xuất, nhập hằng ngày, diễn tiến lâm sàng và kết cục điều trị được ghi nhận từ lúc nhập đến khi ra khỏi khoa Hồi sức. Kết quả: Tổng cộng 86 bệnh nhân trong đó 28 tử vong. Lượng dịch nhậptrung bình mỗi ngày và cân bằng dịch tích lũy từ ngày thứ ba ở nhóm tử vong cao hơn nhóm sống (dịch nhập 53,5 ± 19,79 ml/Kg so với 42,7 ± 10,97 ml/Kg, p=0,01), nhưng lượng dịch xuất lại giống nhau. Cân bằng dịch tích lũy ngày thứ 4 là yếu tố độc lập tiên lượng tử vong với aOR là 1,2 trên mỗi lít dịch (KTC 95%: 1,01 – 1,41). Kết luận: Cân bằng dịch dương có liên quan với tử vong tăng cao và cân bằng dịch tích lũy từ ngày thứ 4 là yếu tố độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân NKH/sốc NK. Từ khóa: nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, cân bằng dịch dương ABTRACT PROGNOSTIC VALUE OF POSITIVE FLUID BALANCE IN PATIENTS WITH SEPSIS AND SEPTIC SHOCK IN INTENSIVE CARE UNIT Nguyen Quoc Tuyen, Pham Chi Thanh, Truong Duong Tien, Nguyen Ngoc Tu, Le Minh Khoi * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 48 - 55 Background: The optimal fluid management in patients with sepsis/septic shockis still highly controversial. Current guidelines do not pinpoint the precise timeframe for transition from postive to negative fluid balance. Objectives: The study was designed to analyzethe rate, the pattern of postive fluid balance over time, and the association betweenpositive fluid balance and mortality in this group of patients. Method: This was a prospective observational study. Patients with sepsis/septic shock admitted to the Intensive Care Unit D, Cho Ray Hospital were recruited. The patient’s body weight, daily fluid balance, clinical course, final outcomes were monitored from admission to discharge from the ICU. Results: A total of 86 patients had 20 deaths. The mean daily fluid intake and cumulative fluid balancefrom day 3 were higher in non-survivors than in survivors (53.5 ± 19.79 ml/Kg vs. 42.7 ± 10.97 ml/Kg, p=0.01), but output volumes were similar. Fluid intake volume in non-survivorswas higher than survivor from day 3. The 1Khoa Hồi sức Tích cực, Bệnh viện Chợ Rẫy 2Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Đình Chiểu 3Bộ môn Hồi sức Cấp cứu - Chống độc, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS.Lê Minh Khôi ĐT: 0919731386 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 49 cumulative fluid balance from day 4 was an independent predictor of mortality (adjusted OR 1.2 per L, CI 95% 1.01 – 1.41). Conclusion: Positive fluid balance was associated with increased mortality and the cumulative fluid balance from day 4 was an independent predictor ofdeath in patients with sepsis/septic shock admitted in intensive care unit. Keywords: sepsis, septic shock, positive fluid balance ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là một thử thách toàn cầu, tỷ lệ tử vong chiếm khoảng 50% ở bệnh nhân (BN) sốc NKH(1). Điều trị NKH/sốc NKH vẫn tập trung chính vào bù dịch, sử dụng kháng sinh, kiểm soát ổ nhiễm và sử dụng thuốc vận mạch. Bù dịch thường là một điều trị cần thiết để tăng cung lượng tim và cải thiện tưới máu mô. Tuy nhiên việc truyền dịch quá tích cực có thể dẫn đến tăng tỷ lệ tử vongdo các biến chứng của quá tải dịch(2,3,4,5,6,7). Gần đây các khuyến cáo chỉ ra rằng nên tiếp cận bù dịch theo bốn giai đoạn: cứu mạng, tối ưu hóa, ổn định và xuống thang(8). Tuy nhiên, khuyến cáo chưa chỉ rõ thời điểm phù hợp để chuyển từ cân bằng dịch (CBD) dương sang âm. Tại Việt Nam, nghiên cứu về CBD ở BN NKH/sốc NKH vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Giá trị của CBD dương tính trong tiên lượng BN NKH và sốc NKH tại khoa Hồi sức tích cực (HSTC)”. Mục tiêu Phân tích biến đổi và ảnh hưởng của CBD dương theo thời gian đến tử vong ở BN NKH/sốc NKH điều trị trong 7 ngày đầu tại khoa HSTC. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu BN nhập viện vào khoa HSTC khu D bệnh viện Chợ Rẫy thỏa các tiêu chuẩn sau được đưa vào nghiên cứu. Từ 18 tuổi trở lên. Thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán NKH/sốc NKH theo định nghĩa SEPSIS-3(9). Tiêu chuẩn loại trừ BN có một trong các tiêu chuẩn sau được loại ra khỏi nghiên cứu: Thời điểm chẩn đoán NKH/sốc NKH trước lúc nhập khoa HSTC trên 7 ngày. Thời gian điều trị tại khoa HSTC<72 giờ. BN bị xuất huyết đáng kể không ước lượng được lượng máu mất (xuất huyết tiêu hóa nặng, vỡ động mạch chủ, ). BN được thực hiện kỹ thuật ECMO. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu quan sát mô tả, tiến cứu. Phương pháp thực hiện BN NKH/sốc NKH nhập viện vào khoa HSTC khu D bệnh viện Chợ Rẫy thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu và không có tiêu chuẩn loại trừ sẽ được đưa vào nghiên cứu. Vào lúc nhập khoa HSTC, sau khi ổn định BN (chuyển giường bệnh, gắn máy thở, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm), BN được tạm ngưng dịch truyền và ngưng cho ăn qua đường tiêu hóa. BN được đặt sonde tiểu loại bỏ hết lượng nước tiểu tồn lưu trong bàng quang (nếu BN chưa có sonde tiểu trước đó) và sonde dạ dày để loại bỏ hết dịch tồn lưu trong dạ dày. Thời điểm này gọi là T0 (tức thời điểm ngay sau khi nhập khoa HSTC). CBD của BN tại khoa HSTC vào thời điểm T0 được xem là bằng 0. Vào thời điểm T0, chúng tôi tiến hành đo cân nặng, áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) của BN. Sau khi đo lường, BN tiếp tục được điều trị truyền dịch, cho ăn qua đường tiêu hóa theo như y lệnh của bác sĩ điều trị. Đến 6 giờ sáng ngày hôm sau (được gọi là thời điểm T1), chúng tôi tiến hành đo lường ghi nhận lại các thông số lượng dịch xuất (LDX), lượng dịch nhập (LDN) và CVP. Ngày 1 được định nghĩa là khoảng thời gian từ thời điểm T0 đến thời điểm T1. Sau mỗi Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 50 24 giờ từ thời điểm T1, BN được đo lường lặp lại các thông số lượng LDX, lượng LDN và CVP. Các thời điểm Tn (n là 1, 2,3, ) tương ứng với thời điểm kết thúc ngày thứ n kể từ lúc nhập khoa HSTC. Giá trị của các thông số này gọi là giá trị vào ngày thứ n (Hình 1). Hình 1: Sơ đồ tiến hành nghiên cứu Bên cạnh đó các thông số nền thu thập tại thời điểm nhập khoa HSTC gồm có: tuổi, giới, bệnh nền kèm theo, nơi chẩn đoán NKH, thời gian từ lúc chẩn đoán NKH đến lúc nhập khoa HSTC, chẩn đoán lúc nhập viện, điểm APACHE II, điểm SOFA, vị trí nhiễm khuẩn, tác nhân vi khuẩn. Định nghĩa biến số Tiêu chuẩn chẩn đoán NKH/sốc nhiễm khuẩn Theo đồng thuận quốc tế lần thứ 3 về NKH gọi tắt là SEPSIS – 3, NKH được định nghĩa là một tình trạng rối loạn chức năng cơ quan đe dọa đến tính mạng gây ra bởi một đáp ứng mất điều phối của vật chủ đối với nhiễm trùng. Rối loạn chức năng cơ quan có thể được xác định khi một thay đổi cấp tính trong tổng số điểm SOFA ≥2 điểm do nhiễm trùng gây ra. Điểm SOFA nền có thể được giả định là bằng 0 ở những BN không biết có rối loạn chức năng nội tạng trước đó(9). Vậy BN được chẩn đoán NKH khi thỏa cả 2 điều kiện: Nghi ngờ hoặc có bằng chứng nhiễm khuẩn, và Tăng cấp tính SOFA ≥2 điểm. Bệnh nhân NKH được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn khi thỏa cả 2 tiêu chuẩn sau: Cần phải sử dụng thuốc vận mạch để duy trì huyết áp trung bình ≥65 mmHg hoặc huyết áp trung bình <65 mmHg, và Lactate máu >2 mmol/L (18 mg/dL) mặc dù đã bù đủ dịch. Thời điểm chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết Thời điểm BN được chẩn đoán NKH/sốc NKH dựa vào: Thời điểm ghi nhận từ hồ sơ hoặc giấy chuyển tuyến, hoặc Tính từ thời điểm BN được sử dụng thuốc vận mạch, hoặc Thời điểm BN bắt đầu diễn tiến nặng (suy hô hấp, tụt huyết áp, rối loạn tri giác, chuyển phòng bệnh nặng, khoa HSTC) theo khai thác bệnh sử. Đo lường lượng dịch nhập, lượng dịch xuất, cân bằng dịch và cân bằng dịch tích lũy LDN bao gồm: dịch cung cấp từ đường tiêu hóa và đường tĩnh mạch. LDX bao gồm: nước tiểu, dịch dẫn lưu, dịch lấy từ chạy thận, dịch mất từ đường tiêu hóa (bao gồm cả phân chỉ tính trong trường hợp tiêu chảy đáng kể). Nước mất không nhận biết không được ghi nhận và do đó không được tính trong LDX. CBD được tính bằng lượng LDN trừ cho lượng LDX. CBD tích lũy ngày n là tổng lượng CBD từ ngày n trở về trước. Thống kê Kiểm tra biến định lượng (BĐL) có phân bố chuẩn hay không bằng phép kiểm Kolmogorov – Smirnov. Biến số có phân phối chuẩn khi mức Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 51 ý nghĩa p >0,05. BĐL được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn khi có phân bố chuẩn. BĐL không có phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ phân vị 25th – 75th). Kiểm định Student’s t – test được sử dụng để so sánh 2 nhóm dữ liệu có phân bố chuẩn. Kiểm định Mann – Whitney U test sử dụng để so sánh 2 nhóm dữ liệu của biến số không có phân bố chuẩn. Biến định tính (BĐT) được trình bày dưới dạng tần suất (phần trăm). Kiểm định Chi- squared test được thực hiện để so sánh sự khác biệt giữa 2 nhóm. Sử dụng mô hình hồi quy logistic đơn biến để xem các yếu tố ảnh hưởng đến kết cục tử vong nội viện của BN. Yếu tố nguy cơ với mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,1 trong phân tích đơn biến được đưa vào mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến ngoại trừ CBD được đưa vào mô hình hồi quy logistic đa biến bất kể mức ý nghĩa trong phân tích đơn biến. Tất cả đều là kiểm định 2 đuôi, và p <0,05 được xác định là có ý nghĩa thống kê. Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm Epidata phiên bản 3.1. Số liệu được lưu trữ bằng phần mềm Microsoft Excel 2016. Phân tích số liệu bằng phần mềm R phiên bản 3.5.1. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 391/ĐHYD-HĐĐĐ, ngày 12/8/2019. KẾT QUẢ Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại khoa HSTC khu D bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 12/09/2019 đến ngày 30/06/2020. Tổng cộng có 86 BN NKH được đưa vào phân tích, trong đó có 81,4% BN sốc NKH. Thời gian từ lúc chẩn đoán NKH đến lúc nhập khoa HSTC là 2 (1-3) ngày. Tuổi trung bình của dân số trong nghiên cứu của chúng tôi là 63,7 ± 16,49 tuổi, BN lớn hơn bằng 60 tuổi chiếm đa số với tỷ lệ 61,62%, nam giới 48,8%. Điểm SOFA tương đối cao 10 (8 – 12) điểm, APACHE II 21,5 (18 – 27) điểm. Tỷ lệ tử vong là 32,56%. Biến đổi cân bằng dịch Kết quả cho thấy CBD trung bình mỗi ngày là 532 ± 685 ml tương đương 9,6 ± 12,29 ml/Kg. Nhóm BN tử vong có CBD trung bình mỗi ngày là 17 ± 13,37 ml/Kg, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm BN sống là 6 ± 10,03 ml/Kg, với p <0,05. LDN trung bình mỗi ngày ở nhóm BNtử vong là 53,3 ± 19,79 ml/Kg cao hơn đáng kể so với nhóm sống là 42,7 ± 10,97 ml/Kg, với p=0,01. LDX trung bình mỗi ngày ở nhóm bệnh nhân tử vong không có sự khác biệt so với nhóm BN sống (Bảng 1). Bảng 1: Lượng LDN, LDX và CBD trung bình mỗi ngày (N = 86) Tổng cộng Tử vong (n = 28) Sống (n = 58) Giá trị p CBD trung bình (mL) 530 ± 685 900 ± 702 350 ± 605 0,001 CBD trung bình (ml/Kg) 9,6 ± 12,29 17 ± 13,37 6 ± 10,03 0,004 LDN trung bình (ml/Kg) 46,2 ± 15,17 53,3 ± 19,79 42,7 ± 10,97 0,01 LDX trung bình (ml/Kg) 36,6 ± 13,05 36,3 ± 15,1 36,7 ± 12,07 0,91 Theo diễn tiến thời gian, CBD tích lũy kể từ ngày thứ 3 trở đi sau khi nhập Khoa HSTC ở nhóm BN tử vong cao hơn có ý nghĩa thống kê so với BN sống. Tuy nhiên, CBD tích lũy trong hai ngày đầu nhập vào Khoa HSTC không khác biệt giữa nhóm BNtử vong và sống. Từ ngày thứ 3, nhóm BN sống có CBD tích lũy ổn định theo thời gian. Trái lại nhóm BN tử vong có CBD tích lũy tăng dần theo thời gian (Hình 2). Từ ngày thứ 3 đến thứ 5, CBD mỗi ngày ở nhóm BN tử vong cao hơn đáng kể so với nhóm BN sống. CBD ở nhóm BN sống dần trở về bằng không hoặc âm tính từ ngày thứ 4. Trong khi đó CBD ở nhóm BN tử vong vẫn dương tính (Hình 3). Kể từ ngày thứ 2 trở đi lượng LLDN ở BN tử vong cao hơn BN sống và kéo dài cho đến ngày thứ 7. Trong khi đó LLDX ở BN tử vong và sống Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 52 không có sự khác biệt từ ngày đầu nhập viện cho đến ngày thứ 7 (Hình 4). Hình 2: Biến đổi CBD tích lũy theo thời gian Hình 3: Biến đổi CBD mỗi ngày theo thời gian Hình 4: Lượng LDN và LDX mỗi ngày theo thời gian Ảnh hưởng của cân bằng dịch đến tử vong Bảng 2: Mô hình hồi quy logistic đa biến các yếu tố ảnh hưởng tử vong Biến số OR hiệu chỉnh (KTC 95%) Trị số p Cân nặng (Kg) 0,94 (0,89 – 0,99) 0,023 Vận mạch (ngày) 1,33 (1,04 – 1,71) 0,026 CBD tích lũy ngày thứ 4 (L) 1,2 (1,01 – 1,41) 0,035 Lọc máu 1,32 (0,43 – 4,04) 0,63 Chúng tôi xây dựng mô hình hồi quy logistic để tiên đoán ảnh hưởng của CBD tích lũy tại khoa HSTC lên kết cục tử vong nội viện của bệnh nhân NKH/sốc NKH. CBD tích lũy từ ngày thứ 3 trở đi là yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân NKH/sốc NKH trong mô hình hồi quy logistic đơn biến (OR=1,2 trên mỗi L dịch, p <0,05). CBD tích tuỹ ngày 4 là yếu tố liên quan độc lập với tử vong sau khi hiệu chỉnh với cân nặng, lọc máu và thời gian sốc với OR là 1,2 trên mỗi L dịch (KTC 95% 1 – 1,4; giá trị p=0,035) (Bảng 2). BÀN LUẬN Biến đổi cân bằng dịch So với nghiên cứu của Acheampong A(2) công bố năm 2015, đây là nghiên cứu quan sát tiến cứu thực hiện trên 173 BN NKH/sốc NKH điều trị tại khoa HSTC thời gian lớn hơn 48 giờ. Trong nghiên cứu này tỷ lệ tử vong là 34%. Kết quả nghiên cứu cho thấy CBD trung bình mỗi ngày cao hơn ở nhóm BN tử vong so với BN sống (p <0,01) tương tự như kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Để tìm nguyên nhân CBD trung bình mỗi ngày ở nhóm BN tử vong cao hơn BN sống, chúng tôi không chỉ ghi nhận CBD mỗi ngày mà đồng thời thu nhận cả lượng LDN và LDX của BN kể từ lúc nhập khoa HSTC. Trong nghiên của chúng tôi, lượng LDN trung bình mỗi ngày ở nhóm tử vong cao hơn so với nhóm sống. Trái lại, lượng LDX trung bình mỗi ngày ở BN tử vong và BN sống không có sự khác biệt. Vì vậy, chúng tôi cho rằng CBD trung bình mỗi ngày cao hơn ở nhóm BN tử vong so với BN sống trong nghiên cứu là do lượng LDN ở nhóm BN tử vong cao hơn so với nhóm BN sống. Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận lượng nước mất không nhận biết. Tính toán lượng nước mất không nhận biết trên lâm sàng rất khó và thiếu tính chính xác do dựa trên nhiều giả định. Nếu cho rằng lượng nước mất không nhận biết giữa nhóm BN tử vong và sống là như nhau, thì việc so sánh lượng LDX và CBD trong nghiên cứu của chúng tôi hầu như không bị ảnh hưởng. Kết quả so sánh lượng LDX như trong nghiên cứu của chúng tôi là hoàn toàn đáng tin cậy. Hai nghiên cứu có kết quả tương tự như nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu của tác giả Acheampong A(2) và nghiên cứu của Boyd JH(3). Cả hai đều cho thấy không có sự khác biệt về Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 53 lượng nước tiểu giữa nhóm BN sống và tử vong. Một điểm quan trọng trong hai nghiên cứu trên là khi xảy ra CBD dương, đa phần là do tăng lượng LDN trong khi lượng nước tiểu là như nhau. Điều này cho thấy tác động gây CBD dương kéo dài trên BN hồi sức chủ yếu đến từ can thiệp bù dịch của bác sĩ lâm sàng hơn là sự hạn chế khả năng thải dịch của người bệnh. Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng vai trò của liệu pháp điều trị hướng mục tiêu sớm (EGDT – Early Goal Directed Therapy) có giá trị góp phần cải thiện tỷ lệ tử vong. Kinh điển nhất là nghiên cứu của Rivers E và chiến lược này đã trở thành điều trị căn bản cho BN NKH kéo dài gần một thập kỷ gần đây(10). Xuất phát từ nghiên cứu này, các bác sĩ lâm sàng có khuynh hướng bù dịch tích cực hơn trong giai đoạn sớm hay giai đoạn cứu mạng. Thực hành này đã giúp cải thiện tử vong, song cũng đặt BN vào nguy cơ quá tải dịch và các biến chứng liên quan trong những giai đoạn sau. Chính vì vậy BN NKH sau giai đoạn cứu mạng cần được bù dịch thận trọng và xuống thang dịch truyền. Diễn tiến CBD là một quá trình động. Do vậy, chúng ta không thể chỉ lấy giá trị trung bình ra để so sánh mà cần phải đánh giá diễn biến thay đổi CBD theo thời gian. Vincent và De Backer D(8) gần đây đề xuất mô hình khái niệm cho điều trị sốc, được xác nhận bởi ADQI lần thứ XII cho quản lý dịch ở BN hồi sức(11). Giai đoạn cứu mạng và tối ưu hóa CBD thường dương tính, trái lại khi BN đã ổn định thì CBD nên có xu hướng âm tính. Tuy khuyến cáo có mục tiêu điều trị rõ ràng cho từng giai đoạn, nhưng thời điểm chuyển tiếp giữa các giai đoạn không được nêu rõ trong khuyến cáo. Nghiên cứu của chúng tôi theo dõi diễn tiến CBD của BN NKH/sốc NKH nhằm mục tiêu tìm kiếm thời điểm chuyển từ CBD dương sang âm tính. BN trong nghiên cứu của chúng tôi đa số được chẩn đoán NKH/sốc NKH ngoài khoa HSTC và chỉ có 6% BN được chẩn đoán tại khoa HSTC. Thời gian từ lúc chẩn đoán NKH/sốc NKH đến lúc nhập vào khoa HSTC có trung vị là 2 (1 – 3) ngày. Do vậy, BN đã được xử trí và điều trị bù dịch trước khi điều trị tại khoa HSTC. Chính vì lý do này, nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào giai đoạn sau hồi sức cứu mạng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, CBD tích lũy ở nhóm BN tử vong tiếp tục tăng dần và cao hơn so với BN sống kể từ ngày thứ 3 (Hình 2). Để phân tích rõ hơn nguyên nhân của CBD tích lũy tăng liên tục như vậy, chúng tôi đánh giá diễn tiến CBD từng ngày. Trong nhóm BN sống, CBD trở về bằng không và âm tính từ ngày thứ 4. Trong khi đó ở nhóm BN tử vong, CBD vẫn còn dương tính cho đến ngày thứ 7 (Hình 3). Như vậy, CBD dương giảm chậm và không trở về âm tính chính là nguyên nhân dẫn đến CBD tích lũy tăng cao ở BN tử vong. Phân tích thêm tại sao CBD ở nhóm BN tử vong lại không trở về âm tính. Chúng tôi chia CBD của BN thành LDN và LDX. Mục đích để đánh giá xem thành phần nào ảnh hưởng đến CBD. Kể từ ngày thứ 2 trở đi lượng LDN ở BN tử vongcao hơn BN sống và kéo dài cho đến ngày thứ 7. Trong khi đó lượng LDX ở BN tử vong và BN sống không có sự khác biệt từ ngày đầu nhập viện cho đến ngày thứ 7 (Hình 4). Tóm lại, nguyên nhân CBD tiếp tục dương tính ở nhóm BN tử vong theo nghiên cứu của chúng tôi là do lượng LDN. Thay vì lượng LDN nên được giảm dần từ ngày thứ 2 như ở nhóm BN sống, nhóm BN tử vong vẫn tiếp tục được truyền dịch tích cực. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của Acheampong A cho thấy trong những giờ đầu nhập khoa HSTC, CBD giống nhau giữa nhóm BN tử vong và sống còn, nhưng kể từ ngày thứ 2 trở đi, CBD dương nhiều hơn ở nhóm BN tử vong so với BN sống còn(2). Diễn biến CBD này cũng tương tự như diễn tiến CBD trong nghiên cứu của chúng tôi. Bù dịch quá tích cực từ ngày thứ 2 sau khi nhập Khoa HSTC nên được cẩn thận. Ảnh hưởng của cân bằng dịch đến tử vong Một vài nghiên cứu quan sát báo cáo sự liên quan giữa CBD dương với tỷ lệ tử vong ở BN NKH/sốc NKH (Bảng 3). Kết quả cho thấy hầu như, CBD dương vào giai đoạn muộn là một yếu tố nguy cơ tử vong ở bệnh nhân NKH/sốc NKH Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 54 không thể chối cãi. Cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi là khá nhỏ hơn so với các nghiên cứu đã kể ở trên. Vì vậy mục tiêu trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ chủ yếu là xác định sự khác biệt CBD và biến đổi CBD ở nhóm BN sống và tử vong. Tuy nhiên trong mô hình hồi quy logistic đơn biến và đa biến, CDB dương tính ngày 4 là một yếu tố nguy cơ độc lập tiên lượng tử vong. Bảng 3: Ảnh hưởng của CBD dương đến tử vong Tác giả Năm Cỡ mẫu Thiết kế Kết quả Vincent JL ( 7 ) 2006 1177 Đoàn hệ tiến cứu CBD dương là yếu tố nguy cơ độc lập cho tử vong trong hồi sức (OR 1,1 mỗi L; KTC 95%: 1,0 – 1,1; p = 0,001) Boyd JH ( 3 ) 2011 778 Phân tích hồi cứu TPV CBD thấp nhất có tử vongthấp hơn các TPV khác sau 12 giờ (HR 0,569; KTC 95%: 0,405 – 0,799) và sau 4 ngày (HR 0,466; KTC 95%: 0,405 – 0,799) Micek ST (12) 2013 325 Đoàn hệ hồi cứu TPV CBD dương cao nhất ngày 8 sau sốc liên quan độc lập với tử vong nội viện (OR 1,66; KTC 95%: 1,39 – 1,98; p = 0,004) Kelm DJ ( 5 ) 2015 405 Đoàn hệ hồi cứu Quá tải dịch kéo dài liên quan độc lập với tăng tử vong nội viện (OR 1,92; KTC 95%: 1,16 – 3,22; p = 0,01) Acheampong A ( 2 ) 2015 173 Quan sát tiến cứu CBD dương liên quan tử vong hồi sức (HR hiệu chỉnh 1,014; KTC 95% 1,007 – 1,022 mỗi ml/Kg dịch; p < 0,001) De Oliveira FSV ( 4 ) 2015 116 Đoàn hệ hồi cứu CBD dương cao hơn giữa 24 giờ và 48 giờ chẩn đoán NKH liên quan độc lập tử vong nội viện (OR 3,19; KTC 95%: 1,19 – 8,54; p = 0,021) Một hạn chế lớn nhất trong các nghiên cứu nói trên hầu hết là phần tích hồi cứu và chưa phải là một nghiên cứu can thiệp điều trị. Cần có một nghiên cứu can thiệp điều trị thực sự, phân nhóm ngẫu nhiên để so sánh tác động của tiếp cận bù dịch tự do và bù dịch bảo tồn, từ đó kết luận tác động của việc bù dịch lên kết cục của BN. Hiện cho đến thời điểm hiện tại theo hiểu biết của chúng tôi, chỉ có một nghiên cứu duy nhất là nghiên cứu FEAST. Nghiên cứu được thực hiện trên trẻ em với NKH nặng được truyền 40 ml/Kg nước muối đẳng trương hoặc Albumin 4% so với không hồi sức dịch. Nghiên cứu được ngưng sớm vì cho thấy tăng 40% tử vong ở cả hai nhánh BN được bù dịch. Ngạc nhiên hơn là tăng tử vong ở nhóm BN này không phải là do biến chứng quá tải tuần hoàn mà là do trụy tim mạch muộn. Tuy nhiên trong nghiên cứu FEAST, dân số nghiên cứu không phải chỉ giới hạn ở nhóm NKH/sốc NKH mà đa số ở trẻ em bị mắc sốt rét tại Châu Phi. Vì vậy vẫn còn có nhiều tranh cãi trong nghiên cứu này. Chúng ta đang chờ đợi một nghiên cứu can thiệp có đối tượng BN NKH/sốc NKH phù hợp để xem CBD dương chỉ là yếu tố tiên lượng hay là nguyên nhân gây tăng tỷ lệ tử vong của BN. KẾT LUẬN Cân bằng dịch dương thường gặp ở bệnh nhân NKH/Sốc NK được điều trị tại khoa HSTC. Cân bằng dịch dương có liên quan với tỉ lệ tử vong tăng cao ở nhóm bệnh nhân này. Trong hai ngày đầu tiên tại khoa HSTC, cân bằng dịch dương không khác biệt giữa hai nhóm bệnh nhân tử vong và sống sót. Tuy nhiên từ ngày thứ ba trở đi, cân bằng dịch tích lũy ở nhóm tử vong tăng cao hơn so với nhóm sống sót. Việc duy trì CBD dương kéo dài dai dẳng là yếu tố liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong ở BN NKH/sốc NKH. Cần bù dịch thận trọng theo từng giai đoạn bệnh khi BN đã ổn định huyết động. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Daniels R (2011). Surviving the first hours in sepsis: getting the basics right (an intensivist's perspective). J Antimicrob Chemother, 66(S2):ii11-ii23. 2. Acheampong A, Vincent JL (2015). A positive fluid balance is an independent prognostic factor in patients with sepsis. Crit Care, 19(1):251. 3. Boyd JH, Forbes J, Nakada TA, et al (2011). Fluid resuscitation in septic shock: a positive fluid balance and elevated central venous pressure are associated with increased mortality. Crit Care Med, 39(2):259-265. 4. de Oliveira FSV, Freitas FGR, Ferreira EM, et al (2015). Positive fluid balance as a prognostic factor for mortality and acute kidney injury in severe sepsis and septic shock. J Crit Care, 30(1):97-101. 5. Kelm DJ, Perrin JT, Cartin-Ceba R, et al (2015). Fluid overload in patients with severe sepsis and septic shock treated with early Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 55 goal-directed therapy is associated with increased acute need for fluid-related medical interventions and hospital death. Shock, 43(1):68-73. 6. Sirvent JM, Ferri C, Baro A, et al (2015). Fluid balance in sepsis and septic shock as a determining factor of mortality. Am J Emerg Med, 33(2):186-189. 7. Vincent JL, Sakr Y, Sprung CL, et al (2006). Sepsis in European intensive care units: results of the SOAP study. Crit Care Med, 34(2):344-353. 8. Vincent JL, De Backer D (2013). Circulatory shock. N Engl J Med, 369(18):1726-1734. 9. Singer M, Deutschman CS, Seymour CW, et al (2016). The Third International Consensus Definitions for Sepsis and Septic Shock (Sepsis-3). JAMA, 315(8):801-810. 10. Rivers E, Nguyen B, Havstad S, et al (2001). Early goal-directed therapy in the treatment of severe sepsis and septic shock. N Engl J Med, 345(19):1368-1377. 11. Hoste EA, Maitland K, Brudney CS, et al (2014). Four phases of intravenous fluid therapy: a conceptual model. British Journal of Anaesthesia, 113(5):740-747. 12. Micek ST, McEvoy C, McKenzie M, et al (2013). Fluid balance and cardiac function in septic shock as predictors of hospital mortality. Crit Care, 17(5):R246. Ngày nhận bài báo: 10/12/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
gia_tri_cua_can_bang_dich_duong_trong_tien_luong_benh_nhan_n.pdf

