Ghép tế bào gốc nửa thuận hợp ở trẻ suy giảm miễn dịch tiên phát thể trầm trọng phối hợp

Suy giảm miễn dịch tiên phát thể phối hợp trầm trọng (SCID) là bệnh lý di truyền trong đó chức năng của tế

bào lympho T, lympho B giảm hoặc mất hoàn toàn, do đó hệ miễn dịch bị suy giảm và trẻ dễ mắc các bệnh lý

nhiễm trùng. Nếu không điều trị, trẻ sẽ tử vong ngay trong năm đầu đời. Phương pháp điều trị hiện nay là ghép tế

bào gốc tạo máu từ người cho phù hợp HLA, phải được tiến hành sớm nhất có thể. Tuy nhiên việc tìm được người

cho phù hợp rất khó khăn và cần thời gian. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhi SCID T - B - NK+ ghép

tế bào gốc nửa thuận hợp HLA với bộ kit CD3/CD45RA depletion. Thời gian mọc mảnh ghép là 14 ngày. Các

biến chứng gặp sau ghép là nhiễm khuẩn, hội chứng ghép, CMV tái hoạt động, mảnh ghép chống vật chủ. Xét

nghiệm chimerism cho thấy mảnh ghép mọc hoàn toàn (100%). Hiện tại, sau ghép 2 năm sức khỏe bệnh nhân

ổn định, không cần truyền immunoglobulin tĩnh mạch và không có biến chứng mảnh ghép chống vật chủ mạn

pdf 9 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Ghép tế bào gốc nửa thuận hợp ở trẻ suy giảm miễn dịch tiên phát thể trầm trọng phối hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ghép tế bào gốc nửa thuận hợp ở trẻ suy giảm miễn dịch tiên phát thể trầm trọng phối hợp

Ghép tế bào gốc nửa thuận hợp ở trẻ suy giảm miễn dịch tiên phát thể trầm trọng phối hợp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê, 
Bệnh viện Nhi Trung ương
Email: [email protected]
Ngày nhận: 11/03/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
GHÉP TẾ BÀO GỐC NỬA THUẬN HỢP Ở TRẺ SUY GIẢM MIỄN 
DỊCH TIÊN PHÁT THỂ TRẦM TRỌNG PHỐI HỢP
Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê¹, , Nguyễn Thanh Bình1,2, Nguyễn Thị Phương Mai¹, 
Bùi Ngọc Lan¹, Lê Thị Minh Hương¹, Lương Thị Liên¹, 
Mai Thành Công², Nguyễn Thị Diệu Thúy2
1Bệnh viện Nhi Trung ương
2Trường Đại học Y Hà Nội
Suy giảm miễn dịch tiên phát thể phối hợp trầm trọng (SCID) là bệnh lý di truyền trong đó chức năng của tế 
bào lympho T, lympho B giảm hoặc mất hoàn toàn, do đó hệ miễn dịch bị suy giảm và trẻ dễ mắc các bệnh lý 
nhiễm trùng. Nếu không điều trị, trẻ sẽ tử vong ngay trong năm đầu đời. Phương pháp điều trị hiện nay là ghép tế 
bào gốc tạo máu từ người cho phù hợp HLA, phải được tiến hành sớm nhất có thể. Tuy nhiên việc tìm được người 
cho phù hợp rất khó khăn và cần thời gian. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhi SCID T - B - NK+ ghép 
tế bào gốc nửa thuận hợp HLA với bộ kit CD3/CD45RA depletion. Thời gian mọc mảnh ghép là 14 ngày. Các 
biến chứng gặp sau ghép là nhiễm khuẩn, hội chứng ghép, CMV tái hoạt động, mảnh ghép chống vật chủ. Xét 
nghiệm chimerism cho thấy mảnh ghép mọc hoàn toàn (100%). Hiện tại, sau ghép 2 năm sức khỏe bệnh nhân 
ổn định, không cần truyền immunoglobulin tĩnh mạch và không có biến chứng mảnh ghép chống vật chủ mạn. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh suy giảm miễn dịch thể phối 
hợp trầm trọng (SCID - Severe Combine 
Immunodeficiency) là một nhóm các đột biến di 
truyền gây ra những biến đổi khác nhau trong 
sự phát triển, trưởng thành và biệt hóa của các 
tế bào có thẩm quyền miễn dịch. Khác với bệnh 
không có gammaglobulin máu liên kết nhiễm 
sắc thể X (XLA - X - linked agammaglobulin), 
trong SCID cả tế bào lympho B (tham gia đáp 
ứng miễn dịch dịch thể), lympho T (vai trò quan 
trọng trong đáp ứng miễn dịch tế bào và là nhạc 
trưởng cho dàn hòa âm miễn dịch) và cả tế bào 
diệt tự nhiên (tham gia đáp ứng miễn dịch không 
đặc hiệu) đều bị ảnh hưởng. Vì vậy, toàn bộ hệ 
miễn dịch của trẻ suy yếu. Trẻ không những dễ 
mắc bệnh do các vi khuẩn mà còn nhạy cảm 
với các virus, nấm, kí sinh trùng và cả các vi 
khuẩn cơ hội - là những vi khuẩn rất ít gây bệnh 
trên người bình thường như Pneumocystic 
Jiroveci. Những bệnh nhân này nếu không có 
sự chăm sóc y tế đặc biệt sẽ nhanh chóng bị 
nhiễm khuẩn ngay trong một vài tháng đầu đời 
và tử vong trong năm đầu tiên.1
Tỷ lệ mắc của SCID khoảng 1:50 000 trẻ đẻ 
sống, và gặp nhiều hơn ở trẻ trai.2 Trong đó, suy 
giảm miễn dịch (SGMD) phối hợp trầm trọng 
liên kết nhiễm sắc thể giới tính X (X - linked 
SCID) là thể thường gặp nhất, chiếm khoảng 
50% số bệnh nhân mắc SCID. Đặc điểm lâm 
sàng nổi bật của trẻ SCID là trẻ mắc các bệnh 
nhiễm trùng nặng, tái diễn và thường do các vi 
sinh vật hiếm gặp. Những đợt nhiễm trùng đầu 
tiên của trẻ có thể đã rất nặng nề. Một số trẻ 
tử vong ngay trong đợt nhiễm trùng đầu tiên 
do đồng nhiễm nhiều loại vi sinh vật khác nhau 
và gần như không đáp ứng với điều trị thông 
thường. Nhiều gia đình liên tiếp mất 2, 3 con 
Từ khóa: Suy giảm miễn dịch tiên phát, ghép tế bào gốc, nửa thuận hợp HLA.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 131 (7) - 2020
vì nhiễm trùng nặng trong vài tháng sau sinh.3
Ghép tế bào gốc tạo máu là biện pháp điều 
trị duy nhất cho bệnh SCID. Ca ghép tế bào gốc 
đầu tiên cho bệnh nhân SCID được thực hiện 
năm 1968. Sau nhiều thập kỷ, tỷ lệ thành công 
của các ca ghép tế bào gốc ngày càng tăng 
lên. Tuy nhiên, kết quả ghép còn phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố như chẩn đoán bệnh sớm, chăm 
sóc trước và sau ghép tốt, người cho phù hợp 
kháng nguyên bạch cầu người (HLA - Human 
Leukocyte Antigen) và các phác đồ điều kiện 
hóa ít độc hại.4,5 Trong đó, việc tìm được người 
cho phù hợp HLA đóng vai trò rất quan trọng 
trong các cuộc ghép nói chung và cho bệnh 
nhân SCID nói riêng. Tại Việt Nam hiện nay 
chưa có sẵn ngân hàng tủy xương để tìm người 
cho tế bào gốc, mặt khác ngân hàng máu cuống 
rốn còn trong giai đoạn mới thành lập và chưa 
có nhiều mẫu tế bào, việc tìm được người cho 
phù hợp HLA với trẻ SCID từ các nguồn này rất 
khó khăn. Việc liên kết với các ngân hàng tủy 
và tế bào máu cuống rốn trên thế giới để tìm tế 
bào gốc phù hợp là không khả thi, do sự khác 
biệt về chủng tộc, gen và chi phí vận chuyển 
đắt đỏ. Hơn nữa, bệnh nhân SCID đòi hỏi phải 
ghép tế bào gốc cấp cứu và không thể chờ đợi 
thời gian dài tìm nguồn tế bào gốc phù hơp. Do 
đó, việc áp dụng ghép tế bào gốc tạo máu nửa 
thuận hợp có ý nghĩa lớn đối với cho bệnh nhân 
SCID và góp phần cứu sống bệnh nhân SCID.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh 
nhi được chẩn đoán SCID và đã được ghép tế 
bào gốc nửa thuận hợp tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương.
II. BÁO CÁO CA BỆNH
1. Chẩn đoán suy giảm miễn dịch bẩm sinh 
thể trầm trọng phối hợp
Trẻ gái 5 tháng tuổi (ngày sinh 06/10/2017), 
vào viện ngày 09/03/2018 với lý do viêm phổi 
nặng. Khám lâm sàng thấy trẻ có tình trạng suy 
dinh dưỡng nặng ( < - 3SD), nấm miệng kèm 
một ổ loét sâu trong vòm miệng, ăn kém. Tại 
thời điểm vào viện trẻ có tình trạng khó thở vừa, 
nhịp thở 55 lần/phút, rút lõm lồng ngực, phổi 
nhiều ran ẩm 2 bên, SpO2 93 - 95% không oxy. 
Gan to 2 cm dưới bờ sườn, lách không sờ thấy. 
Không có dấu hiệu thần kinh khu trú. Khai thác 
tiền sử trẻ có nhiều đợt viêm phổi, tiêu chảy 
kéo dài từ lúc 2 tháng tuổi, đã điều trị nhiều đợt 
kháng sinh. Trẻ đã tiêm phòng lao nhưng không 
có sẹo lao. Tiền sử gia đình: trẻ là con thứ 4, có 
1 chị gái mất lúc 4 tháng tuổi với chẩn đoán suy 
hô hấp - viêm phổi nặng.
Xét nghiệm máu: bạch cầu lympho 710 tế 
bào/mm3, bạch cầu lympho T (CD3+: 0) giảm 
nặng, lympho B giảm (CD19+: 4 tế bào/ mm³), 
tế bào NK bình thường (CD56+: 418 tế bào/
mm³). Nồng độ kháng thể IgG, IgM, IgA trong 
huyết tương lần lượt là 0,31 g/L; 0 g/L; 0,03 
g/L, thấp hơn nhiều so với giá trị bình thường. 
X - quang ngực: hình ảnh viêm phổi nặng, bóng 
tuyến ức nhỏ. Cấy máu có tụ cầu trắng không 
tan huyết và PCR (polymerase chain reaction) 
dịch tỵ hầu có Bocavirus. 
Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán suy giảm 
miễn dịch bẩm sinh thể trầm trọng phối hợp 
của hội đồng SGMD châu Âu ESID (European 
Society for Immuno - deficiencies) và hội đồng 
SGMD Mỹ PAGID (Pan - American Group for 
Immunodeficiency) gồm những tiêu chuẩn sau: 
Bệnh nhân nam hoặc nữ dưới 2 tuổi có số lượng 
tế bào lympho T ≤ 20% so với trẻ cùng lứa tuổi, 
số lượng tuyệt đối của tế bào lympho trong máu 
ngoại vi dưới 2,5G/L (tương đương 2500/mm³) 
và có thể tìm thấy một trong các đột biến sau: 
Đột biến tìm thấy trên cytokin common gamma 
chain (gama c); Đột biến trên JAK3, Đột biến 
trên RAG1 hoặc RAG2; Đột biến trên IL - 7Rα; 
Hoạt động của ADA dưới 2% của mẫu chứng 
hoặc đột biến trên cả hai gen của ADA.3
Bệnh nhân được chẩn đoán suy giảm miễn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 131 (7) - 2020
dịch tiên phát thể trầm trọng phối hợp T - B - 
NK+. Xét nghiệm gen tìm thấy đột biến dị hợp 
tử kép trên gen RAG2. Đột biến thứ nhất là đột 
biến trên nucleotide 368, G chuyển thành C làm 
thay đổi axit amin ở vị trí 123, Arginine thành 
Proline. Đây là đột biến di truyền từ bố. Đột biến 
thứ hai là đột biến trên nucleotide 104, G thành 
T làm thay đổi axit amin ở vị trí Glycine thành 
Valine. Đột biến này được di truyền từ mẹ.
2. Quy trình điều trị ghép tế bào gốc tạo 
máu
Phương pháp điều trị duy nhất đối với bệnh 
nhân này là ghép tế bào gốc từ người cho phù 
hợp. Tuy nhiên kết quả xét nghiệm HLA giữa 
bệnh nhân và các thành viên trong gia đình 
không tìm được người cho phù hợp HLA hoàn 
toàn 8/8 (bảng 1). Do đó bệnh nhân chỉ định 
ghép tế bào gốc tạo máu theo phương pháp 
nửa thuận hợp, nghĩa là người cho và bệnh 
nhân chỉ phù hợp một nửa về HLA (4/8 hoặc 
5/10). Trong trường hợp này, bố bệnh nhân phù 
hợp HLA 4/8 và được chọn làm người cho tế 
bào gốc. Bệnh nhân được thông qua hội đồng 
khoa học về ghép tế bào gốc và hội đồng y đức 
của bệnh viện Nhi Trung ương. Gia đình bệnh 
nhân được giải thích cụ thể về tình trạng bệnh, 
phương pháp điều trị của bệnh nhân và đồng ý 
ký giấy cam kết điều trị. Bệnh nhân được cách 
ly tại phòng có màng lọc HEPA filter. Trước 
ghép tế bào gốc tạo máu, bệnh nhân được 
điều trị bằng kháng sinh phổ rộng, điều trị dự 
phòng thuốc chống nấm, thuốc điều trị virus 
CMV, cotrimoxazol/trimethoprim dự phòng 
nhiễm Pneumocystic jiroveci, thuốc chống lao 
và truyền globulin miễn dịch (IVIG). Phác đồ 
điều kiện hóa Busulfan/ATG/Fludarabin.
Bảng 1. Hòa hợp HLA giữa bệnh nhân thứ 2 và người cho
HLA Class 1 HLA Class 2
HLA A HLA B HLA C HLA DR
Giới
Tuổi 
Allele 1 Allele 2 Allele 1 Allele 2 Allele 1 Allele 2 Allele 1 Allele 2
Bệnh 
nhân
Nữ 
(2017)
02 33 44 46 01 07 01 09
Người 
cho (bố 
đẻ)
Nam 
(1985)
02 33 44 38 07 07 01 08
Trong 4 ngày trước ghép tế bào gốc, người cho được dùng thuốc kích bạch cầu với liều 10mcg/
kg/ngày. Sau 4 ngày, số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi người cho đạt 45,86 x 109/L, trong đó 
tổng tế bào đơn nhân MNC là 16,1 x 109/L. Số lượng tế bào gốc tạo máu C34+ là 98,58 x 103/L. 
Ghép tế bào gốc tạo máu được tiến hành khi trẻ 6,5 tháng tuổi. Quá trình thu hoạch tế bào gốc 
trong 1 ngày và được tiến hành cùng ngày với ngày ghép tế bào gốc tạo máu. Tế bào gốc từ máu 
ngoại vi của người cho được thu thập bằng máy COM.TEC Fresnius Kabi, bộ KIT P1YA, 25 chu kỳ. 
Khối tế bào gốc máu ngoại vi gạn tách được đạt 260 ml, số lượng bạch cầu 209,44 x 109/L, số lượng 
tế bào đơn nhân 55,2 x 109/L, số lượng tế bào gốc CD34+ 1058,26 x 103/L. 
Để xử lý tế bào gốc từ người cho, chúng tôi lựa chọn phương pháp loại bỏ tế bào lympho T (T cell 
Depletion) bao gồm 2 bộ KIT CD3 depletion và CD45RA depletion. Đây là phương pháp chỉ nhằm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
151TCNCYH 131 (7) - 2020
loại bỏ tế bào lympho T chưa hoạt hoá (và giữ 
lại các tế bào gốc tạo máu, tế bào lympho T 
nhớ). Sản phẩm tế bào gốc máu ngoại vi sau 
thu thập được chia làm 2 phần. Phần 1 (9/10 
thể tích khối tế bào gốc) dùng cho xử lý với bộ 
KIT CD3 depletion, 1/10 thể tích còn lại dùng 
cho xử lý với bộ KIT CD45RA depletion.
Sau khi loại bỏ tế bào lympho T bằng bộ 
KIT CD3 depletion, sản phẩm tế bào gốc thu 
được có thể tích 50 ml, số lượng tế bào gốc 
tạo máu CD34+ 182,6 x 106 tế bào, số lượng tế 
bào lympho T còn lại 17,1 x 104 tế bào, không 
bị nhiễm khuẩn. 
Sau khi loại bỏ tế bào lympho T chưa hoạt 
hoá bằng bộ KIT CD45RA depletion, sản phẩm 
tế bào gốc thu được có thể tích 30 ml, số lượng 
tế bào lympho T nhớ CD45RO đạt 221,4 x 102 
tế bào, không bị nhiễm khuẩn.
Chúng tôi đã dùng 25 ml khối sản phẩm CD3 
depletion và 0,6 ml khối sản phẩm CD45RA 
depletion. Liều ghép cho bệnh nhân như sau:
 - 25 ml khối sản phẩm CD3 depletion
CD34 = 20,28 x 106 cell/kg 
CD3 = 1,9 x 104 cell/kg 
 - 0,6 ml khối sản phẩm CD45RA depletion
CD45RO = 1 x 102 cell/kg
 Quá trình truyền tế bào gốc tạo máu không 
có tai biến gì.
Phác đồ dự phòng mảnh ghép chống vật 
chủ (GVHD - Graft versus Host disease) sử 
dụng thuốc cyclosporin liều 2,4 mg/kg/ngày 
đường tĩnh mạch, duy trì nồng độ cyclosporin 
trong huyết thanh từ 100 - 150 ng/mL. Bệnh 
nhân tiếp tục được dùng thuốc kháng sinh, 
chống virus, chống nấm, thuốc dự phòng lao, 
dự phòng nhiễm Pneumocystic jiroveci và 
truyền IVIG sau ghép. Bạch cầu bắt đầu mọc từ 
ngày D+11 sau ghép không cần sử dụng thuốc 
kích bạch cầu G - CSF, bạch cầu hạt tăng dần 
từ ngày thứ D+10 và mọc ngày thứ D+13 sau 
ghép. Bạch cầu lympho cũng tăng nhanh từ 
ngày thứ 10 sau ghép, đạt trên 2G/l ngày thứ 
D+13 và duy trì ổn định ở mức 2 G/l trong các 
ngày sau (biểu đồ 1 và 2). Hồng cầu tăng dần 
và mọc mảnh ghép vào ngày D+25 (biểu đồ 3). 
Tiểu cầu mọc chậm nhất và đạt số lượng ổn 
định 40 ngày sau ghép tế bào gốc (biểu đồ 4).
Xét nghiệm chimerism đánh giá mọc mảnh 
ghép đạt 100% vào ngày D+18. Các xét 
nghiệm tiếp theo vào ngày D+30 và D+90 thấy 
chimerism đạt 100% thể hiện mảnh ghép mọc 
hoàn toàn và ổn định.
Sau ghép ngày thứ D+10, các chỉ số GOT, 
GPT, bilirubin tăng dần, chức năng đông máu 
giảm, lâm sàng bệnh nhân xuất hiện gan to, 
phù, vàng da nhẹ, tiểu ít. Các chỉ số về chức 
năng thận vẫn ổn định. Bệnh nhân đã được 
hội chẩn và thống nhất chẩn đoán: hội chứng 
ghép (Engraftment syndrome), chỉ định sử 
dụng corticosteroid đường toàn thân liều 1 mg/
kg/ngày, tiếp tục sử dụng cyclosporin, duy trì 
nồng độ cyclosporin trong máu ở ngưỡng 150 
ng/mL. Sau 3 ngày điều trị tình hình của bệnh 
nhân ổn định, men gan giảm dần, bilirubin 
giảm dần, gan đỡ to. Bệnh nhân tiếp tục được 
điều trị corticosteroid giảm liều dần và dừng 
corticosteroid. 40 ngày sau ghép tế bào gốc, 
bệnh nhân được xuất viện.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
152 TCNCYH 131 (7) - 2020
Biểu đồ 1. Quá trình mọc bạch cầu sau ghép tế bào gốc tạo máu
Biểu đồ 2. Quá trình mọc các thành phần bạch cầu sau ghép tế bào gốc tạo máu
2,31
13,1
12,51
7,07
8,87
3,63
8,61
2,43
0
2
4
6
8
10
12
14 x 109/L
Ngày 
Bạch cầu
Trung tính
Lympho
HSC DLI
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
5
D-2 D0 D+7 D+10 D+14 D+28 D+60 D+90 D+120 D+180 D+240 D+360 D+720
x 109/L
Ngày
CD3+
CD4+
CD8+
CD19+
NK
HSCT
DLI
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
153TCNCYH 131 (7) - 2020
Biểu đồ 3. Quá trình mọc hồng cầu sau ghép tế bào gốc tạo máu
Biểu đồ 4. Quá trình mọc tiểu cầu sau ghép tế bào gốc tạo máu
3. Chẩn đoán và điều trị biến chứng sau ghép
50 ngày sau ghép tế bào gốc, bệnh nhân xuất hiện ban ngoài da dạng dát, sẩn từ mặt lan xuống 
toàn thân, kèm theo ngứa nhiều, tiêu chảy phân lỏng ở mức độ trung bình. Các xét nghiệm cho thấy 
chức năng gan, thận bình thường, sinh thiết da có hình ảnh GVHD độ 2. Nhóm nghiên cứu quyết 
định sử dụng corticosteroid đường toàn thân liều 1mg/kg/ngày, corticosteroid tại chỗ và chăm sóc 
dưỡng ẩm da cho bệnh nhân. Sau 5 ngày ban ngoài da biến mất và bệnh nhân ổn định. Cùng với 
biến chứng GVHD, bệnh nhân có đợt tái hoạt động lại virus CMV và EBV. Nồng độ EBV tăng dần từ 
ngày D+20 và đạt nồng độ cao nhất 23600 cp/mL vào ngày D+46 sau đó giảm dần và trở lại âm tính. 
Nồng độ virus CMV tăng dần từ ngày D+41, đạt nồng độ cao nhất 387000 cp/mL vào ngày D+56. 
80
61
98
115
148
0
20
40
60
80
100
120
140
160
D0 D+7 D+14 D+21 D+28 D+60 D+90 D+120 D+150 D+180
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 H
b
 (
g
/L
)
Ngày
Hồng cầu
173
30 22
280
342
0
50
100
150
200
250
300
350
400
D0 D+7 D+14 D+21 D+28 D+60 D+90 D+120 D+150 D+180
S
ố
 l
ư
ợ
n
g
 t
iể
u
 c
ầ
u
 (
G
/L
)
Ngày
Tiểu cầu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
154 TCNCYH 131 (7) - 2020
Nhóm nghiên cứu điều trị thuốc ganciclovir liều 
10 mg/kg/ngày và truyền tế bào lympho của 
người cho với liều 0,5x106/kg người nhận (DLI 
- donor lymphocyte infusion) để diệt virus CMV. 
Sau 3 tuần điều trị, nồng độ CMV âm tính. 
Sau 6 tháng sau ghép, tình trạng bệnh nhân 
ổn định, lên cân tốt, không có biểu hiện nhiễm 
trùng, không có các biểu hiện biến chứng sớm 
của ghép tế bào gốc. Số lượng tế bào lympho 
ổn định và bắt đầu có khả năng sản xuất kháng 
thể. Chức năng gan, thận và các chỉ số xét 
nghiệm ổn định. Nồng độ virus CMV, EBV âm 
tính. Xét nghiệm mọc mảnh ghép chimerism 
duy trì ổn định 100% sau 1, 2, 3, 6 tháng ghép 
tế bào gốc tạo máu. Bệnh nhân tiếp tục được 
theo dõi và tái khám định kỳ mỗi 6 tháng cho 
thấy sức khỏe ổn định, không có biến chứng. 
Trẻ đã dừng các thuốc dự phòng GVHD và các 
thuốc dự phòng virus 1 năm sau ghép. Thời 
điểm hiện tại 2 năm sau ghép, bệnh nhân khỏe 
mạnh, thể trạng và tinh thần phát triển bình 
thường so với trẻ cùng lứa tuổi, không cần 
dùng thuốc dự phòng GVHD, không có biến 
chứng GVHD mạn sau ghép. 
II. BÀN LUẬN
Bệnh nhân trên được chẩn đoán SCID T - B 
- NK+ do đột biến gen RAG2. Đột biến gen này 
gây bất thường quá trình tái tổ hợp phức hợp 
VDJ. Khiếm khuyết quá trình tái tổ hợp VDJ 
gây bất thường quá trình sắp xếp T cell antigen 
Receptor (TCR) và B cell receptor (BCR), do đó 
tế bào T và B không được biệt hóa và trưởng 
thành trong khi NK phát triển bình thường. Mặt 
khác tuyến ức của những bệnh nhân này chứa 
rất nhiều tiền lympho bào T chưa trưởng thành 
và không có chức năng. Do đó, theo phác đồ 
ghép tế bào gốc của Hiệp hội Suy giảm miễn 
dịch tiên phát Châu Âu (ESID/EBMT) năm 
2017, bệnh nhân sẽ cần ̋điều kiện hóa tủy̋ 
trước ghép.4 Điều kiện hóa̋ tủy nhằm mục đích 
diệt các tế bào tiền lympho T, B và các tế bào 
NK trong tủy và tuyến ức nhằm mục đích cho 
mảnh ghép phát triển. 
Từ trước đến nay, ghép nửa thuận hợp 
thường được thực hiện theo phương pháp chọn 
lọc tế bào gốc CD34+ (CD34+ selection), nhiều 
nghiên cứu cho thấy phương pháp này có hiệu 
quả mọc mảnh ghép cao và ít biến chứng mảnh 
ghép chống vật chủ. Tuy nhiên, phương pháp 
này có hạn chế là thời gian mọc mảnh ghép 
và phục hồi miễn dịch chậm, làm tăng nguy cơ 
tử vong liên quan đến ghép (transplantation - 
related mortality). Các nghiên cứu gần đây đã 
chỉ ra nếu giảm số lượng tế bào lympho T ở 
mảnh ghép sẽ ngăn ngừa biến chứng GVHD 
cấp và mạn, ngay cả khi người cho/người nhận 
khác nhau toàn bộ HLA.5,6 Bênh cạnh đó, quần 
thể tế bào T nguyên thủy CD4 và CD8, quần 
thể lympho B, NK và tế bào mono mang dấu ấn 
màng tế bào CD45RA là những tế bào gây biến 
chứng GVHD. Sử dụng bộ kit CD3/CD45RA 
depletion sẽ loại bỏ toàn bộ tế bào lympho T 
(mang dấu ấn màng tế bào CD3) và tế bào T 
chưa hoạt hóa (CD45RA) làm giảm nguy cơ 
GVHD.7,8 
Trong phương pháp CD3/CD45RA 
depletion, khối tế bào gốc thu được từ người 
cho được chia làm 2 phần. Một phần lớn (chiếm 
9/10 khối tế bào gốc thu được ban đầu) được 
ủ với sinh phẩm có kháng thể anti - CD3, 1/10 
còn lại được ủ với anti - CD45RA. Các kháng 
thể này được gắn các hạt từ và gắn lên tế bào. 
Sản phẩm tế bào gốc sau khi ủ kháng thể được 
cho chạy qua cột từ, các tế bào lympho T hoặc 
lympho T chưa hoạt hóa bị giữ lại, các tế bào 
gốc CD34+ và một số tế bào khác có trong 
sản phẩm được thu hoạch. Khối sản phẩm thu 
được sau loại bỏ lympho T (CD3 depletion) đạt 
liều ghép tế bào gốc CD34+ 20,28 x 106 cell/
kg. Chúng tôi đã lấy một phần khối sản phẩm 
tế bào sau loại bỏ các tế bào lympho T chưa 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
155TCNCYH 131 (7) - 2020
hoạt hóa để đảm bảo số lượng tế bào lympho 
T truyền cho bệnh nhân đạt mức cho phép 2,5 
x 104 cell/kg trong khi đó liều lympho T nhớ đạt 
1 x 106 cell/kg. Trong nghiên cứu của Pai, 137/ 
240 ca ghép tế bào gốc cho bệnh nhân SCID 
sử dụng phương pháp loại bỏ tế bào T (T - cell 
depletion), chiếm 57%. Trong đó, 132 trường 
hợp ghép tế bào gốc từ người cho cùng huyết 
thống không phù hợp HLA, 3 trường hợp ghép 
từ anh chị ruột cùng huyết thống và 2 trường 
hợp còn lại ghép từ người cho không cùng 
huyết thống. Tỷ lệ sống của nhóm ghép tế bào 
gốc theo phương pháp loại bỏ tế bào T là 66%. 
9 Như vậy, ghép tế bào gốc nửa thuận hợp sử 
dụng bộ kit CD3/CD45RA depletion qua hệ 
thống CliniMacs có những ưu điểm như sau:10
Giảm nguy cơ GVHD do loại bỏ hầu hết 
các tế bào lympho T và lympho T chưa hoạt 
hóa; Không cần sử dụng các thuốc chống dự 
phòng GVHD mạnh vì tế bào lympho T gây biến 
chứng GVHD đã bị loại bỏ ra khỏi khối tế bào 
gốc; Sử dụng phác đồ điều kiện hóa tủy trước 
ghép đơn giản; Mảnh ghép mọc nhanh; Các tế 
bào lympho T nhớ CD45RO còn lại trong khối 
tế bào gốc có thể kích thích hệ miễn dịch của 
người nhận chống lại các căn nguyên nhiễm 
trùng ngay sau ghép.
Bệnh nhân trong nghiên cứu sử dụng bộ kit 
CD3/CD45RA depletion nên mảnh ghép mọc 
rất nhanh trong vòng 2 tuần sau ghép. Các kết 
quả đánh giá mọc mảnh ghép bằng kỹ thuật 
chimerism cũng cho thấy mảnh ghép mọc 
100% sau 18 ngày và ổn định. Do đó, chăm sóc 
cho bệnh nhân sau ghép đơn giản hơn, thời 
gian nằm viện sau ghép rút ngắn hơn. Bệnh 
nhân của chúng tôi có gặp biến chứng GVHD 
tuy nhiên ở mức độ nhẹ và đáp ứng tốt với các 
thuốc điều trị GVHD cơ bản là cyclosporin A và 
corticosteroid. 
V. KẾT LUẬN 
Ghép tế bào gốc tạo máu là biện pháp điều 
trị duy nhất để cứu sống bệnh nhân SCID. Nếu 
không điều trị, bệnh nhân không thể sống được 
đến 1 tuổi. Tuy nhiên, việc tìm người cho phù 
hợp HLA cho trẻ SCID tại Việt Nam vẫn chưa 
khả thi trong thời điểm hiện tại, do ngân hàng 
tủy sống và ngân hàng máu cuống rốn còn 
chưa phát triển. Do đó ghép tế bào gốc tạo máu 
theo phương pháp nửa thuận hợp HLA rất khả 
thi, do người cho là bố/mẹ đẻ bệnh nhân luôn 
sẵn có và mang lại kết quả tốt. Ghép tế bào 
gốc tạo máu nửa thuận hợp cần đưa vào quy 
trình điều trị cho bệnh nhân SCID tại các tuyến 
trung ương đồng thời mở rộng chỉ định sang 
các nhóm bệnh lý khác có nhu cầu ghép tế bào 
gốc tạo máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. van der Burg M, Gennery AR. 
Educational paper. The expanding clinical and 
immunological spectrum of severe combined 
immunodeficiency. European journal of 
paediatrics. 2011; 170(5): 561 - 571.
2. Brown L, Xu - Bayford J, Allwood Z et 
al. Neonatal diagnosis of severe combined 
immunodeficiency leads to signìicantly 
improved survival outcome: the case for 
newborn screening. Blood. 2011; 117(11): 3242 
- 6.
3. Bai X, Liu J, Zhang Z, et al. Clinical, 
immunologic, and genetic characteristics of 
RAG mutations in 15 Chinese patients with 
SCID and Omenn syndrome. Immunol Res. 
2015; 64(2):497 - 507.
4. ESID/EBMT. EBMT/ESID guidelines for 
haematopoietic stem cell transplantation for 
primary immunodeficiencies.2017.
5. Zecca M, Strocchio L, Pagliara E et al. 
HLA - haploidentical T cell - depleted allogeneic 
hematopoietic stem cell transplantation in 
children with Fanconi anemia. Biol Blood 
Marrow Transplant. 2014; 20(4): 571 - 576.
6. Bertaina A, Merli P, Rutella S. et al. HLA 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
156 TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
HLA-HAPLOIDENTICAL DONOR TRANSPLANTATION IN 
SEVERE COMBINE IMMUNODEFICIENCY: A CASE REPORT
Severe combine immunodeficiency disease (SCID) is a genetic disorder characterized by 
the disturbed development of functional T cells and B cells, consequently, adaptive immune 
system are impaired and patients are affected by severe bacterial, viral or fungal infections 
in early life. If untreated, these patients wuold be died within one year of age due to severe, 
recurrent infections. The curable treatment for SCID is HLA-matched hematopoetic stem cell 
transplantation. However, seeking for HLA-matched donor is difficult and requiring time when 
SCID patients are always in severe conditions. We reported a case of T-B-NK+ SCID that was 
transplanted used CD3/CD45RA depletion kit. Stem cells infusion were uneventful. Engraftment 
was around day D+14. Complications post- transplant were: infections, engraftment syndrome, 
CMV reactivation, aGVHD. Currently, patient is 2 years of age after transplant, complete 
chimerism without IVG infusion, normal mental and physical development, and no sign of cGVHD.
Keywords: SCID, transplant, HLA-haplo
- haploidentical stem cell transplantation after 
removal of αβ+ T and B cells in children with 
nonmalignant disorders. Blood. 2014; 124 (5): 
822 - 826.
7. Triplett BM, Shook DR, Eldridge P 
et al. Rapid memory T - cell reconstitution 
recapitulating CD45RA - depleted haploidentical 
transplant graft content in patients with 
hematologic malignancies. Bone Marrow 
Transplant. 2015; 50(7): 1012.
8. Touzot F, Neven B, Dal - Cortivo 
L et al. CD45RA depletion in HLA - 
mismatched allogeneic hematopoietic stem 
cell transplantation for primary combined 
immunodeficiency: A preliminary study. J Allergy 
Clin Immunol. 2015; 135(5): 1303 - 9 e1 - 3.
9. Pai SY, Logan BR, Griffith LM, et al. 
Transplantation outcomes for severe combined 
immunodeficiency, 2000 - 2009. N Engl J Med. 
2014; 371: 434 - 46.
10. Teschner D, Distler E, Wehler D et al. 
Depletion of naïve T - cells using clinical grade 
magnetic CD45RA beads: a new approach for 
GVHD prophylaxis. Bone Marrow Transplant. 
2014; 49(1): 138 - 44.

File đính kèm:

  • pdfghep_te_bao_goc_nua_thuan_hop_o_tre_suy_giam_mien_dich_tien.pdf