Ghép sụn sườn tự thân chữa biến dạng lỗ mũi cho bệnh nhân sau mổ khe hở môi vòm miệng

Từ năm 2016 đến năm 2020, chúng tôi nghiên cứu tiến cứu trên 25 bệnh nhân dị tật khe hở môi, vòm miệng một

bên còn tồn tại biến dạng mũi sau phẫu thuật tạo hình môi, vòm miệng. Mục tiêu là đánh giá sự cải thiện mức độ

bất cân xứng lỗ mũi sau phẫu thuật chữa các biến dạng này. Các mảnh ghép lấy từ sụn sườn số IV tự thân được

dùng trong phẫu thuật này. Bệnh nhân được chụp ảnh chuẩn nền mũi trước phẫu thuật, sau phẫu thuật, trục dài,

trục ngắn góc trục dài của lỗ mũi trên ảnh chuẩn được đo bằng phần mềm CorelDraw. Thời điểm 6 tháng sau

phẫu thuật, sự khác biệt kích thước trục dài, trục ngắn của lỗ mũi hai bên và góc của trục dài bên bệnh giảm có ý

nghĩa thống kê, tương ứng từ 17,51%; 50,34% và 81,3 độ xuống 8,63%; 15,14% và 44,9 độ. Mảnh ghép nguồn

gốc sụn sườn tự thân có tác dụng tốt trong phẫu thuật sửa chữa biến dạng mũi còn tồn tại ở các bệnh nhân này.

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Ghép sụn sườn tự thân chữa biến dạng lỗ mũi cho bệnh nhân sau mổ khe hở môi vòm miệng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ghép sụn sườn tự thân chữa biến dạng lỗ mũi cho bệnh nhân sau mổ khe hở môi vòm miệng

Ghép sụn sườn tự thân chữa biến dạng lỗ mũi cho bệnh nhân sau mổ khe hở môi vòm miệng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202068
 GHÉP SỤN SƯỜN TỰ THÂN CHỮA BIẾN DẠNG LỖ MŨI CHO 
BỆNH NHÂN SAU MỔ KHE HỞ MÔI VÒM MIỆNG
Tạ Trung Sơn¹, , Lê Ngọc Tuyến², Lê Văn Sơn³, Phạm Dương Châu⁴ 
1Bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức
2Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội
³ Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại học Y Hà Nội
⁴Khoa Răng Hàm mặt - Đại học Kinh doanh và Công nghệ
Từ năm 2016 đến năm 2020, chúng tôi nghiên cứu tiến cứu trên 25 bệnh nhân dị tật khe hở môi, vòm miệng một 
bên còn tồn tại biến dạng mũi sau phẫu thuật tạo hình môi, vòm miệng. Mục tiêu là đánh giá sự cải thiện mức độ 
bất cân xứng lỗ mũi sau phẫu thuật chữa các biến dạng này. Các mảnh ghép lấy từ sụn sườn số IV tự thân được 
dùng trong phẫu thuật này. Bệnh nhân được chụp ảnh chuẩn nền mũi trước phẫu thuật, sau phẫu thuật, trục dài, 
trục ngắn góc trục dài của lỗ mũi trên ảnh chuẩn được đo bằng phần mềm CorelDraw. Thời điểm 6 tháng sau 
phẫu thuật, sự khác biệt kích thước trục dài, trục ngắn của lỗ mũi hai bên và góc của trục dài bên bệnh giảm có ý 
nghĩa thống kê, tương ứng từ 17,51%; 50,34% và 81,3 độ xuống 8,63%; 15,14% và 44,9 độ. Mảnh ghép nguồn 
gốc sụn sườn tự thân có tác dụng tốt trong phẫu thuật sửa chữa biến dạng mũi còn tồn tại ở các bệnh nhân này. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Biến dạng lỗ mũi, sụn sườn
Mất cân xứng hình dạng lỗ mũi bên bệnh và 
bên lành còn tồn tại sau phẫu thuật tạo hình môi, 
vòm miệng là đặc điểm phổ biến ở các bệnh 
nhân mắc dị tật khe hở môi,vòm miệng một bên 
(unilateral cleft lip and palate).1,2,3 Trục lỗ mũi 
bên bệnh (affected side) xu hướng nằm ngang 
so với bên lành (unaffected side). Đường viền 
lỗ mũi bên bệnh biến dạng rộng hơn và phẳng 
hơn.4,5,6 Nguyên nhân chính là do ở bên bệnh, 
sụn cánh bên dưới (lower lateral cartilage) yếu 
bẩm sinh, biến dạng giải phẫu của trụ ngoài 
(lateral crus) và trụ mũi co ngắn.5,7
 Ảnh chuẩn tư thế nền mũi (basal view) được 
nhiều tác giả sử dụng để đo các kích thước đánh 
giá sự mất cân xứng hình dạng viền lỗ mũi bên 
lành so với bên bệnh, tuy nhiên với các điểm 
mốc và phương pháp đo khác nhau. M. Heller 
đo chiều cao, chiều rộng lỗ mũi 2 bên8 trong khi 
Wei CAO sử dụng phần mềm CAD đo trục dài, 
trục ngắn và diện tích của hình e lip mô phỏng 
hình dạng viền lỗ mũi.5 Trần Thị Anh Tú phân tích 
chiều cao, chiều ngang lỗ mũi, và độ lớn góc tạo 
bởi trục lỗ mũi với đường giữa.⁹
 Các chất liệu tự thân như sụn tai sụn vách 
ngăn và chất liệu nhân tạo Silicone và Endotine 
ribbon được sử dụng trong phẫu thuật với kỳ 
vọng đạt được hình dạng cân xứng của lỗ mũi 
bên lành và bên bệnh.5,10,11,12 Sụn tai và sụn vách 
ngăn có nhược điểm là mỏng, yếu và cong. 
Lượng sụn lấy được cũng hạn chế nhất là sụn 
vách ngăn ở người Châu Á và đặc biệt hạn chế 
ở các bệnh nhân dị tật bẩm sinh khe hở môi, 
Tác giả liên hệ: Tạ Trung Sơn, 
Bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức - TP Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 69
vòm miệng. Thực tế đó cho thấy sửa chữa hình 
thái biến dạng này vẫn đang là thử thách lớn đối 
với các phẫu thuật viên. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng 
sụn sườn VI tự thân làm vật liệu ghép trụ mũi 
(collumellar strut graft), ghép trụ ngoài (lateral 
crural strut graft) của sụn cánh bên dưới bên 
bệnh, làm vững cấu trúc giải phẫu hệ thống sụn 
nâng đỡ đỉnh mũi, làm cân xứng hình dạng lỗ mũi 
bên lành và bên bệnh. Nẹp silicone được dùng 
như dụng cụ cố định trong (intranasal splint) để 
duy trì bền vững kết quả sửa chữa biến dạng. 
Mục tiêu nghiên cứu là lượng giá biến dạng 
lỗ mũi và đánh giá sự cải thiện mức độ bất cân 
xứng lỗ mũi sau phẫu thuật ghép sụn sườn tự 
thân chữa các biến dạng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân dị tật khe hở môi và vòm miệng 
một bên; đã được phẫu thuật tạo hình môi, vòm 
miệng; còn tồn tại biến dạng lỗ mũi.
 Tiêu chuẩn lựa chọn: Từ 15 tuổi trở lên; Đã 
được phẫu thuật ghép xương ổ răng, đóng lỗ 
thông vòm miệng, nắn chỉnh răng
Tiêu chuẩn loại trừ: Các bệnh nhân đã phẫu 
thuật sửa biến dạng mũi.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu can 
thiệp lâm sàng, không đối chứng.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2016 đến 
tháng 05/2020
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại Khoa Phục hình hàm mặt, Bệnh viện 
Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu ngẫu nhiên thuận tiện. Cỡ mẫu 25 bệnh 
nhân.
Kỹ thuật chụp ảnh chuẩn: Bệnh nhân được 
chụp ảnh chuẩn hóa tư thế nền mũi (basal view) 
bằng máy ảnh Sony Super Steady Shot 5.1 
Megapixels. Tiêu cự không đổi 50 mm. Bệnh 
nhân ngồi cách máy ảnh 1,5 mét. Người phụ 
dùng thước với 3 trục vuông góc và quả dọi để 
hướng dẫn và điều chỉnh bệnh nhân ngửa đầu 
ra sau sao cho đường thẳng tưởng tượng đi qua 
đồng tử và bờ trên vành tai ngoài song song với 
dây dọi. Đường thẳng nối 2 đồng tử song song 
với 1 trục của thước và song song với phương 
ngang.
Đo các kích thước của lỗ mũi trên ảnh chuẩn: 
Hình 1. Đo kích thước trục ngắn, trục dài 
và góc trục dài của lỗ mũi trước phẫu thuật 
trên ảnh tư thế nền mũi (basal view) bằng 
phần mềm CorelDraw X7
Đường viền lỗ mũi bên lành và bên bệnh 
trên ảnh nền mũi của bệnh nhân được giả định 
như 2 hình elip với trục dài và trục ngắn là trục 
của lỗ mũi tương ứng (Hình 1). 
Hình 2. Đo kích thước trục ngắn, trục dài và 
góc trục dài của lỗ mũi 12 tháng sau phẫu thuật
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202070
Góc trục dài là góc tạo bởi 1 cạnh là trục 
dài, cạnh còn lại là đường thẳng vuông góc với 
đường nối 2 đồng tử. Kích thước trục dài, trục 
ngắn, độ lớn góc trục dài của lỗ mũi 2 bên được 
đo trên ảnh nền mũi chụp tại thời điểm trước và 
sau phẫu thuật bằng phần mềm CorelDraw X7 
(Hình 2) 
Quy trình phẫu thuật:
Phẫu thuật lấy sụn sườn: Đường rạch ngang 
dài 3 - 5 cm ngay trên sụn sườn VI bên phải. 
Rạch da, tách các lớp cơ thẳng bụng bóc tách 
màng sụn. Dùng cây bóc tách Freer để tách và 
lấy sụn.
Tạo mảnh ghép từ sụn sườn: Mảnh ghép 
sụn trụ mũi dày khoảng 3,5 mm; rộng 5 - 7 mm; 
dài 30 - 35 mm. Mảnh ghép trụ ngoài hình chữ 
nhật dày 1,5 mm; rộng 3 mm dài bằng chiều 
dài trụ ngoài sụn cánh mũi bên dưới bên lành.
Phẫu thuật mũi mở và ghép sụn: Đường 
rạch ngang trụ mũi hình chữ V ngược. Đường 
rạch niêm mạc tiền đình mũi song song đường 
viền lỗ mũi. Bộc lộ sụn bên dưới.
Hình 3. Kỹ thuật ghép trụ mũi và ghép trụ 
bên của sụn cánh bên dưới bên bệnh. A. 
Biến dạng giải phẫu của lỗ mũi, cánh mũi, 
trụ giữa và trụ bên của sụn cánh bên dưới 
trước phẫu thuật sửa biến dạng. B. Sau khi 
ghép trụ mũi và ghép trụ bên 
Ghép sụn trụ mũi: Đặt mảnh ghép trụ mũi 
vào giữa hai trụ giữa (Hình 3). Điều chỉnh vị trí 
khâu treo trụ giữa của sụn cánh bên dưới của 
bên lành và bên bệnh vào mảnh ghép trụ mũi 
sao cho phức hợp sụn này được dựng vuông 
góc với đường nối chân cánh mũi 2 bên. Sử 
dụng thước đo góc vuông để kiểm tra kết quả. 
Ghép sụn trụ bên: Bóc tách sụn cánh bên 
dưới từ điểm đỉnh đến trụ ngoài để giải phóng 
hoàn toàn trụ ngoài và thấy rõ ràng mức độ sai 
lệch vị trí, biến dạng cong lõm của sụn cánh 
bên dưới bên bệnh. Đặt và khâu mảnh ghép 
trụ bên nằm giữa trụ bên và da tiền đình mũi 
bên bệnh (Hình 3). Độ dài mảnh ghép trụ bên 
được cắt chỉnh tùy thuộc độ dài trụ bên của bên 
lành. Mảnh ghép này kéo dài từ trụ giữa đến trụ 
bên của bên bệnh để làm vững, khắc phục độ 
cong lõm và sự yếu của trụ bên. Điều chỉnh vị 
trí khâu sao cho hướng của phức hợp trụ bên 
mới được ghép này đối xứng với hướng trụ bên 
của bên lành.
Phủ lại vạt da trụ mũi đảm bảo khi khâu 
đóng đường rạch trụ mũi không căng. Kiểm tra 
độ vuông góc của trụ mũi bằng thước đo góc 
vuông.
Hình 4. Nẹp silicone cố định trong mũi 
(intranasal splint) sau phẫu thuật
Chọn 1 nẹp silicone cố định trong mũi 
(intranasal splint) từ cỡ A9 đến cỡ A12 sao 
cho phù hợp để khi lắp nẹp, phẫu thuật viên 
quan sát được viền lỗ mũi 2 bên ôm sát khít 
nẹp (Hình 4).
Khâu đóng đường rạch viền và đường rạch 
da trụ mũi.
Lắp nẹp silicone cố định trong mũi 
3. Xử lý số liệu
 Sự bất cân xứng hình dạng viền lỗ mũi 
được đánh giá bằng so sánh mức độ bất cân 
xứng kích thước tương ứng: trục dài, trục ngắn, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 71
góc trục dài.
 Mức độ bất cân xứng (%) cho từng loại kích 
thước của lỗ mũi bên lành và bên bệnh được 
tính theo công thức:
( Y
X 1) 100%-= #
Trong đó: 
X: Kích thước bên lỗ mũi đo được có giá trị 
lớn hơn
Y: Kích thước có giá trị nhỏ hơn tương ứng 
của lỗ mũi bên còn lại
Mức độ bất cân xứng = 0% khi lỗ mũi 2 
bên có sự cân xứng tuyệt đối của 1 kích thước 
tương ứng.
So sánh sự khác biệt này tại 3 thời điểm: 
trước khi phẫu thuật, 6 tháng và 12 tháng tái 
khám sau phẫu thuật để đánh giá sự cải thiện 
mức độ bất cân xứng lỗ mũi sau phẫu thuật.
Kiểm định sự khác biệt mức độ bất cân xứng 
các kích thước của lỗ mũi bằng so sánh các 
giá trị của các biến cần thiết, sử dụng Wilcoxon 
Signed-Rank Test vì cỡ mẫu nhỏ, giá trị của các 
biến không tuân theo phân bố chuẩn. Xử lý số 
liệu bằng phần mềm SPSS 16.0
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học 
Trường Đại học Y Hà Nội thông qua. Giấy 
chấp thuận Đạo đức Nghiên cứu số 187/
HĐĐĐHYHN cấp ngày 20 tháng 2 năm 2016.
Các tác giả không có xung đột lợi ích với 
các cá nhân và các tổ chức liên quan đến 
nghiên cứu này.
III. KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu có 25 bệnh nhân trong đó có 17 nữ và 8 nam. Độ tuổi từ 15 đến 32 tuổi. Tuổi 
trung bình 19,6 tuổi.
1. Mức độ bất cân xứng kích thước trục ngắn của lỗ mũi bên lành và bên bệnh tại các thời 
điểm trước và sau phẫu thuật
Bảng 1. So sánh mức độ chênh lệch trung bình (%) kích thước trục dài, trục ngắn của lỗ 
mũi bên lành với bên bệnh tại các thời điểm trước phẫu thuật và sau phẫu thuật sửa biến 
dạng mũi với kết quả nghiên cứu của Wei CAO và cộng sự
Kích 
thước
Trước phẫu thuật
3 tháng sau 
phẫu thuật
6 tháng sau 
phẫu thuật
 12 tháng sau phẫu thuật
 Wei CAO 
và CS
Tạ Trung Sơn 
và CS
Wei CAO 
và CS
Tạ Trung Sơn 
và CS
Wei CAO
và CS
Tạ Trung 
Sơn và CS
Trục dài 21 ± 11 17,51 ± 11,4 9 ± 8 8,63 ± 9,5 9 ± 9 9,28 ± 9,5
Trục ngắn 21 ± 13 50,34 ± 37,3 18 ± 14 15,14 ± 14 19 ± 15 12,46 ± 13
Bảng 2. Kết quả kiểm định mức độ chênh lệch (%) kích thước trục ngắn, trục dài của lỗ mũi 
bên lành với kích thước trục ngắn, trục dài tương ứng của bên bệnh tại các thời điểm trước 
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật bằng Wilcoxon Signed-Rank Test 
Kích thước Trước phẫu thuật 6 tháng sau phẫu thuật Giá trị p
Trục ngắn 50,34± 37,3 15,14 ± 14,0 p < 0,05
Trục dài 17,51± 11,4 8,63 ± 9,5 0,011
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202072
Mức độ bất cân xứng kích thước trục ngắn 
trước phẫu thuật của lỗ mũi bên lành và bên 
bệnh là 50,34 %. Sau phẫu thuật 6 tháng, mức 
độ bất cân xứng giảm đáng kể, xuống còn 
15,14 % (Bảng 1). Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05 (Bảng 2). Mặc dù mức 
độ bất cân xứng kích thước trục ngắn có xu 
hướng tiếp tục giảm khi đạt giá trị 12,46 % tại 
thời 12 tháng sau phẫu thuật, nhưng so với 
thời điểm sau phẫu thuật 6 tháng thì sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 
0,353 (Bảng 3).
Bảng 3. Kết quả kiểm định mức độ chênh lệch (%) kích thước trục ngắn, trục dài của lỗ 
mũi bên lành với kích thước trục ngắn, trục dài tương ứng của bên bệnh tại các thời điểm 6 
tháng sau phẫu thuật và 12 tháng sau phẫu thuật bằng Wilcoxon Signed-Rank Test
Kích thước 6 tháng sau phẫu thuật 12 tháng sau phẫu thuật Giá trị p 
Trục ngắn 15,14 ± 14 12,46 ± 13 0,353
Trục dài 8,63 ± 9,5 9,28 ± 9,5 0,819
 2. Mức độ bất cân xứng kích thước trục 
dài của lỗ mũi bên lành và bên bệnh tại các 
thời điểm trước và sau phẫu thuật
Trước phẫu thuật, mức độ bất cân xứng 
kích thước trục dài của lỗ mũi bên lành và bên 
bệnh là 17,51%. Đến thời điểm 6 tháng sau 
phẫu thuật, mức độ bất cân xứng kích thước 
trục dài giảm rõ rệt xuống chỉ còn 8,63% (Bảng 
1). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 
0,011 (Bảng 2). Tại thời điểm 12 tháng sau phẫu 
thuật, mức độ bất cân xứng kích thước trục dài 
tăng nhẹ và đạt giá trị 9,28 %. Tuy nhiên, so với 
thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật thì sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,819 
(Bảng 3).
3. Sự thay đổi độ lớn góc trục dài của lỗ 
mũi bên lành và bên bệnh tại các thời điểm 
trước và sau phẫu thuật
Bảng 4. Kết quả kiểm định so sánh độ lớn góc trục dài (độ) của lỗ mũi bên lành và bên 
bệnh tại các thời điểm trước phẫu thuật và sau phẫu thuật bằng Wilcoxon Signed-Rank Test 
Góc trục dài Bên lành Bên bệnh Giá trị p
Trước phẫu thuật 84,9 ± 32,32 81,3 ± 22,62 0,493
6 tháng sau phẫu thuật 34,9 ± 13,41 44,9 ± 29,82 0,026
12 tháng sau phẫu thuật 37,5 ± 16,78 44,8 ± 28,36 0,231
Thời điểm trước phẫu thuật, góc trục dài 
bên lành và bên bệnh có độ lớn trung bình lần 
lượt là 84,9 độ và 81,3 độ. Kiểm định Wilcoxon 
Signed-Rank Test cho thấy sự khác biệt góc 
trục dài bên lành và bên bệnh không có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,493.
 Đến thời điểm 6 tháng sau mổ, góc trục dài 
của lỗ mũi bên lành giảm mạnh xuống thành 
góc 34,9 độ, góc nhọn hơn so với thời điểm 
trước mổ. Góc trục dài của lỗ mũi bên bệnh 
cũng cùng xu hướng giảm xuống còn 44,9 độ 
(Bảng 4). Kiểm định Wilcoxon Signed-Rank 
Test cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,05. Cũng tại thời điểm này, độ lớn góc 
trục dài của lỗ mũi bên lành và bên bệnh có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,026.
 Mặc dù độ lớn trung bình góc trục dài lỗ mũi 
bên lành có sự tăng từ 34,9 độ thời điểm sau 
mổ 6 tháng lên 37,5 độ tại thời điểm sau mổ 12 
tháng, tuy nhiên, kiểm định Wilcoxon Signed-
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 73
Rank Test cho thấy sự khác biệt này không có 
ý nghĩa thống kê với p = 0,065. Góc trục dài 
lỗ mũi bên bệnh thời điểm 6 tháng sau mổ so 
với thời điểm 12 tháng sau mổ cũng khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,563.
Tại thời điểm 12 tháng sau phẫu thuật, sự 
khác biệt độ lớn góc trục dài lỗ mũi bên lành 
và bên bệnh không có ý nghĩa thống kê vì kiểm 
định Wilcoxon Signed-Rank Test cho giá trị p = 
0,231.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu tiến cứu cho thấy biến 
dạng lỗ mũi còn tồn tại ở các bệnh nhân khe 
hở môi, vòm miệng một bên sau phẫu thuật tạo 
hình môi vòm miệng có đặc điểm là góc trục dài 
của lỗ mũi gần vuông, trục dài của lỗ mũi có xu 
hướng nằm ngang. Có sự chênh lệch kích thước 
của trục ngắn của lỗ mũi bên bệnh so với bên 
lành gây ra mức độ bất cân xứng rõ rệt. Trục dài 
của lỗ mũi bên bệnh so với bên lành cũng có sự 
chênh lệch về kích thước. Tuy nhiên, mức độ bất 
cân xứng ít hơn. Sau phẫu thuật ghép trụ mũi và 
ghép trụ ngoài của sụn cánh bên dưới bên bệnh 
với chất liệu ghép được lấy từ sụn sườn VI tự 
thân, mức độ bất cân xứng của cả trục ngắn và 
trục dài giảm mạnh, lỗ mũi bên lành và bên bệnh 
cân xứng hơn với góc trục dài nhọn hơn có độ 
lớn khá tương đồng.
Trong nghiên cứu của Wei CAO⁵ mức độ 
bất cân xứng kích thước trục ngắn trước phẫu 
thuật của lỗ mũi bên lành và bên bệnh trước 
phẫu thuật thấp hơn nhiều so với kết quả chúng 
tôi thu được. Điều này cho thấy đối tượng dị tật 
khe hở môi và vòm miệng một bên trong nghiên 
cứu của chúng tôi có mức độ biến dạng lỗ mũi 
bên bệnh nghiêm trọng hơn nhóm đối tượng 
Wei CAO nghiên cứu là các bệnh nhân có dị 
tật khe hở môi 1 bên. Biến dạng loại này cũng 
đã được H. Steve Byrd và cộng sự mô tả và cho 
rằng nguyên nhân của hiện tượng này là do hiện 
tượng yếu bẩm sinh của sụn cánh bên dưới phía 
bên bệnh13 dẫn đến sự biến dạng và sai lệch vị 
trí, trụ giữa bị nén ép tách rời trụ mũi so với bên 
lành. Biến dạng giải phẫu khiến cho trụ ngoài 
xoắn vặn hợp với trụ giữa một góc tù, trục lỗ 
mũi bên bệnh xu hướng nằm ngang, đường viền 
lỗ mũi bên bệnh biến dạng rộng hơn và phẳng 
hơn.4,5,6 Lê Đức Tuấn cũng báo cáo tỷ lệ biến 
dạng xẹp cánh mũi bên bệnh, lỗ mũi mất cân 
xứng là 92,13 %; Tỷ lệ lỗ mũi bên bệnh hẹp là 
11,81%. Tác giả nhận xét mức độ biến dạng mũi 
bên bệnh tỷ lệ thuận với mức độ nặng của dị tật 
khe hở môi - vòm miệng.10
Phẫu thuật sử dụng vạt lấy từ sụn tự thân 
ghép cho trụ ngoài cánh mũi bên bệnh có khả 
năng mang lại sự cân xứng cho lỗ mũi nhờ 
vào việc sửa chữa nguyên nhân chính là biến 
dạng giải phẫu của trụ ngoài của sụn cánh bên 
bệnh. Trụ ngoài của sụn cánh bên dưới bên 
bệnh thiểu sản bẩm sinh, thiếu độ cứng chắc và 
đàn hồi, ngắn hơn và mỏng hơn trụ ngoài bên 
lành, tạo nên hình dạng cuộn yếu ớt làm lỗ mũi 
bị biến dạng xẹp xuống theo chiều ngang, giảm 
kích thước trục ngắn so với bên lành.14,15 Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng vạt trụ ngoài 
được lấy từ nguồn cho là sụn sườn VI để tăng 
cường chức năng nâng đỡ cho trụ ngoài bên 
bệnh và cải thiện hình dạng lỗ mũi bên bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, góc trục dài 
bên lành và bên bệnh tại thời điểm trước phẫu 
thuật có độ lớn gần với góc vuông cho thấy biến 
dạng giải phẫu của sụn cánh bên dưới làm giảm 
chiều cao của trụ mũi 5,7 không những làm cho 
trục lỗ mũi bên bệnh xu hướng nằm ngang mà 
còn kéo theo trục dài của lỗ mũi bên lành cũng 
có hướng ngang. Góc trục dài của lỗ mũi bên 
lành và bên bệnh giảm mạnh trong 6 tháng sau 
phẫu thuật chứng tỏ phẫu thuật chữa biến dạng 
lỗ mũi có tác dụng thay đổi hướng trục dài của 
lỗ mũi bên bệnh và bên lành từ hướng gần nằm 
ngang thành góc nhọn hơn khi hợp với mặt 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202074
phẳng đứng dọc. Để có kết quả này, chúng tôi 
sử dụng mảnh ghép sụn trụ mũi đủ cứng chắc 
để có thể khâu treo trụ giữa bên lành và trụ giữa 
bên bệnh tăng chiều cao trụ mũi, tạo ra góc trục 
dài có độ lớn khá gần với độ lớn góc tạo bởi 
trục của tiểu đơn vị vòm (vùng chuyển tiếp giữa 
trụ trong và trụ ngoài của sụn cánh bên dưới) ở 
người Việt trưởng thành là 45 độ so với đường 
giữa mà tác giả Nguyễn Thanh Vân công bố.16 
Theo báo cáo của Trần Thị Anh Tú,⁹ ở người 
Việt trưởng thành, trụ mũi có độ dày 7 mm và độ 
dài mũi 42 mm, vì vậy chúng tôi cần mảnh ghép 
trụ mũi có độ dày 2,5 mm, rộng 3 mm và độ dài = 
3/5 chiều dài mũi17 tương đương 25 đến 30 mm. 
Với yêu cầu về kích thước mảnh ghép trụ mũi 
như vậy nên chúng tôi đã chọn nguồn cho là sụn 
sườn VI tự thân vì sụn loa tai và sụn vách ngăn 
đều mỏng, yếu, hạn chế về khối lượng.18
 Một số phương pháp can thiệp khác nhau 
để sửa chữa biến dạng lỗ mũi mang lại hiệu 
quả cũng khác nhau. Trong nghiên cứu của Lei 
Zhang,11 biến dạng của lỗ mũi bên bệnh được 
can thiệp phẫu thuật sửa chữa khá đơn giản : 
bóc tách và nâng trụ trong của sụn cánh bên 
dưới bên bệnh trở lại vị trí bình thường và khâu 
treo với sụn cánh bên dưới bên lành. Kết quả 
sau phẫu thuật được đánh giá bằng cảm nhận 
chủ quan của bệnh nhân với mức hài lòng đạt 
46% và tỷ lệ thất vọng với kết quả là 23%. Ju 
Young Go19 báo cáo sử dụng đường rạch chữ U 
ngược (reverse-U incision) và kỹ thuật vạt mạng 
(web graft technique) cho 13 bệnh nhân sửa 
chữa biến dạng lỗ mũi được mô tả như mạng 
cánh- trụ mũi (the alar-columella web). Vạt mạng 
được lấy từ sụn cánh bên lành hoặc sụn loa tai 
có tác dụng như một vạt viền cánh mũi nhưng 
chỉ nằm ở phần giữa của viền cánh mũi nâng 
đỡ niêm mạc tiền đình mũi bên bệnh và nếp da 
mới. Kết quả sau phẫu thuật có 77% bệnh nhân 
đạt kết quả tốt, hài lòng về tính cân xứng của lỗ 
mũi. Biến dạng thòng xuống của đường viền 
cánh mũi được khắc phục. Sụn vách ngăn và 
sụn loa tai tự thân được Đỗ Quang Hùng⁶ sử 
dụng làm chất liệu ghép trụ mũi, cánh mũi cho 
15 bệnh nhân để khắc phục biến dạng lỗ mũi 
bên bệnh rộng, nằm ngang, trụ mũi ngắn. Ghép 
sụn sườn tự thân chỉ được dùng cho số lượng 
ít là 3 bệnh nhân. Kết quả đạt tỷ lệ tốt là 88,2 % 
với thời gian theo dõi kết quả là 14 ngày. Chúng 
tôi thấy rằng khoảng thời gian này là quá ngắn 
để có thể đánh giá kết quả ổn định của phẫu 
thuật sửa chữa biến dạng mũi. 
Bên cạnh phương pháp lượng giá khách 
quan biến dạng lỗ mũi bằng đo trên ảnh chuẩn 
hóa hoặc đo trực tiếp,5,6,8,11 cho ra các kết quả 
định lượng rõ ràng, còn có các phương pháp 
đánh giá biến dạng mũi được sử dụng phổ biến 
là liệt kê, mô tả biến dạng trụ mũi, cánh mũi, lỗ 
mũi để phân loại mức độ biến dạng nặng, nhẹ 
hoặc sử dụng bộ câu hỏi ROE (Rhinoplasty 
Outcome Evaluation) để bệnh nhân tự đánh giá 
đặc điểm mũi của mình về mặt thẩm mỹ.1,7,19 
Chúng tôi không chọn sử dụng nhóm phương 
pháp này vì rõ ràng kết quả nghiên cứu bị ảnh 
hưởng bởi cảm nhận chủ quan của người đánh 
giá. 
Bên cạnh tác dụng duy trì khả năng thở mũi 
trong thời gian hậu phẫu, chống lại sự chèn ép 
do hiện tượng phù nề niêm mạc mũi, giảm nguy 
cơ chảy máu của nẹp silicone cố định trong mũi 
(intranasal splint), chúng tôi nhận thấy đây là 
phương tiện rất hữu ích để duy trì bền vững 
kết quả sửa chữa biến dạng lỗ mũi. Nẹp silicone 
cố định trong mũi có tác dụng chống lại hiện 
tượng biến dạng, hẹp tái phát của lỗ mũi sau 
phẫu thuật.5,20 Theo Cohen M và cộng sự, nẹp 
mũi cần được duy trì ít nhất 3 tháng để hỗ trợ 
quá trình thích ứng của vạt sụn sườn tự thân và 
duy trì đường viền mới tái tạo của hình dạng lỗ 
mũi đồng thời đẩy nhanh quá trình hàn gắn niêm 
mạc tiền đình mũi với vạt sụn sườn.21 Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi hướng dẫn bệnh nhân 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 75
sử dụng nẹp silicone cố định trong mũi trong thời 
gian 6 tháng sau phẫu thuật với mục đích phòng 
ngừa sự biến dạng thứ phát có thể xảy ra. Nẹp 
mũi trong có thể chỉ đơn giản là ống silicone 
hoặc chế tạo thủ công bằng nhựa acrylic.5,10,22 
Chúng tôi sử dụng nẹp silicone cố định trong 
với các cỡ có kích thước tăng dần A9 đến A12, 
có khả năng duy trì viền lỗ mũi bên lành và bên 
bệnh sau phẫu thuật như 2 hình elipe cân xứng 
với góc trục dài và hình dạng viền lỗ mũi tương 
đồng với dạng lỗ mũi ở người Việt trưởng thành 
theo báo cáo của Trần Thị Anh Tú.⁹
Nghiên cứu của chúng tôi còn có một số hạn 
chế do cỡ mẫu nhỏ, thời gian theo dõi ngắn, 12 
tháng là khoảng thời gian tối thiểu để theo dõi 
tác động co kéo của sẹo sau phẫu thuật. Cần 
có thêm các nghiên cứu đánh giá thay đổi chức 
năng thở của mũi sau phẫu thuật chữa biến 
dạng.
V. KẾT LUẬN
Biến dạng lỗ mũi tồn tại ở các bệnh nhân 
sau mổ tạo hình môi,vòm miệng một bên có 
đặc điểm lỗ mũi bên bệnh biến dạng xẹp, trục 
lỗ mũi nằm ngang. Mất cân xứng lỗ mũi bên 
lành và bên bệnh. 
Phẫu thuật sử dụng sụn sườn VI tự thân làm 
vật liệu ghép trụ mũi, ghép trụ ngoài của sụn 
cánh bên dưới phía bên bệnh có hiệu quả rõ 
rệt trong việc sửa chữa biến dạng của lỗ mũi, 
làm giảm sự bất cân xứng hình dạng lỗ mũi bên 
lành và bên bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vass Gea. Secondary correction of nasal 
deformities in cleft lip and palate patients: surgical 
technique and outcome evaluation. Head & face 
medicine 2016;12: 34. 
2. Mimis Cohen, Joseph L. Daw. Secondary 
Unilateral Cleft Lip Nasal Deformity:Functional 
and Esthetic Reconstruction. Head & face 
medicine. 2016; 12:34. 
3. Cohen M, Morris DE, White AD, Patel P. 
Functional and aesthetic correction of secondary 
unilateral cleft lip nasal deformities. Indian J 
Plast Surg. Oct 2009; 42 Suppl:S91-S101. 
doi:10.4103/0970-0358.57195
4. Bassyouni HMTFK. Rhinoplasty in 
unilateral cleft lip nasal deformity. The Journal of 
Laryngology and Otology. 2000;114:189-193. 
5. Wei Cao MX, Fang Zhou, You ping, Li 
Huang. Lateral Crus Graft with Autologous 
Rib Cartilage for Cleft Lip Nostril Asymmetry: 
A Report of 35 Cases. Springer-Verlag Berlin 
Heidelberg. 2014, 387 - 392. 
6. Đỗ Quang Hùng, Trần Thị Bích Liên, Lê 
Hoàng Vĩnh. Đánh giá kết quả phương pháp tạo 
hình mũi bằng sụn tự thân trên bệnh nhân đã 
phẫu thuật khe hở môi một bên tại khoa phẫu 
thuật tạo hình thẩm mỹ bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp 
chí Y học thảm họa và bỏng. 2015; 2: 281 - 286. 
7. Steve Byrd H, Arjang Yazdani. Definitive 
Repair of the Unilateral Cleft Lip Nasal Deformity. 
Plast Reconstr Surg. 2007; 120: 1348, 2007. 
8. M. Heller, Mueller, M. Thorwarth, Schultze-
Mosgau. Clinical-Anthropometric and Aesthetic 
Analysis of Nose and Lip in Unilateral Cleft Lip 
and Palate Patients. Cleft Palate–Craniofacial 
Journal. 2011; 48 (4): 388 - 393. 
9. Trần Thị Anh Tú. Nghiên cứu đặc điểm 
hình thái cấu trúc tháp mũi người Việt Nam 
trưởng thành. Luận án Tiến sĩ Y học. 2003, Đại 
học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
10. Lê Đức Tuấn. Nghiên cứu sửa chữa 
những biến dạng môi-mũi sau phẫu thuật khe 
hở môi một bên bẩm sinh. Luận án tiến sĩ Y học, 
Y Dược Lâm Sàng 2004.
11. Lei Zhang, Zeng-jian Li, Qiang Liu, et al. 
Anthropometric Analysis of the Maxillary Bone 
and the Alar Base in Unilateral Cleft Lip With 
Secondary Nasal Deformity: Classification of 
a Piriform Margin Bony Depression. The Cleft 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202076
Palate–Craniofacial Journal, 2014 1(51): 23 – 29 
12. Nguyễn Thành Nhân. Nghiên cứu tạo 
hình nâng mũi bằng mô tự thân phối hợp với vật 
liệu nhân tạo. Luận án tiến sĩ Y học. 2016; Viện 
nghiên cứu khoa học Y- Dược lâm sàng 108. 
13. Steve BH, Arjang Yazdani. Definitive 
Repair of the Unilateral Cleft Lip Nasal Deformity. 
Plast Reconstr Surg. 2007; 120: 1348. 
14. Saleh MA, Elshahat A, Emara M, et al. 
Objective tools to analyze the lower lateral 
cartilage in unilateral cleft lip nasal deformities. 
J Craniofac Surg. Jul 2011; 22(4): 1435 - 9. 
doi:10.1097/SCS.0b013e31821d17d3
15. Sykes JM JY. Cleft lip rhinoplasty. Facial 
Plast, 2009; 17: 133 - 144. 
16. Nguyễn Thanh Vân, Lê gia Vinh, Trần 
Ngọc Anh. Đặc điểm giải phẫu điểm đỉnh sụn 
cánh lớn trên người Việt trưởng thành. Tạp chí 
Y học Việt Nam. 2014; 11: 46 - 51. 
17. Eibestar MF, Gharib FM. Assessment of 
nasal tip projection. Egypt J Otolaryngol 2015; 
31: 105 -110. 
18. Rohrich, Ha RY. The alar contour graft: 
correction and prevention of alar rim deformities 
in rhinoplasty. Plast Reconstr Surg. 2002; 109: 
2495 - 2505 
19. Lim Ksosy. The Correction of Alar–
Columella Web Deformities in Unilateral Cleft-
Lip Nasal Deformities with Web Graft Technique. 
Aesth Plast Surg. 2014;(38):923–929. Springer. 
20. Yeow VK et al. The use of nasal splints in 
the primary management of unilateral cleft nasal 
deformity. Plast Reconstr Surg. 1999; 103: 1347 
- 1354. 
21. Cho BC LJ, Cohen M, et al. Surgical 
correction of unilateral cleft lip nasal deformity. 
Craniofac Surg, 1998;9:20-29. 
22. Rathee et al. Nasal stent for nasal cleft 
deformity. North American Journal of Medical 
Sciences. 2015; 7: 73 - 76.
Summary
CORRECTIVE SURGERY OF RESIDUAL NOSTRIL 
DEFORMITIES USING AUTOLOGOUS RIB CARTILAGE IN 
CLEFT LIP AND PALATE PATIENTS AFTER CHEILOPLASTY 
AND PALATOPLASTY
From 2016 to 2020, we conducted a prospective study on 25 consecutive unilateral cleft lip 
and palate patients with residual nostrils deformities after cheiloplasty and palatoplasty. The 
purpose was to evaluate the improvement of those asymmetric nostrils shape after the corrective 
operation. Grafts from the sixth autologous rib cartilage were used in the operation. Standardized 
photographs in the basal view of the patients were taken before and after the operation. The 
long and the short axes, and the angle of the long axis of the nostrils on these photographs 
were measured by CorelDraw software. The differences in parameters of the long axes, the 
short axes on the two sides of the nostrils and the angle of the long axis on the affected side 
decreased significantly from 17,51%; 50,34% and 81,3° to 8,63%; 15,14% and 44,9° respectively 
after six month post-operation. We concluded that grafts from autologous rib cartilage could be 
effective in corrective operation of the nostril residual deformities in cleft lip and palate patients.
Key words: Nostril deformities, rib cartilage

File đính kèm:

  • pdfghep_sun_suon_tu_than_chua_bien_dang_lo_mui_cho_benh_nhan_sa.pdf