Giá trị của Anti-Mullerian Hormone trong dự báo mãn kinh: Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ lớn
Thời kỳ mãn kinh đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn sinh sản ở nữ, thường xảy ra quanh độ tuổi 51, tuỳ nguyên cứu và dân tộc. Tuy nhiên, tuổi mãn kinh thay đổi đáng kể ở từng cá nhân từ 40 đến 60 tuổi, trong đó khoảng 10% phụ nữ bước vào mãn kinh sau tuổi 45. Có một giai đoạn kéo dài khoảng 10 năm, chuyển tiếp từ khi khả năng sinh sản tự nhiên kết thúc đến giai đoạn mãn kinh (te Velde và Pearson, 2002; Broekmans et al., 2007). Điều này có nghĩa là phụ nữ mãn kinh năm 43 tuổi có thể đã kết thúc khả năng sinh sản tự nhiên vào năm 33 tuổi mà không có thay đổi đáng kể nào như rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Với xu hướng trì hoãn có con như hiện nay, chúng ta có thể hình dung ra rằng những phụ nữ này sẽ đối mặt với việc vô sinh và cần kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) để có con (de Graaff et al., 2011). Nếu chúng ta có thể dự báo chính xác tuổi mãn kinh cho từng cá nhân thì có thể ngăn ngừa tiên phát việc vô sinh do tuổi bằng cách tư vấn cho họ có con sớm hay lưu trữ bảo tồn trứng đông lạnh (Stoop et al., 2011)
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của Anti-Mullerian Hormone trong dự báo mãn kinh: Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ lớn
46 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 16, Số 2, Tháng 8 – 2016 Giá trị của Anti-Mullerian Hormone trong dự báo mãn kinh: Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ lớn Cao Thị Lan Hương*, Tăng Quang Thái** Thời kỳ mãn kinh đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn sinh sản ở nữ, thường xảy ra quanh độ tuổi 51, tuỳ nguyên cứu và dân tộc. Tuy nhiên, tuổi mãn kinh thay đổi đáng kể ở từng cá nhân từ 40 đến 60 tuổi, trong đó khoảng 10% phụ nữ bước vào mãn kinh sau tuổi 45. Có một giai đoạn kéo dài khoảng 10 năm, chuyển tiếp từ khi khả năng sinh sản tự nhiên kết thúc đến giai đoạn mãn kinh (te Velde và Pearson, 2002; Broekmans et al., 2007). Điều này có nghĩa là phụ nữ mãn kinh năm 43 tuổi có thể đã kết thúc khả năng sinh sản tự nhiên vào năm 33 tuổi mà không có thay đổi đáng kể nào như rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Với xu hướng trì hoãn có con như hiện nay, chúng ta có thể hình dung ra rằng những phụ nữ này sẽ đối mặt với việc vô sinh và cần kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) để có con (de Graaff et al., 2011). Nếu chúng ta có thể dự báo chính xác tuổi mãn kinh cho từng cá nhân thì có thể ngăn ngừa tiên phát việc vô sinh do tuổi bằng cách tư vấn cho họ có con sớm hay lưu trữ bảo tồn trứng đông lạnh (Stoop et al., 2011). Anti-Mullerian Hormone (AMH) là một hormone chỉ được tiết ra bởi nang trứng và được dùng để đánh giá sự suy giảm số nang noãn theo tuổi (Lee et al., 1996; van Rooij et al., 2002; Gruijters et al., 2003; Broekmans et al., 2006; Broekmans et al., 2007). Giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh khởi phát với sự cạn kiệt nang noãn và AMH phản ảnh số lượng nang noãn còn * BS Nội trú, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** BSCKI, Khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Hùng Vương, Email: [email protected] lại, giá trị AMH theo tuổi được dùng để dự đoán mãn kinh đã được đánh giá trong cả nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu và hồi cứu (van Disseldorp et al., 2008; Broer et al., 2011a; Tehrani et al., 2011, 2013; Freeman et al., 2012; Dolleman et al., 2013a). Yếu tố môi trường và lối sống, như hút thuốc lá và chỉ số khối cơ thể (BMI), cũng được xem xét là yếu tố dự báo mãn kinh (Gold, 2011; Dossus et al., 2012; Morris et al., 2012). Mặc dù những nghiên cứu về AMH đều nhất trí đồng ý rằng AMH có liên quan đến tuổi mãn kinh, nhưng chưa có nghiên cứu nào cho thấy giá trị tăng thêm thật sự khi đưa AMH vào danh sách các phương pháp sẵn có ưu tiên hàng đầu như tuổi, yếu tố môi trường và lối sống trong việc dự báo mãn kinh. Hơn thế nữa, kết quả từ những nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với cỡ mẫu nhỏ và thời gian theo dõi ngắn trên đối tượng chọn lọc là những phụ nữ đã mãn kinh giúp đảm bảo kết quả cho một nghiên cứu tiền cứu lớn hơn, thời gian theo dõi dài hơn, trên dân số chung. Theo nghiên cứu của Madeleine Dólleman và cộng sự, đăng tải trên tạp chí Human Reproduction, 2015, mục đích của nghiên cứu là đánh giá giá trị tăng thêm của AMH trong dự báo mãn kinh. Ngoài ra, AMH đã được chứng minh là không chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như thuốc ngừa thai uống và chu kỳ kinh đều, giá trị tăng thêm của AMH cũng sẽ được đánh giá trong phân tích phân nhóm. Yếu tố dự đoán Tất cả những biến số liên quan đến đặc điểm của bệnh nhân và kết quả cận lâm sàng được lấy từ Doetinchem Cohort 47 THÔNG TIN CẬP NHẬT Study (DCS). Những đặc điểm sau được xem là có khả năng dự báo mãn kinh: AMH, số gói – năm hút thuốc lá, BMI, tình trạng kinh tế xã hội (SES), tuổi bắt đầu có kinh, số lần mang thai, tình trạng chu kỳ kinh: đều hay không đều, đang mang thai hay đang sử dụng liệu pháp hormone thay thế (HRT) hoặc uống thuốc tránh thai (OC), và thời gian sử dụng thuốc ngừa thai. Trong toàn bộ quần thể nghiên cứu, mô hình dự báo mãn kinh chỉ bao gồm tuổi được chuyển đổi sang đồ thị spline với nguy cơ mãn kinh tăng tuyến tính đến 38 tuổi, sau đó độ dốc giảm nhẹ. C-statistic của mô hình được sử dụng để đánh giá khả năng dự báo của mô hình. Cụ thể là, mô hình dự báo được đề nghị cuối cùng bao gồm tuổi, BMI, tình trạng hút thuốc, tình trạng chu kỳ kinh nguyệt (đều, không đều, đang mang thai hay uống thuốc ngừa thai). Mô hình này có khả năng dự báo chính xác 89 ± 1%, so với mô hình chỉ gồm tuổi thì khả năng dự báo là 88 ± 1 %. Việc thêm vào AMH làm tăng độ chính xác lên 91 ± 3%. Trong phân nhóm phụ nữ từ 25-43 tuổi có chu kỳ kinh đều, với mô hình chỉ gồm tuổi có khả năng dự báo chính xác 79 ± 4% và mô hình không kèm AMH là 79 ± 4 %, mô hình có kèm AMH là 87 ± 3 %. HR của AMH trong mô hình đa biến có ý nghĩa (P ≤ 0,0001). Nhìn chung, mô hình gồm AMH và 4 yếu tố dự báo khác giúp phân loại chính xác thêm 60.4% phụ nữ bước vào mãn kinh (thuộc nhóm nguy cơ cao) trong thời gian theo dõi so với mô hình không AMH. Nó cũng giúp phân loại chính xác thêm 12.7% những phụ nữ không bước vào mãn kinh (thuộc nhóm nguy cơ thấp) trong thời gian theo dõi. Điều này tương ứng với mức cải thiện độ chính xác lên đến 36.5%. Kết luận Nghiên cứu này cho thấy tất cả các yếu tố liên quan đến lối sống và dự báo chức năng sinh sản, tuổi và AMH đều giúp dự đoán tuổi mãn kinh (TMK). Tuổi là yếu tố dự báo TMK mạnh nhất, kết quả này hợp lý vì rõ ràng là phụ nữ lớn tuổi có TMK ngắn hơn so với phụ nữ trẻ. Nghiên cứu này cũng đưa ra bằng chứng cho thấy AMH giúp tăng giá trị dự báo mãn kinh ngay cả khi tính cả tuổi, BMI, tình trạng chu kỳ kinh và hút thuốc lá vào. Đối với nhóm phụ nữ từ 45 tuổi trở lên, khi chỉ dựa đơn thuần vào tuổi, có xác xuất gần như 100% sẽ bước vào mãn kinh trong vòng 10 năm tới, để lại rất ít chỗ trống cho sự cải thiện dự báo mãn kinh bởi AMH. Nên khi thêm yếu tố AMH vào, không nhận thấy rõ sự khác biệt. Cụ thể là một phụ nữ có AMH ≥ 4 ng/mL sẽ có cùng nguy cơ bước vào mãn kinh như người có AMH = 3 ng/mL. Tuy nhiên, AMH ở ngưỡng thấp (< 1.5 ng/mL), có liên quan trực tiếp đến TMK. Trong nhóm phụ nữ từ 20-43 tuổi, có vẻ như hiệu quả dự đoán của AMH bị ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của các yếu tố quyết định khác như thai kỳ, chu kỳ kinh không đều và thuốc ngừa thai. Ở những phụ nữ này, AMH có lẽ không phản ánh đơn thuần chức năng buồng trứng nhưng giúp phản ảnh mức độ ức chế lên tuyến yên và buồng trứng do thai kỳ, việc dùng thuốc ngừa thai hay các rối loạn chức năng buồng trứng khác như trong trường hợp chu kỳ kinh không đều trong hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) (Dolleman et al., 2013b). Thật thú vị, mối liên quan giữa thai kỳ và TMK không như mong đợi của các tác giả (nghĩ rằng thai kỳ làm rút ngắn TMK), thực tế mối tương quan này không đáng kể do đó nên hủy bỏ suy đoán về mối quan hệ này. Ngoài ra, mặc dù các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc đang hút thuốc lá ảnh hưởng mạnh mẽ lên tuổi mãn kinh, nhưng trong nghiên cứu cho thấy số gói – năm hút thuốc mới là yếu tố dự đoán tốt nhất so với các biến khác như đang hút thuốc, đã từng hút thuốc hay không bao giờ hút thuốc”. 48 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 16, Số 2, Tháng 8 – 2016 Kết quả này tương đồng với những nghiên cứu của van Asselt et al. 2004; Kinneyet al., 2007. Giá trị lâm sàng Độ chính xác của mô hình dự báo mãn kinh có AMH gần 90% với độ lệch chuẩn nhỏ. Việc bổ sung AMH giúp tăng độ chính xác lên 90%. Qua kết quả theo dõi và đánh giá lâm sàng cho thấy AMH giúp cải thiện độ chính xác trong dự đoán tuổi mãn kinh từ 34-43%. Khi so với mô hình không có AMH thì giá trị thêm vào của AMH cao hơn ở nhóm nguy cơ cao mãn kinh, là 2.5-11.1% ở những phụ nữ đã mãn kinh khi theo dõi, và giá trị thêm vào của AMH thấp hơn ở nhóm nguy cơ thấp, là 0.3-2.9% ở những phụ nữ không bước vào mãn kinh. Giá trị tăng thêm của AMH là lớn nhất ở những phụ nữ trẻ với chu kỳ kinh đều trong việc dự đoán TMK vì những phụ nữ này sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ việc biết được khả năng sinh sản của họ còn kéo dài bao nhiêu năm nữa. Điều này càng được chứng minh thông qua việc đánh giá nguy cơ gia tăng trung bình cho từng cá nhân bước vào thời kỳ mãn kinh trong thời gian theo dõi bằng mô hình dự báo có AMH. Trong khi đó, đối với toàn bộ dân số thì giá trị tăng thêm của AMH chỉ có 2.5%, nguy cơ ước tính tăng thêm khoảng 7-11% ở phụ nữ trẻ từ 25-43 tuổi. Với thông tin về TMK, phụ nữ có nguy cơ cao mãn kinh sớm (và do đó tiềm tàng nguy cơ hiếm muộn sớm) có thể được tư vấn theo hướng không nên trì hoãn mang thai hoặc theo hướng nên lưu trữ bảo tồn trứng đông lạnh. Dự đoán khả năng sinh sản rất có ý nghĩa đối với ước muốn có con ở khía cạnh cá nhân, và đối với việc duy trì dân số và giảm chi phí cho ART ở khía cạnh xã hội. Tuy nhiên, đáng chú ý là chưa có nghiên cứu can thiệp nào được thực hiện để đánh giá liệu phương pháp này có thực sự giúp giảm số cặp vợ chồng vô tình không muốn có con hay không. Điểm mạnh và điểm hạn chế của nghiên cứu Điểm mạnh chính của nghiên cứu là thiết kế dựa trên dân số chung, cho phép nghiên cứu trên nhiều phân nhóm khác nhau với các đặc điểm sinh sản khác nhau. Và cũng vì vậy, ngoài tác động của AMH, những yếu tố quyết định dự báo TMK cũng được đánh giá. Một điểm mạnh khác của nghiên cứu này là số lượng phụ nữ trẻ được tuyển vào, đây là đối tượng mà giá trị dự đoán TMK là cao nhất. Nghiên cứu này thậm chí còn mạnh hơn nếu thời gian theo dõi dài hơn để có thêm quan sát về số lượng phụ nữ trẻ bước vào thời kỳ mãn kinh trong thời gian theo dõi vì điều này giúp tăng độ chính xác của yếu tố dự đoán. Và cũng do đó, thật tiếc là nhóm nghiên cứu đã không thể phân biệt chính xác giữa phụ nữ có chu kỳ kinh không đều là do tiền mãn kinh hay là do hội chứng buồng trứng đa nang. Vì vậy, không thể xem chu kỳ kinh ngắn là yếu tố dự đoán TMK, mà trước đó điều này được chứng minh là có thể có mối liên hệ. Hơn thế nữa, bởi vì nhà nghiên cứu không thể chắc chắn độ tuổi mà một phụ nữ có dùng liệu pháp hormone thay thế bắt đầu vô kinh, các tác giả phải xếp họ vào nhóm tiền mãn kinh tại thời điểm họ bắt đầu điều trị liệu pháp hormone thay thế. Hiện nay, câu hỏi về sự ổn định của AMH trong máu được đặt ra (Rustamov et al., 2012), đặc biệt là khi AMH nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng hay -200C. Tuy nhiên, rõ ràng là các kết quả xét nghiệm AMH đều có tính lặp lại, ổn định và đáng tin cậy khi dùng quy trình xử lý mẫu thích hợp (Fleming and Nelson, 2012). Một thế mạnh của nghiên cứu này là việc sử dụng phương pháp AMH Gen-II (Beckman- 49 THÔNG TIN CẬP NHẬT Coulter Ltd), đây là phương pháp đáng tin cậy nhất hiện nay đối với AMH. Ngoài ra, các mẫu được kiểm định bởi duy nhất một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm có kinh nghiệm và độ chính xác của kết quả xét nghiệm được đánh giá bằng phương pháp pha loãng. Đây là tất cả những yếu tố hỗ trợ lấy mẫu đồng nhất và tăng độ tin cậy và độ lặp lại của việc đo đạc AMH. (Theo Madeleine Dólleman; W.M. Monique Verschuren; Marinus J.C. Eijkemans; Frank J.M. Broekmans; Yvonne T. van der Schouw. Hum Reprod. 2015; 30(8):19741981.) Hoạt động quyên góp trong chương trình “Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương - 12 năm hành trình đong đầy hạnh phúc” Ngày 26/6/2016, tại Hội trường của bệnh viện Hùng Vương đã diễn ra chương trình “Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương - 12 năm hành trình đong đầy hạnh phúc”. Chương trình là sự chia sẻ những kinh nghiệm của các cặp vợ chồng đã thành công khi thực hiện hỗ trợ sinh sản tại Bệnh viện Hùng Vương, là sự tiếp sức về mặt tinh thần cho các cặp vợ chồng đang tham gia vào quá trình hỗ trợ sinh sản tại bệnh viện. Quỹ hỗ trợ này do nhân viên y tế, các công ty, các nhà hảo tâm và các bệnh nhân đã làm thụ tinh trong ống nghiệm thành công cùng nhau chia sẻ với những người cùng hoàn cảnh nhưng gặp khó khăn về kinh tế. Quỹ được thu chi và quản lý bởi Ban chấp hành Hội Phụ Sản TP. Hồ Chí Minh. Ban Giám đốc Bệnh viện Hùng Vương sẽ đề xuất các tiêu chí và hạn mục để chọn bệnh nhân. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện tại Khoa Hiếm Muộn Bệnh viện Hùng Vương Mọi đóng góp quý vị có thể gửi về theo 2 hình thức sau: 1. Bằng chuyển khoản: Chủ tài khoản: Hội Phụ Sản TP. HCM Số tài khoản: 051 100 390 3629 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Chi nhánh Quận 5. 2. Bằng tiền mặt: Văn phòng Hội Phụ sản TP.HCM: gặp Cô Nguyễn Thị Lang (Phòng Chỉ Đạo Tuyến – BV Hùng Vương, 128 Hồng Bàng, P.12, Q.5)
File đính kèm:
gia_tri_cua_anti_mullerian_hormone_trong_du_bao_man_kinh_ket.pdf

