Giá điện cần công khai, minh bạch các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất kinh doanh
Việc tăng giá bán điện đã gây xôn xao dư luận từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh đến đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, việc tăng giá điện đã trở thành chủ đề nóng trong Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ, minh bạch hóa cách tính giá điện để có câu
trả lời thỏa đáng cho nhân dân. Bài viết phân tích sự hình thành và phương pháp tính giá điện ở nước ta
hiện nay, qua đó thấy được ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế để đề xuất những giải pháp phù hợp để có
cách tính giá điện hợp lý, phù hợp với quy luật của thị trường và quy luật Cung – Cầu, đáp ứng tốt nhu cầu
tiêu thụ điện năng của các đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để
thị trường điện năng ổn định và phát triển hiệu quả trong thời gian tới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá điện cần công khai, minh bạch các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất kinh doanh

18 COÂNG KHAI MINH BAÏCH GIAÙ ÑIEÄN DÖÔÙI CAÙC GOÙC NHÌN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 141 - tháng 7/2019 giaù ñieän Caàn CoÂng Khai, minh baïCh CaùC yeáu toá ñaàu vaøo CuÛa Chi phí saÛn xuaát Kinh doanh PGS,TS. NGÔ TRÍ LONG* Tập đoàn EVN về cơ cấu hiện có 3 Tổng công ty phát điện (GENCO 1,2,3) thuộc lĩnh vực sản xuất điện năng; 5 Tổng công ty điện lực (PC) kinh doanh điện năng (đóng vai trò bán buôn) đến khách hàng và Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (EVN NPT). Ngoài ra, công ty mẹ của EVN còn sở hữu 100% vốn tại một số công ty, nhà máy phát điện có vị trí chiến lược khác. Trên thực tế, các doanh nghiệp thành viên của EVN vẫn đóng vai trò rất lớn tại các khâu phát điện, điều độ và truyền tải, phân phối và bán lẻ; hay theo một cách diễn giải khác, có thể thấy rằng EVN vừa tham gia, vừa điều hành thị trường. Do đó, thị trường điện vẫn còn mang đậm tính chất độc quyền và tính minh bạch trong các hoạt động giao dịch, sản xuất kinh doanh điện vẫn là vấn đề được dư luận quan tâm. Phương pháp tính giá điện vẫn còn nhiều bất cập Điện là ngành độc quyền, giá do Nhà nước quy định. Về phương pháp xây dựng giá điện hiện nay chủ yếu dựa trên chi phí thống kê hạch toán giá thành của EVN (chưa đủ độ tin cậy). Hiện tính giá điện chưa áp dụng phương pháp phổ biến và hiện đại theo chi phí biên dài hạn, chưa xây dựng biểu giá 2 thành phần: công suất và điện năng. Giá điện 2 thành phần, gồm: chi phí điện năng (trả cho nhà máy phát điện) và chi phí truyền tải (trả cho đơn vị xây dựng trạm biến áp, đường dây). Muốn tách được hai thành phần này thì phải tách được Việc tăng giá bán điện đã gây xôn xao dư luận từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh đến đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, việc tăng giá điện đã trở thành chủ đề nóng trong Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ, minh bạch hóa cách tính giá điện để có câu trả lời thỏa đáng cho nhân dân. Bài viết phân tích sự hình thành và phương pháp tính giá điện ở nước ta hiện nay, qua đó thấy được ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế để đề xuất những giải pháp phù hợp để có cách tính giá điện hợp lý, phù hợp với quy luật của thị trường và quy luật Cung – Cầu, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu thụ điện năng của các đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để thị trường điện năng ổn định và phát triển hiệu quả trong thời gian tới. Từ khóa: Giá bán điện. Input factors of electricity price need to be public and transparent The increase in electricity prices has caused a lot of public opinion, from businesses, manufacturers to all classes in the society. In particular, the increase in electricity prices has become a hot topic in the 7th session of the XIV National Assembly, which has been concerned by many members of National Assembly and it is required that the state management authorities should clarify and make the pricing transparentto have satisfactory answers for the people. The article analyzes the formation and method of calculating electricity prices in the country, including advantages as well as shortcomings to propose appropriate solutions to have a reasonable and appropriate electricity price calculation method,which is in accordance with market rules and the law of supply and demand, to meet the demand for power consumption of customers. Besides, the author also proposes some solutions to stabilize and develop the power market in the coming time. keywords: Electricity selling price. * Chuyên gia Kinh tế 19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 141 - tháng 7/2019 hai khâu: truyền tải và kinh doanh điện. Khi tách ra, truyền tải sẽ trở thành khâu độc quyền nhưng kinh doanh sẽ là thị trường cạnh tranh - nơi nhiều doanh nghiệp kinh doanh điện hoạt động và cạnh tranh giá với nhau. Người tiêu dùng sẽ được nhìn thấy rõ ràng hai loại chi phí cấu thành nên giá điện. Tuy nhiên, hiện nay thị trường bán lẻ điện cạnh tranh vẫn chưa được hình thành. Không chỉ là vấn đề kĩ thuật, việc phân tách hai khâu truyền tải và kinh doanh điện còn gặp rào cản về con người và lợi ích. Do đó, dù đặt mục tiêu sau năm 2023 thực hiện thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh, vẫn chưa có gì chắc chắn vào thời điểm đó, chúng ta sẽ có một thị trường điện cạnh tranh thực sự và minh bạch hóa được giá điện. Việc tính giá điện mới chú ý đến các yếu tố làm tăng giá điện mà chưa quan tâm đến giảm giá điện như mùa nước và việc tăng công suất các nhà máy thuỷ điện, giảm tổn thất, giá thành. Để xác định giá điện, phải tính toán được giá thành. Giá thành của ngành điện bao gồm: Tổng chi phí khâu phát điện; Tổng chi phí khâu truyền tải điện; Tổng chi phí khâu phân phối - bán lẻ điện; Tổng chi phí khâu phụ trợ - quản lý ngành. Việc tính chi phí sản xuất kinh doanh điện căn cứ trên các tài liệu do EVN và các đơn vị thành viên cung cấp, gồm: Báo cáo chi phí và giá thành sản xuất kinh doanh điện trong năm của EVN do kiểm toán độc lập - Công ty TNHH Deloitte Việt Nam kiểm toán; báo cáo tài chính hợp nhất năm sau kiểm toán của EVN, báo cáo tài chính do đơn vị kiểm toán độc lập kiểm toán của Công ty mẹ EVN và các đơn vị thành viên; hợp đồng mua bán điện giữa EVN và các đơn vị phát điện. Về nguyên tắc các chi phí được phép đưa vào trong giá thành sản xuất kinh doanh điện và đưa vào tính toán điều chỉnh giá điện chỉ có chi phí sản xuất kinh doanh của các hoạt động trong lĩnh vực điện. Các chi phí đầu tư ngoài ngành không được phép đưa vào trong giá thành sản xuất kinh doanh điện cũng như trong tính toán điều chỉnh giá điện. Theo quy định trên, hàng năm, căn cứ vào số liệu chi phí đã được kiểm toán độc lập xác nhận, Bộ Công thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tiến hành kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Chi phí sản xuất kinh doanh điện được tách bạch theo chi phí các khâu, như phát điện, truyền tải, phân phối, phụ trợ và quản lý ngành. Trước nay, chi phí đầu ra của điện lực được nhắc đến nhiều mà ít đề cập đến chi phí đầu vào. Bộ Công thương đã công khai đối với giá bán điện và phần nào đã thực hiện việc minh bạch hóa. Nhưng 20 COÂNG KHAI MINH BAÏCH GIAÙ ÑIEÄN DÖÔÙI CAÙC GOÙC NHÌN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 141 - tháng 7/2019 việc minh bạch trên vẫn chưa đủ bởi điều quan trọng nhất của giá điện là cần công khai các chi phí đầu vào để tính toán chi phí. Bởi đối với ngành độc quyền, giá do Nhà nước định, không phải bất cứ chi phí nào được quy định trong chi phí đều được tính hết vào. Về nguyên tắc phải tính đúng, tính đủ, tính hợp lý của nó. Vì nó là ngành độc quyền phải xem những chi phí đó đã hợp lý hay chưa? Những chi phí kém hiệu quả có tính chủ quan trong quá trình hoạt động kinh doanh không thể bắt người tiêu dùng phải gánh chịu. Những loại chi phí đó cần dựa vào định mức, chuẩn mực cả khu vực hoặc quốc tế để xem xét. Nếu tính tất cả những chi phí bất hợp lý đó dẫn tới giá thành không thực, trong đó còn có thể có những yếu tố chưa minh bạch, chưa đúng mà người tiêu dùng cần biết vì chính họ bị thua thiệt, chưa đảm bảo tính hợp lý và hợp lệ. Tổng chi phí theo từng loại giá của ngành điện có từ 7-9 yếu tố được tính chi phí đầu vào, gồm: khấu hao, nguyên nhiên liệu, vật liệu; lương (thưởng); sửa chữa lớn; dịch vụ mua ngoài; chi phí tài chính (lãi vay, chênh lệch tỷ giá); chi phí phát triển khách hàng và các chi phí bằng tiền khác. Trong các chi phí đầu vào trên, có 3 loại chi phí là khấu hao, chi phí định mức lương và chi phí tài chính là do Nhà nước quy định, còn các chi phí khác hoàn toàn do EVN tự quyết định, tức phía sản xuất quyết định. Việc EVN tự quyết định dẫn đến có thể có nhiều yếu tố chi phí không khách quan, có lợi cho bên sản xuất, không minh bạch, ảnh hưởng nhiều đến yếu tố giảm giá thành. Một trong những yếu tố đầu vào để tính giá điện, cần phải làm rõ và minh bạch hơn, đó là chi phí cho giá phát điện - chi phí lớn nhất ảnh hưởng tới giá điện (chiếm tới 75% trong cơ cấu giá thành), đây là khâu quyết định của giá điện. Yếu tố quyết định ở đây là yếu tố năng suất và hiệu suất của bản thân các nhà máy điện. Trong đó cần quan tâm đến nhiên liệu (khối lượng cần dùng và giá), vận hành, sửa chữa, điện tự dùng. Hiệu suất sử dụng hiện nay rất thấp, tiêu hao rất nhiều nhiên liệu, nên giá thành điện rất cao. Theo số liệu hiện có, việc tiêu hao bình quân nhiệt điện của thế giới là 380g nhiên liệu/kWh, trong khi Việt Nam hơn gấp rưỡi là 560g/kWh. Năng suất và hiệu suất của các nhà máy phát điện hiện nay chưa được minh bạch. Nếu quản lý tốt có khả năng giá thành phát điện còn có khả năng giảm được chứ không chỉ có tăng giá. Nếu các định mức chi phí do EVN tự quyết định, tức là để EVN sản xuất theo định mức đó, kiểu gì EVN cũng có lãi, cứ cộng hết vào, làm thui chột tính phấn đấu của họ và hậu quả người tiêu dùng gánh chịu. Hiện nay, chưa có nghiên cứu chính thức nào về đánh giá trình độ công nghệ năng lượng ở Việt Nam nói chung và công nghệ điện lực nói riêng so với khu vực và thế giới. Nhưng nếu so với định mức chi phí chung của thế giới và khu vực nhìn chung việc khai thác, sản xuất, chế biến than đang sử dụng công nghệ cũ, giá thành khai thác cao; công nghệ khai thác dầu - khí được đánh giá là đương đại. Về công nghệ phát điện, ngoài một số nhà máy lớn sử dụng công nghệ từ các quốc gia thuộc khối G7, các máy nhiệt điện than còn lại sử dụng công nghệ từ Trung Quốc được đánh giá chỉ ở mức trung bình thấp, hiệu suất trung bình thấp, độ tin cậy chưa cao. Các thủy điện vừa và nhỏ hầu hết sử dụng công nghệ Trung Quốc được đánh giá là lạc hậu. Trong tiêu thụ năng lượng công nghiệp và dân dụng được đánh giá khoảng 70% thiết bị ở mức lạc hậu, tiêu hao năng lượng lớn và ô nhiễm cao. Điện tự dùng của EVN, các chỉ số khác cũng đều cao. Dùng biện pháp giá để hạn chế sử dụng điện đối với người tiêu dùng, tại sao lại không áp dụng biện pháp giá để bắt buộc tiết kiệm đối với ngành điện như tiết kiệm điện tự dùng và tổn thất truyền tải. Do đó, giải quyết bản chất của giá điện, phải giải quyết cái gốc là chi phí sản xuất, làm sao phải tiết giảm những yếu tố này. Cách tính khấu hao trong giá thành điện có tác động rất lớn đến giá điện. Đối với cách tính khấu hao của thủy điện hiện nay cần được xem xét lại. Trong thủy điện là giá trị đầu tư nhà máy chiếm 80% khấu hao vào giá điện. Các công trình này đầu tư rất lớn, để thu hồi vốn nhanh thì phải tính khấu hao ngắn. Hiện nay, các nhà máy điện khấu hao nhiều nhất là 30 năm, có khi 20 năm, trong khi đáng lẽ phải khấu hao 100 năm. Nếu tính như vậy, thì giá thành rất cao, cách tính như vậy là chưa hợp lý. EVN hàng năm phải nhập nhiều thiết bị vật tư nước ngoài bằng ngoại tệ, tỷ giá luôn biến động. Tổng số tiền chênh lệch tỷ giá tính cộng dồn lên rất lớn. Về nguyên tắc hoạt động trong nền kinh tế 21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 141 - tháng 7/2019 thị trường, doanh nghiệp phải có những giải pháp phòng ngừa, để giảm thiểu những rủi ro về biến động của tỷ giá. Về tỷ giá, đây là yếu tố được tính vào giá thành theo quy định và hướng dẫn của Bộ Công thương. Hiện còn nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét xem liệu đã công bằng chưa giữa EVN với các doanh nghiệp khác. Về yếu tố tiền lương, 1 kWh điện năng hiện phải gánh chịu quá nhiều chi phí, từ khâu sản xuất đến các khâu trung gian và số lượng người được tính giá trên 1 kWh là rất lớn. Việc định biên số người trên là do EVN tự định biên dưới sự hướng dẫn của các thông tư hướng dẫn của Bộ Công thương. Năng suất lao động nói chung của Việt Nam còn thấp, trong đó năng suất lao động của EVN so với Ngành điện của các nước trong khu vực còn thấp hơn nhiều công ty cùng chuyên ngành trong khu vực, chưa phát huy hết sức mạnh nội lực. Năng suất lao động của Ngành điện còn rất thấp và người tiêu dùng phải chịu “hậu quả” của điều đó. Đây là tồn tại làm cho chi phí sản xuất kinh doanh của Ngành điện khó giảm, mà EVN cần khắc phục, phải thay đổi tư duy, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu sức lao động chân tay. Chi phí cho truyền tải qua một số năm chưa có xu hướng giảm, mà nguyên nhân dẫn đến tăng chi phí chính là tăng tổn thất truyền tải này. EVN có những khoản chi chưa rõ trong cơ cấu tính giá thành bán lẻ điện. Nguyên tắc tính giá điện chỉ bao gồm những chi phí phục vụ việc vận hành, cung ứng điện. Tuy nhiên, trong thực tế, có những khoản chi khác vẫn được đưa vào trong chi phí sản xuất kinh doanh điện như chi phí tuyên truyền tiết kiệm điện tại các công ty điện lực. Năm 2016 là 331 tỷ đồng, tăng lên 488 tỷ đồng năm 2017, tức là tăng 157 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 47%. Trong khi đó, hiệu quả của công tác này hiện chưa thực sự rõ ràng, Năm 2017, tổng chi tuyên truyền tiết kiệm điện là gần 500 tỉ đồng, cũng được đưa vào giá điện Năng lực cạnh tranh của Ngành điện vẫn còn “ì ạch” Khi đến làm việc với EVN, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ rõ về năng lực cạnh tranh của ngành hiện vẫn ở mức thấp, đứng thứ 96. Chỉ số tiếp cận điện năng trong ASEAN đứng ở vị trí số 6, gần cuối bảng xếp hạng, một số công trình xây dựng cơ bản chất lượng còn thấp, vẫn để xảy ra thất thoát, một số dự án ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của người dân. Do đặc điểm ngành nghề kinh doanh, EVN luôn dẫn đầu về các nguồn vốn ưu đãi nhưng tiến độ đầu tư dự án lại rất chậm làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp. Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong đầu tư xây dựng là vấn đề có ý nghĩa lớn trong giảm chi phí. Để bù đắp cho nhu cầu năng lượng điện tăng cao, hàng loạt dự án nhà máy điện đã được triển khai từ trước, song tới hiện tại nhiều dự án của EVN vẫn đang tiến triển rất ì ạch. Điều này đã làm cho giá thành của Ngành điện khó có khả năng giảm. EVN vẫn ở thế độc quyền, EVN vừa tham gia điều hành thị trường, vừa mua bán điện. Ở một thế như vậy, tính minh bạch trong hoạt động của EVN cần phải được kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu vào. EVN là doanh nghiệp của Nhà nước, theo nguyên tắc “Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thì những doanh nghiệp nhà nước như EVN là công ty mà mỗi người dân - người đóng thuế - được xem như một cổ đông. Về lý thuyết, những cổ đông này có quyền được cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, được giải thích và chất vấn nếu có bức xúc về doanh nghiệp. Người dân không ngại phải trả tiền điện theo giá thị trường. Vấn đề là giá họ nhận được phải thể hiện đầy đủ đặc tính của thị trường đúng nghĩa: hợp lý, công bằng và minh bạch. Việc tăng giá điện để đầu tư, phát triển ngành điện là cần thiết, vấn đề là cần phải công khai, minh bạch cách tính giá đầu vào của điện để công luận biết, giá điện gồm những yếu tố gì, trong đó cần quan tâm đến yếu tố nào nhất và Bộ Công thương cũng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cần minh bạch là vô cùng cần thiết để tạo sự đồng thuận trong xã hội. EVN vẫn ở thế độc quyền, EVN vừa tham gia điều hành thị trường, vừa mua bán điện. Ở một thế như vậy, tính minh bạch trong hoạt động của EVN cần phải được kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu vào. Nếu cơ quan chủ quản muốn trấn an công luận với những từ ngữ cực kỳ chung chung khó hiểu như “chi phí khác hợp lý”, “chúng tôi không cho bù lỗ cho các khoản lỗ đầu tư trái Ngành, những chi phí bất hợp lý vào chi phí tính giá thành của 22 COÂNG KHAI MINH BAÏCH GIAÙ ÑIEÄN DÖÔÙI CAÙC GOÙC NHÌN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 141 - tháng 7/2019 điện”, thì người tiêu dùng vẫn nghi ngại. Đầu tư vào Ngành điện thực sự rất lớn, nhưng kiểm soát chi phí đầu vào, đấu thầu, chất lượng vật tư thiết bị vẫn còn là ẩn số. Chính nhà điện tự quyết định chọn nhà thầu nào, mua thiết bị, thay thế... và khấu hao đầu tư vào giá thành. Trong khi, cần thiết có cơ quan kiểm định, kiểm soát giá độc lập chi phí đầu vào, chất lượng vật tư thiết bị đầu tư Ngành điện thì không thấy. Công luận mong chờ cơ quan chức năng làm việc một cách công tâm, khách quan và minh bạch. Phát triển thị trường điện cạnh tranh là xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới, là động lực cho hoạt động hiệu quả trong sản xuất kinh doanh điện và phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế này. Mặc dù, Chính phủ hiện đã đưa ra một số lộ trình để dần đưa thị trường về thế cạnh tranh, song đến khi nào và bao giờ người dân được tự do lựa chọn nhà cung cấp vẫn còn là một câu hỏi lớn. Định hướng phát triển thị trường điện năng ở nước ta trong thời gian tới Điện lực là Ngành độc quyền, Nhà nước đã định mức giá cụ thể và khung giá đối với từng loại sản phẩm điện lực. Từ nay cho đến sau năm 2022, khi có được thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn hảo ở nước ta, cần thực hiện một số vấn đề sau: - Nhà nước điều tiết và kiểm soát giá bán lẻ điện bằng các biện pháp kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về giá điện đối với các đơn vị điện lực. - Để thực hiện giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, giá điện cần điều chỉnh cho phù hợp với nền kinh tế, giảm rủi ro cho doanh nghiệp sản xuất điện. Việc điều chỉnh giá bán điện cần bảo đảm tính kịp thời so với sự biến động của các yếu tố đầu vào hình thành giá. Các yếu tố đầu vào khi xem xét điều chỉnh giá điện cần tính đến cả các yếu tố làm giảm giá điện như yếu tố mùa và công suất, sản lượng tăng thêm đối với nhà máy thuỷ điện, giảm tổn thất hệ thống điện. - Về nguyên tắc, việc xây dựng và điều chỉnh giá điện cần dựa vào những căn cứ thực tiễn và khoa học. - Giá điện nên được một đơn vị, tổ chức định giá độc lập, uy tín định giá. EVN cũng nên công khai cơ chế tính giá, cùng một cam kết cải cách ngành điện hợp lý nhất, tăng giá phải có lộ trình, từng bước và gắn với tăng chất lượng điện. Đa dạng hóa các nguồn cung điện, tránh lệ thuộc tối đa vào điện nhập khẩu, để chủ động bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. - Giải quyết sự chồng chéo giữa nhiệm vụ kinh doanh và công ích, ngành điện đã đề xuất tách bạch hai phần trên. Nếu không tách được, thì có thể dùng một quỹ công ích độc lập để bù đắp theo kênh riêng. - Cần tách bạch các khâu trong quy trình sản xuất, tiêu thụ điện mà Ngành điện không cần thiết nắm giữ ra khỏi EVN, như nguồn, phân phối, thậm chí điều độ. Ngay cả với khâu truyền tải, Ngành điện có thể chỉ nắm giữ phần điều hành, còn đầu tư nên xã hội hóa. Việc huy động vốn được thực hiện thông qua đấu thầu cạnh tranh song hành với cổ phần hóa. Ngày nhận bài: 28/06/2019 Ngày duyệt đăng: 10/7/2019 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật sửa đổi, bổ sung Luật Điện lực năm 2018; 2. Nghị định 08/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều, Khoản của Nghị định số 137/2013/ NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Điện lực năm 2018; 3. Báo cáo chi phí và giá thành sản xuất kinh doanh điện trong năm 2017 của EVN do kiểm toán độc lập - Công ty TNHH Deloitte Việt Nam kiểm toán; 4. Báo cáo tài chính hợp nhất năm sau kiểm toán của EVN, báo cáo tài chính do đơn vị kiểm toán độc lập kiểm toán của Công ty mẹ EVN và các đơn vị thành viên; 5. Hợp đồng mua bán điện giữa EVN và các đơn vị phát điện; 6. Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg về Quy định về cơ cấu biểu gía bán lẻ điện; 7. Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg về điều chỉnh giá bán điện; 8. Bộ Công thương công bố chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2017 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
File đính kèm:
gia_dien_can_cong_khai_minh_bach_cac_yeu_to_dau_vao_cua_chi.pdf